CHƯƠNG 17
Cánh cửa khẽ khép lại đằng sau tôi. Tôi thấy bất ngờ với chính mình, bởi vì thực tình tôi muốn sập cửa thật mạnh. Nhưng Gideon vẫn còn trong phòng làm việc, trầm tư suy nghĩ, hoặc có thể đang ngủ và tôi nghe trong đầu giọng ông bảo rằng có làm loạn lên cũng chẳng ăn thua.
“Sao rồi?” Thomas hỏi, thò đầu ra từ nhà bếp.
“Ông ấy đang ngủ,” tôi đáp. “Thế theo cậu có nghĩa là gì?”
Đi vào nhà bếp, tôi trông thấy Thomas và Jestine ngồi với nhau bên bàn, ăn chung một quả lựu.
“Ông già rồi, Cas,” con nhỏ kia nói. “Lần trước anh tới, ông đã già rồi. Ngủ ngày chẳng có gì bất thường cả.” Cô ta xúc một thìa lựu, nhai và cẩn thận lừa hột.
Bên phải tôi, Thomas cắn phần lựu của mình và nhè hạt ra một cái cốc.
“Bọn mình không vượt qua cả một đại dương để bị bắt phải chờ đợi hay đi đu quay Eye25*.” Cậu ấy cắm cảu. Thoạt tiên, tôi nghĩ cậu ấy nói thế để giúp tôi, nhưng không phải. Trông Thomas bực bội và gắt gỏng, mái tóc ướt nhẹp vì mới tắm xong khiến cậu ấy giống như một con mèo suýt chết đuối.
(25) London Eye: đu quay khổng lồ nằm bên bờ Nam sông Thames.
“Này,” tôi nói. “Đừng có cáu với Jestine. Có phải lỗi của cô ấy đâu.” Thomas bĩu môi và Jestine tủm tỉm cười.
“Điều các cậu cần lúc này là làm gì đó để tạm quên chuyện này đi,” cô ta nói và đứng lên. “Nào. Lúc tụi mình về thì Gideon cũng dậy rồi.”
Ai đó nên cho Jestine biết là những việc giúp bạn xao nhãng chỉ có hiệu quả nếu bạn không biết là bạn đang bị xao nhãng. Ai đó cũng nên nói với Thomas nữa vì trông nó chẳng quan tâm đến thứ gì ngoài cô ta. Họ chuyện trò sôi nổi về thuật xuất hồn hay gì gì đó. Tôi cũng không chắc nữa. Cuộc nói chuyện đã chuyển chủ đề ít nhất 6 lần từ khi cả đám xuống tàu điện ngầm tại ga London Bridge và tôi chẳng buồn lắng nghe. Jestine đã mê hoặc Thomas khi nói chuyện về phù thủy. Việc cô ta trông rất đáng yêu cũng là chuyện tốt. Ai biết được, có khi cô ta giúp Thomas quên đi Carmel thì sao.
“Cas, nhanh lên nào.” Cô ta quay lại và kéo áo tôi. “Bọn mình sắp tới đó rồi.”
“Đó” mà cô ta nói là Tháp London, một pháo đài trông như lâu đài tọa lạc bên bờ Bắc sông Thames. Địa điểm này mang tính lịch sử và thu hút khách du lịch, là nơi diễn ra nhiều cuộc tra tấn và xử tử, từ Công nương Jane Grey26* đến Guy Fawkes27*. Nhìn nó khi băng qua Cầu Tháp London, tôi tự hỏi có bao nhiêu tiếng thét đã vang lên bên trong những bức tường đá, có bao nhiêu máu đã thấm vào đất. Họ từng bêu những cái đầu bị chặt lên cọc nhọn và trưng trên cầu cho đến khi chúng rơi xuống sông. Tôi liếc mắt xuống dòng nước nâu. Ở đâu đó bên dưới, những bộ hài cốt cũ kỹ có thể vẫn còn tìm cách ngoi lên từ bùn.
(26) Một nhà quý tộc người Anh, trên thực tế là Nữ vương nước Anh từ ngày 10 tháng 7 đến 19 tháng 7 năm 1553.
