⚝ 2 ⚝
Từ ngày thành lập Ban chuyên án, ông Đăng luôn luôn tự đặt câu hỏi: Tên gián điệp V10 là ai? Kỹ sư Hồng hay trạm trưởng Lâm? Lại có trinh sát nghi Nguyễn Tiến Đạt là V10. Về Đạt ông hiểu khá chắc, phải để tiếp tục theo dõi xem hoạt động của anh ta ra sao mới kết luận được.
Vấn đề nữa đặt ra, V10 và trung tâm của chúng liên lạc với nhau
bằng cách nào, điện đài hay người mang chỉ thị đến tận nơi? Mỹ muốn chặn các đoàn xe chở vũ khí đạn dược hoạt động ở chiến trường nhất thiết phải tìm cách phá hoại đường ống dẫn dầu. Muốn đánh trúng các trạm chính, các kho bể lớn, cách tốt nhất phải nắm được bản thiết kế.
Và phái điệp viên đến đánh cắp. Như vậy, mục tiêu của chúng phái người đến có nhiều khả năng là cơ quan Tổng công ty Xăng dầu Bộ Vật tư hoặc Cục Xăng dầu Bộ Quốc phòng. Nếu như vậy thì V10 không thể
nằm ở trạm mà phải ở cơ quan đầu não.
Có tiếng gõ cửa:
− Mời vào.
Thiếu tá Mạnh Cường mở cửa.
− Vừa rồi A7 của ta báo cho biết, trạm trưởng trạm 45 Lê Văn Lâm có giữ một bức ảnh của một cô gái phía sau đề: "Tặng anh Lâm yêu, kỷ niệm những ngày ở Trường Sơn".
Mạnh Cường chuyển cho ông Đăng tấm ảnh phô-tô-cop-pi cô gái đó.
Lại xuất hiện một hiện tượng - Ông Đăng suy nghĩ - Trong cuộc đấu tranh này luôn luôn xuất hiện những điều bất ngờ đòi hỏi người công an phải đối phó. Ông quay lại phía Mạnh Cường:
− Tại sao anh ta ở Trường Sơn lại có ảnh cô gái in bằng giấy ảnh Sài Gòn sản xuất? Anh ta có liên hệ gì với cô gái đó không. Đồng chí cho tìm hiểu kỹ những vấn đề này, đặc biệt tìm hiểu những tháng ngày ở Trường Sơn. Đồng chí đã đưa đi giám định giấy ảnh và mực viết chưa?
− Viện khoa học hình sự trả lời không phân biệt được mực viết nhưng xác định loại giấy ảnh đó do Công ty giấy ảnh Sao Băng Sài Gòn sản xuất. Các nưóc xã hội chủ nghĩa không sản xuất loại giấy đó.
− Tôi sẽ cố gắng. Chúng ta sẽ có cách bắt chúng khai ra những điều ta cần.
− Nhưng đồng chí cần thận trọng. Nghi ngờ một cán bộ là điều không cho phép. Chỉ cho phép chúng ta nghi ngờ, hay nói một cách
khác đặt câu hỏi về một con người để rồi kết luận chuẩn xác về họ.
Nếu họ vô tội phải thanh minh cho họ.
− Tôi hiểu.
− Đồng chí hãy chỉ thị cho A7 nhiệm vụ này.
− Tôi sẽ làm ngay.
Mạnh Cường bước ra khỏi phòng. Thượng tá đứng dậy mở cửa sổ.
Nắng ùa qua ô cửa. Thiên nhiên đã đem đến cho ông một cảm giác dễ
chịu. Và trong giây phút, ông thương A7. Con người ta ai cũng có quãng đời thơ ấu bên người mẹ dịu hiền ở quê hương, cũng muốn thành thật với đồng chí, bạn bè chung quanh... Thế mà trinh sát A7
của ông lại phải đổi tên họ, sống một cuộc đòi không thật để giấu tông tích, tiếp cận địch. Ôi, một sự hy sinh mà người đời khó biết.