(27) Một thành viên của một nhóm tín đồ công giáo của Anh thực hiện vụ âm mưu thuốc súng nhằm mưu sát Vua James I.
Jestine mua vé và chúng tôi đi vào bên trong. Cô ta bảo chẳng cần đợi hướng dẫn viên vì đã đến đây nhiều lần rồi nên nhớ được tất cả những nơi thú vị. Jestine dẫn chúng tôi đi vòng quanh, kể những câu chuyện về mấy con quạ đen béo ú đang đủng đỉnh đi trên bãi cỏ. Thomas lắng nghe, mỉm cười và hỏi vài câu cho lịch sự chứ lịch sử không thu hút cậu ấy lắm. Sau khoảng 10 phút, tôi bắt gặp cậu ấy đăm chiêu nhìn suối tóc vàng óng của Jestine, nét mặt buồn buồn. Mái tóc gợi cậu ấy nhớ tới Carmel dù đáng ra không nên thế. Tóc của Jestine có xen lẫn những dải tóc đỏ rực cơ mà. Cô ta trông chẳng giống gì Carmel. Đôi mắt của Carmel màu nâu ấm áp. Ánh nhìn của Jestine như pha lê màu lục. Carmel mang vẻ đẹp cổ điển còn Jestine thì ấn tượng.
“Cas, cậu có nghe không đấy?” Jestine mỉm cười và tôi hắng giọng. Nãy giờ, tôi cứ nhìn trân trân.
“Không hẳn.”
“Cậu đến đây lần nào chưa?”
“Một lần. Mùa hè năm đó, Gideon có dẫn mẹ con tôi đi. Đừng thấy phật ý nhé. Lần ấy cũng khá chán.” Lãng phí thời gian như thế này khiến tâm trí tôi lại trôi về Anna. Trong trí tưởng tượng của tôi, em đang đau đớn và tôi đau đớn cùng em. Tôi luôn hình dung đến điều tệ hại nhất và mọi nỗi đau để tra tấn bản thân. Đó là cách sám hối duy nhất tôi có thể làm, cho đến khi cứu được em.
Đằng sau tôi, một trong những hướng dẫn viên Beefeater28* đang đưa một đoàn khách tham quan, bình luận mấy câu hài hước làm du khách cười và kể những câu chuyện đùa mà họ đã nói cả chục lần một ngày. Jestine im lặng quan sát tôi. Mấy giây sau, cô ta dẫn chúng tôi vào Tháp Trắng.
(28) Lính gác ở Tháp London.
“Chẳng lẽ không còn chỗ nào khác ít bậc thang hơn sao?” Thomas hỏi sau khi đi vòng quanh tầng 3. Trên này chất đầy khiên cùng tượng ngựa và hiệp sĩ mặc áo giáp. Bọn nhóc liên tục ‘ô’ rồi ‘a’ và chỉ tay. Cha mẹ chúng cũng thế. Toàn bộ cái tháp rung lên cùng với những bước chân và tiếng nói cười rôm rả. Hơi ấm tỏa ra từ tiết trời tháng Sáu cùng cả biển người và tiếng ruồi bay nghe cũng rõ.
“Có nghe tiếng vo ve không?” Thomas hỏi.
“Tiếng ruồi,” tôi đáp và cậu ấy nhìn tôi khó hiểu.
“Ừ, nhưng mà có thấy ruồi đâu?”
Tôi nhìn quanh. Tiếng vo ve lớn như trong chuồng gia súc, nhưng chẳng có một con ruồi nào hết. Và dường như chẳng ai để ý. Ngoài ra còn có một cái mùi gì đó nữa, ngọt lợm và hệt như kim loại. Tôi nhận ra ngay. Mùi máu lâu ngày.
“Cas,” Thomas thì thào. “Quay ra sau đi.”
Khi quay lại, tôi thấy mình nhìn vào một tủ trưng bày vũ khí đã sử dụng. Chúng không được lau rửa hay đánh bóng, bám đầy máu khô và những mẩu da thịt. Một nửa của một cây chùy dài có dính một miếng da đầu lơ thơ tóc. Nó được dùng để đập vào đầu ai đó. Tiếng vo ve của đám ruồi không thực khiến Thomas xua tay vào không khí. Nhìn quanh, phần còn lại của phòng triển lãm vẫn như cũ. Hết tủ này đến tủ nọ đầy những di vật chiến tranh vấy đỏ. Bên dưới áo giáp một kỵ sĩ, một cuộn ruột màu hồng tím lòi ra. Tay tôi với ra túi sau định lấy con dao tế và tôi cảm thấy Jestine chạm vào lưng mình.
“Đừng có lôi cái đó ra nữa,” cô ta nói.
“Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy?” tôi hỏi. “Khi vào đâu có thấy như thế này.”
“Có phải đây là cách chúng được dùng không?” Thomas hỏi. “Chuyện này thực sự xảy ra sao?”
Jestine nhìn quanh những vũ khí vấy máu và so vai. “Tôi không biết. Có thể có. Mà cũng có thể không. Có thể chỉ để phô diễn cơn giận vô ích của hàng chục những thứ đã chết chạy qua đây như sóng biển. Có nhiều đến nỗi chúng không có giọng nói riêng biệt. Chúng không biết mình là ai nữa. Chúng chỉ thể hiện bằng cách này.”
“Cậu có nhớ như thế này khi đến đây lần trước không, Cas?” Thomas hỏi. Tôi lắc đầu.
“Tôi tưởng cậu phải cảm nhận thấy ngay,” Jestine nói. “Nhưng có thể chúng không cho cậu thấy. Hầu hết mọi người không thể nhìn thấy nhưng lần trước lúc tôi đến đây, một cô bé đi vào và bắt đầu khóc thét lên. Không ai dỗ cô bé nín được. Cô bé không nói tại sao mình khóc nhưng tôi biết. Cô bé đi loanh quanh căn phòng này với gia đình mình, khóc ầm lên, trong khi họ cố khiến cô bé nhìn vào một kỵ sĩ bị thương, như thể chàng sẽ khiến cô bé vui lên vậy.”
Thomas nuốt khan. “Kinh quá.”
“Lần đầu tiên cô thấy nó là khi nào?” tôi hỏi.
“Cha mẹ đưa tôi đến đây năm tôi lên 8.”
“Cô có khóc không?”
“Không hề,” cô ta nói và hếch cằm. “Nhưng hồi đó tôi đã hiểu rồi.” Jestine nghiêng đầu về phía cửa. “Cậu có muốn gặp nữ hoàng không?”
*Nữ hoàng đang ở trong nhà nguyện. Cô ấy ngồi ngay ngắn im lìm ở hàng ghế đầu tiên bên mé trái. Mái tóc nâu sẫm buông xuống lưng. Ngay cả khi đứng phía sau cách xa gần 10 mét, ta vẫn dễ dàng nhận ra là cô ấy đã chết.
Lúc này nhà nguyện vừa đón xong một đoàn tham quan và đang chờ đoàn kế tiếp. Một cặp vợ chồng trẻ mới chụp xong tấm ảnh kính màu khi chúng tôi vào. Giờ chỉ còn mỗi chúng tôi.
“Tôi không biết cô ấy là nữ hoàng nào,” Jestine nói. “Phần đông người ta cho rằng cô ấy là hồn ma của Anne Boleyn, vợ hai của vua Henry III. Nhưng cô ấy cũng có thể là Công nương Jane Grey. Cô ấy không nói chuyện và trông không giống bất kỳ bức chân dung nào.”
Điều này thật kỳ quặc. Có một phụ nữ đã chết ở ngay trước tôi như hàng tá người phụ nữ đã chết khác tôi đã từng thấy. Nhưng đây là một nữ hoàng, một người nổi tiếng. Nếu có thể bị người chết làm choáng ngợp thì chắc bây giờ tôi đang bị thế.
Jestine đi ra phía sau nhà nguyện, gần cửa.