Theo chỉ chị của Thượng tá, Phó cục trưởng, A 7 đã tìm hiểu kỹ
quãng đời ở Trường Sơn của kỹ sư Lê Văn Lâm.
Sau khi tốt nghiệp đại học ở nước ngoài về nước, Lâm nhận công tác tại Bộ Vật tư và được điều vào Trường Sơn, tăng cường cho Cục Xăng dầu Bộ Quốc phòng, phụ trách một trạm xăng dầu nằm sâu trong núi, bên trên có lưới dù kết lá ngụy trang. Bốn tháng sau, để mở
rộng chiến trường, trên quyết định lắp đặt đường ống vào tận Tây Nguyên. Lâm được cử làm tổ trưởng tổ ba người, Nguyễn Thị Hằng và Hoàng Văn Chắt, tìm kiếm, đo đạc, ghi chép, vẽ sơ đồ những vị trí có thể đặt ống dầu và bể chứa xăng. Hai tháng làm xong nhiệm vụ, ba người trở về đơn vị, bỗng Chắt bị ốm nặng. Cơn mưa rừng ồn ã một tuần lễ đổ xuống, ba người phải trú lại trong một hốc đá. Anh Chắt không chịu nổi cơn sốt rét đã chết. Lâm và Hằng dùng lưỡi lê đào bới lớp lá mục đã dày tới đầu gối ở phía dưới hang đá chôn bạn rồi di chuyển đến một gốc cây cổ thụ. Trong mái lều căng bằng vải mưa, dưới gốc cây to, Lâm và Hằng ngồi ôm nhau tránh mưa như xối nước.
Những lúc cùng nhau đi đo đạc thiết kế lắp đường ống xăng dầu, hai người chỉ dồn sức vào nhiệm vụ, đâu phải lúc nghĩ tới chuyện riêng tư
nên đã giấu kín tình cảm của mình, giấu kín mối tình đã nảy sinh từ
lúc rời trạm ra đi. Đến bây giờ ngồi ôm nhau, hơi hướng của chàng trai cô gái, sự yêu thương nhau của những người lính lạc giữa rừng, sự
lạnh lẽo của núi đá khiến hai người càng ghì nhau thật chặt. Hằng cũng không thèm cưỡng lại cánh tay của Lâm đang kéo cô nằm xuống
tấm ni lông trải bên gốc cây.
− Em!
− Anh!
Cả rừng cây bỗng ngả nghiêng chao đảo.
Sáng hôm sau họ thức giấc thì mưa đã tạnh, mặt trời đã chiếu những tia nắng hình rẻ quạt xuống thân thể họ không tấm vải che thân. Hai người mở mắt ra lại nhắm lại. Bỗng nhiên nỗi lo sợ xâm chiếm cả hai người: nếu có con lúc này thì sao? Hai người cùng cho rằng việc duy nhất, đầu tiên lúc này là mặc quần áo rồi tiếp tục lên đường.
Gần trưa thì hai người đụng vào một ổ thám báo ngụy. Họ nổ
súng bắn trả quyết liệt. Được một lúc sau thì có tiếng máy bay quạt gió trên đầu. Bọn thám báo đã dùng máy vô tuyến gọi trực thăng đến dòng thang dây đổ quân xuống bao vây bắt sống hai người. Hai người vừa bắn vừa rút lui vào một cái hang nước ngập trên đầu gối. Bọn địch cũng mò vào trong hang. Lúc đầu Lâm và Hằng thề sống cùng sống, chết cùng chết. Nhưng rồi Hằng đặt vấn đề, việc cuối cùng là một trong hai người phải chuyển về đơn vị những sơ đồ tài liệu đã thu thập được trong chuyến đi công tác. Chiến trường đang đòi hỏi cấp bách, các anh lãnh đạo Cục đang chờ những số liệu liên quan đến bao nhiêu con người. Nếu ở lại để cùng chết, đó là cái chết uổng. Một mình Hằng đi không thuộc đường, dễ lọt vào tay giặc. Mục đích lớn nhất của chuyến chạy trốn hay ở lại là bảo đảm được tài liệu. Hằng nài nỉ Lâm chạy trốn.