“Cô ấy có phản ứng không?” tôi hỏi. Không thể nào. Cô ấy không hữu hình. Nếu thế thì ai cũng thấy rồi và cặp vợ chồng ban nãy chụp ảnh không hề biết là họ có bạn đồng hành. Nhưng tôi cũng tự hỏi liệu cô ấy có xuất hiện trong một vài tấm ảnh được rửa ra không. Như thế, họ sẽ có chuyện hay ho để kể cho bạn bè và hàng xóm.
“Không phải với tôi,” Jestine thì thào, khi nữ hoàng chầm chậm quay lại đối mặt với tôi. Lối cử động mang tính vương quyền hoặc chỉ là cẩn trọng. Có thể là cả hai. Cô ấy giữ cân bằng cái đầu bị cắt bên trên cổ. Dưới vết chém, chỉ toàn là máu và có một thứ gì đó. Tôi có thể nghe tiếng sột soạt của chiếc váy cọ vào băng ghế. Cô ấy không còn hư ảo nữa.
Tôi chưa từng thấy những bức chân dung mà Jestine nói đến, nên không thể nói được có giống hay không. Nhưng người phụ nữ đối diện với tôi trông không lớn hơn một cô gái mấy. Cô ấy nhỏ người, môi mỏng và nhợt nhạt. Chỉ có đôi mắt là đẹp, đen láy và trong veo. Ở cô ấy toát ra một thần thái rất trang nhã và trông cô ấy có chút ngỡ ngàng. Bất kỳ nữ hoàng nào cũng sẽ phản ứng như vậy, nếu một thằng nhóc tóc dài phủ mắt mặc quần áo nhàu nhĩ bất chợt đến diện kiến.
“Tôi có nên cúi chào hay gì đó không?” tôi khẽ hỏi.
“Cậu nên nhanh lên thì hơn,” Jestine nói, nhìn lom lom ra cửa. “Nhóm khách kế tiếp sẽ ồ ạt kéo đến đây trong 2 phút nữa.”
Thomas và tôi đưa mắt nhìn nhau. “Mau lên làm gì?” tôi hỏi.
“Gửi cô ấy đi,” Jestine thì thào và nhướng mày. “Dùng con dao tế ấy.”
“Cô ấy đã giết ai chưa?” Thomas hỏi. “Cô ấy có làm hại ai không?”
Tôi không nghĩ thế. Tôi không tin là cô ấy từng đi dọa ai. Tôi không thể hình dung cô gái, một thời là nữ hoàng, đã từng đe dọa ai. Cô ấy u uẩn và bình thản lạ lùng. Không biết giải thích thế nào nhưng tôi cho rằng cô ấy thấy hành động đó rất thô lỗ và xấu xí. Ý nghĩ đâm con dao vào cô ấy, hoặc ‘gửi’ cô ấy đi, như Jestine nói, khiến tôi phát ngượng.
“Ra khỏi đây đi,” tôi lẩm bẩm và đi về phía cửa. Qua khóe mắt, tôi thoáng thấy Thomas cúi đầu chào vụng về rồi đi theo tôi. Tôi liếc ra sau lần nữa. Nữ hoàng không còn đối mặt với chúng tôi. Cô ấy sống trong nhà nguyện, không màng gì đến người sống và giữ thăng bằng cái đầu trên chiếc cổ bị chém.
“Tôi có bỏ lỡ gì không?” Jestine hỏi khi cả bọn đã ra tới bên ngoài. Tôi dẫn đầu rảo bước về phía lối ra. Giờ chắc Gideon đã ngủ dậy rồi và chỗ này với tôi thế là đủ rồi.
“Này,” cô ta nói và nắm lấy cánh tay tôi. “Tôi làm cậu tự ái à? Có gì không ổn sao?”
“Không,” tôi nói. Hít sâu và thở ra. Cô ta hơi thô lỗ và lắm chuyện. Nhưng tôi cố nhớ ra cô ta vừa xin lỗi vì cái tính thích gây sự mà không suy nghĩ. “Chỉ là... tôi không ‘gửi’ những hồn ma đi trừ phi họ đe dọa đến người sống.”
Cô ta trông rất ngạc nhiên. “Nhưng đó đâu phải là mục đích của cậu.”
“Cái gì?”
“Cậu là công cụ. Người cầm vũ khí. Ý nguyện của vũ khí mới là cái quan trọng. Không phải của cậu. Và con dao tế không phân biệt những thứ như thế.”
Chúng tôi dừng trước bậc thềm gần cổng ra, mặt đối mặt. Giọng cô ta chắc như đinh đóng cột. Đầy đức tin. Cô ta đã bị tiêm nhiễm cái tư tưởng ấy từ lâu lắm rồi. Cách cô ta nhìn thẳng vào mắt tôi chính là thách thức tôi phản đối. Dù rằng điều đó cũng sẽ không làm cô ta đổi ý.
“Tôi là người cầm vũ khĩ, đúng như cô nói. Lưỡi dao có thấm máu của tôi. Thế nên, tôi nghĩ giờ con dao tế đang nằm trong tay tôi, nó sẽ phải biết phân biệt.
“Đợi đã,” Thomas nói. “Cô ấy có phải là thành viên của...”
“Một thành viên của Hội Gì Gì Đấy. Đúng, tớ nghĩ là vậy.”
Jestine hếch cằm lên. Cô ta không chịu làm gì để che đi vết bầm nơi hàm. Không phấn son, không gì hết. Nhưng cô ta cũng không tự hào trưng ra.
“Đương nhiên rồi,” Jestine nói và nở nụ cười tươi. “Chứ cậu nghĩ ai gửi cho mình tấm ảnh đó?”
Nhìn qua khóe mắt, tôi thấy miệng Thomas hơi há ra.
“Cô không lo bác cô sẽ nổi giận à?” tôi hỏi. Jestine nhún vai. Tôi nghĩ cô ta nhún vai nhiều hơn cả tôi.
“Hội nghĩ đã đến lúc cậu cần phải biết,” cô ta nói. “Nhưng đừng giận Gideon. Ông ấy không còn là một thành viên thực sự mấy chục năm nay rồi.”
Chắc ông ra khỏi hội cùng lúc với cha tôi.
“Ông không còn là người trong hội nữa, vậy mình phải làm gì đây?” Thomas hỏi.
“Ồ, tôi không lo chuyện đó đâu,” Jestine nói. “Chúng tôi đang đợi các cậu mà.”
Đứng trong phòng làm việc, Gideon nhìn chằm chằm 3 đứa hồi lâu. Cuối cùng, mắt ông cũng dừng lại nơi Jestine.
“Cháu đã nói gì với hai đứa nó?” ông hỏi.
“Toàn những điều họ đã biết,” cô ta đáp.
Tôi cảm thấy Thomas nhìn mình nhưng tôi không nhìn lại. Như thế chỉ làm tăng thêm cảm giác căng thẳng như trong phim của Hitchcock29* mà đã dâng lên đến họng kể từ lúc chúng tôi rời Tháp London. Đây là cảm giác như thể tất cả những chuyện này không dành cho chúng tôi. Ai dường như cũng biết nhiều hơn tôi và như thế khiến tôi phát điên.
(29) Alfred Hitchcock: Đạo diễn người Mỹ, người được mệnh danh là “bậc thầy phim giật gân”.
Gideon hít sâu. “Đây là điểm để suy nghĩ lại, Theseus,” ông nói, nhìn chăm chằm xuống bàn. Và ông nói đúng, như thường khi. Tôi có thể cảm thấy điều đó. Tôi đã cảm thấy thế kể từ khi quyết định đến Anh. Nhưng giờ tôi đã ở đây rồi. Đây là khoảnh khắc cuối cùng, giây cuối cùng để tôi có thể đổi ý. Thomas và tôi có thể quay về Thunder Bay và không có gì thay đổi. Chúng tôi sẽ như cũ và Anna sẽ ở chỗ mà em đang ở.
Tôi liếc nhìn Jestine. Cô ta đang nhìn xuống, nhưng trên mặt có vẻ gì đó lạ lùng và hiểu biết. Như thể cô ta biết chúng tôi đã qua cái điểm suy nghĩ lại ấy lâu lắm rồi.
“Hãy cho cháu biết,” tôi nói. “Chính xác thì cái Hội... Dao Găm Đen ấy là gì?” Jestine chun mũi khi nghe tôi phát âm kiểu tiếng Anh tên cái hội đó, nhưng tôi không có tâm trạng uốn lưỡi rồi tàn sát tiếng Gaelic.
“Họ là hậu duệ của những người tạo ra con dao tế,” Gideon đáp.
“Như cháu,” tôi nói.
“Không,” Jestine nói. “Cậu là hậu duệ của chiến binh được họ trao gửi nó.”
“Họ là hậu duệ của những người kiểm soát quyền năng. Những thầy pháp. Họ từng được gọi là thầy tu và nhà tiên tri. Giờ thì họ không có cách gọi nào nữa.”
“Và ông từng là một trong số họ,” tôi nói, nhưng ông lắc đầu.
“Theo truyền thống thì không. Họ đưa ông vào sau khi ông làm bạn với cha cháu. Gia đình ông gắn liền với nó, đương nhiên rồi. Hầu hết những gia đình thời xưa đều vậy. Chỉ là mọi thứ đều bị phai dần đi và lai căng qua hàng ngàn năm,” ông lắc đầu, tư lự. Ông nói nghe như thể những người như thế đông như kiến nhưng tôi đã mất đến 17 năm.
Tôi có cảm giác như mình bị xoay tròn trong khi bị bịt mắt rồi khi mở băng ra, mắt tôi chói lòa. Tôi không nghĩ ra mình lại là một kẻ ngoại đạo đối với cái hội cổ này. Tôi nghĩ mình là trung tâm. Tôi. Máu của tôi. Con dao của tôi. Hết.
“Thế những con dao tế trong ảnh thì sao, Gideon? Chúng chỉ là những đồ hàng mã thôi? Hay có những cái khác giống cái của cháu?”
Gideon chìa tay. “Đưa ông con dao được không, Theseus? Một lúc thôi.”
Thomas lắc đầu, nhưng không sao. Tôi lúc nào cũng biết Gideon có bí mật. Ông còn có nhiều hơn thế. Những không có nghĩa là tôi không tin ông.
Với tay ra ba lô, tôi rút con dao ra khỏi vỏ và nhẹ nhàng đặt lên lòng bàn tay đang mở ra của Gideon. Ông đón lấy nó một cách kính cẩn và quay người đi về phía kệ sách gỗ sồi sẫm màu. Những ngăn kéo được mở ra rồi đóng lại. Ông làm rất bí mật nhưng tôi vẫn thoáng thấy có ánh kim loại. Khi quay lại với chúng tôi, ông cầm một cái khay và trên đó là bốn con dao, tất cả giống y hệt nhau. Là những bản sao y con dao tế của tôi.
“Những con dao tế truyền thống của Hội,” Gideon nói. “Các cháu sẽ nói chúng rất phổ biến và không đáng một xu nhưng không phải vậy. Chúng không giống như con dao của cháu. Không có cái nào khác như của cháu.” Ông ra hiệu cho Jestine bước đến gần. Khi cô ta làm theo, nét mặt cô ta toát lên vẻ gì đó sùng kính khiến tôi suýt nữa thì phì cười. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy ngượng. Trông cô ta quá... kính cẩn. Tôi không biết liệu mình có từng nhìn con dao tế như thế không.
Gideon đặt cái khay lên mép bàn và sắp xếp lại các con dao, xáo trộn chúng như một người chia bài sành sỏi. Khi Jestine đứng trước cái khay, ông đứng thẳng người lên và bảo cô ta lấy ra con dao thật.
Dù con dao tế của tôi chưa từng bị hư hại gì và dù chẳng có vết xước hay vết mẻ nào để phân biệt nó với những con dao khác, tôi vẫn biết ngay lập tức. Nó là cái thứ 3 từ trái qua. Tôi cảm thấy sự hiện diện của nó mạnh mẽ đến mức như thể nó đang vẫy tay với tôi. Jestine không biết, nhưng đôi mắt xanh sáng lên trước thử thách. Sau khi hít sâu vài hơi, cô ta đưa tay lên bên trên cái khay và đưa qua đưa lại. Tim tôi đập thình thịch khi cô ta do dự trước con dao giả. Tôi không muốn cô ta chọn đúng. Hơi nhỏ nhen nhưng tôi không muốn.
Jestine nhắm mắt. Gideon nín thở. Sau 30 giây căng thẳng, cô ta mở mắt ra và mỉm cười trước khi đưa tay cầm lấy đúng con dao của tôi.
“Giỏi lắm,” Gideon nói, nhưng nghe giọng ông không hài lòng. Jestine gật đầu và đưa con dao cho tôi. Tôi tra nó vào vỏ, cố không để lộ ra ngoài cái vẻ của một đứa bé cầm món đồ chơi bị vỡ.
“Hay thật,” tôi nói, “nhưng chuyện này có liên quan tới điều gì? Hội có biết cách sang thế giới bên kia hay không?”
“Đương nhiên là biết rồi,” Jestine nói. Mặt cô ta đỏ bừng sau khi dùng mánh lới gì đấy để xác định con dao của tôi. “Trước đây, họ từng làm rồi. Họ sẽ làm lần nữa cho cậu, nếu cậu sẵn sàng trả giá.”
“Giá gì?” Thomas và tôi đồng thanh, nhưng hai người họ ngậm miệng, lờ tịt câu hỏi như thể nó không hề tồn tại.
“Ông sẽ liên lạc với họ,” Gideon nói và khi Jestine nhìn mình, ông nói lại lần nữa, dứt khoát hơn. Ông chưa một lần nhìn tôi, mà tập trung vào mấy con dao giả rồi lau chúng bằng một miếng vải mềm như thể chúng quan trọng lắm trước khi cho lại vào ngăn kéo. “Nghỉ ngơi đi, Theseus,” ông nói với ngụ ý đanh thép rằng tôi cần điều đó.
Trên gác trong phòng dành cho khách, Thomas và tôi ngồi thừ ra trên giường của mình chẳng nói chẳng rằng. Cậu ấy thấy không thoải mái. Tôi không trách cậu ấy được. Nhưng tôi không đi xa đến mức này để rồi không làm gì. Em vẫn đang chờ tôi. Tôi vẫn còn nghe thấy giọng nói và tiếng thét của em.
“Cậu nghĩ Hội sẽ làm gì?” nó hỏi.
“Giúp mình mở cửa Địa ngục, nếu mình gặp may,” tôi đáp. Gặp may. Ha ha. Nghe thật mỉa mai.
“Con nhỏ đó nói cậu sẽ trả giá gì đấy. Cô ta có chắc không? Cậu có biết sẽ như thế nào không?”
“Không. Nhưng lúc nào mà chẳng phải trả giá, cậu biết mà. Chẳng phải đó là những gì phù thủy các cậu luôn nói sao? Cho và nhận, cân bằng, 3 con gà đổi lấy 1 cân bơ?”
“Tớ chưa từng nói bất kỳ điều gì liên quan đến trao đổi nông sản cả,” cậu ấy nói, nhưng tôi có thể cảm thấy cậu ấy đang mỉm cười. Có thể ngày mai, tôi nên cho cậu ấy về nhà. Trước khi tôi khiến cậu ấy bị thương, hoặc rơi vào mớ bong bong gì đó mà sau đêm nay có cảm giác như chỉ là việc của riêng tôi.
“Cas?”
“Sao?”
“Tớ không nghĩ cậu nên tin vào Jestine.”
“Sao không?” tôi hỏi.
“Vì,” cậu ấy nói khẽ, “lúc cố xác định con dao tế thật, cô ta nghĩ trong đầu mình muốn có được con dao ấy đến thế nào. Cô ta nghĩ con dao là của mình.”
Tôi chớp mắt. Suy nghĩ ‘thế thì đã sao?’ là phản ứng tự nhiên của tôi. Đó là mong ước bất khả thi. Hoang đường. Con dao tế là của tôi và sẽ mãi mãi như thế.
“Thomas?”
“Ừ?”
“Nếu là cậu, cậu có phân biệt được con dao của tớ không?”
“Không bao giờ,” cậu ấy nói. “Không đời nào.”