Vì lợi ích chung, Lâm đành chấp nhận. Hằng ôm khẩu súng AR.15
vừa bắn vừa rút lui vào hang để cho Lâm ẩn nấp vào khe sâu. Khi địch vượt qua chỗ anh, anh bắn chết mấy tên phía sau rồi tông ra cửa hang.
Sau trận đánh đó, Lâm chạy thoát. Còn Hằng, theo Lâm đoán, đã bị chúng bắn chết.
Thượng tá, Phó cục trưởng ngồi nghe A7 kể về Lâm, ông thực sự
xúc động. Ông cầm gói thuốc lào, rút mấy sợi, viên tròn bỏ vào nõ điếu châm lửa hút. Câu chuyện đó làm ông sống lại những tháng ngày ở Trường Sơn. Hồi đó, mình còn là một sĩ quan, theo chỉ thị của Cục trưởng, vào Nam tăng cường cho An ninh miền. Một lần mình và
Tường, người cán bộ rời căn cứ đem chỉ thị của mặt trận, gặp địch phục kích. Mình và Tường chống trả quyết không để lọt vào tay giặc.
Vòng vây mỗi ngày một khép chặt, phải rút chạy vào hang. Không may Tường bị trúng đạn gãy chân, máu chảy thành dòng. May mà trời lúc đó bắt đầu tối, bọn địch bao vây bên ngoài, chờ sáng hôm sau tiếp tục lùng bắt. Tường bàn với mình: sớm hôm sau trời sáng rõ, bọn địch sẽ vào hang bắt chúng ta. Ngay trong đêm nay, lợi dụng bóng tối, chúng ta phải theo khe kia ra khỏi hang - Giọng Tường cương quyết -
Cậu đi đi. Mình bị thương thế này đi không được. Ở lại cả hai, chết vô ích, mà nhiệm vụ lại không hoàn thành. Mình phản đối phương án đó.
− Giọng Tường vừa nài nỉ vừa như ra lệnh: Đi đi! Nào đi đi! Ở lại hai ta cùng chết! Đi đi!
Không còn cách nào khác, mình nghe theo lệnh của cậu ta rồi nắm tay nghẹn ngào nói: "Mình sẽ chuyển mệnh lệnh tác chiến tới chiến trường...". Rồi hai đứa ôm choàng lấy nhau òa khóc. Mình không nhớ lúc đó đứng dậy cất bước ra sao. Chỉ biết rằng nhiều lần loạng choạng trên tảng đá mấp mô, đập mặt vào những cột thạch nhũ ở trên cao nhỏ xuống. Hai giờ sau mình đã bò ra khỏi hang rơi vào bóng đêm đặc quánh như hắc ín. Mình đi chân thấp chân cao, nhiều lúc vấp vào bụi cây rừng đánh bật người trở lại. Lúc đó mình mải nghĩ về Tường đang ở lại nơi cái hang tối lạnh lẽo, người đồng chí gần gũi yêu quý nhất đang ngồi một mình với cái chân gãy, ôm khẩu súng trên tay đợi cuộc đụng độ vào sáng hôm sau. Và sau đó, có một lần đi công tác qua hang, mình đã vào hang nhặt từng cái xương bạn bọc vào ni lông đem ra chôn ở cửa hang.
Ông rít một hơi, ngẩng mặt lên trần thả làn khói thuốc. Qua làn khói, A7 thấy sắc mặt người chỉ huy của mình già hơn so với tuổi và trắng nhợt. Thấy người chỉ huy ngồi lặng đi hồi lâu, anh ngồi im không dám cất tiếng.
− Khi nghiên cứu những con người đã có mặt ở chiến trường như
thế, mình phải cân nhắc kỹ - Ông bắt đầu giải thích - Họ là những người sống chết với đường ống dẫn dầu, chúng ta phải quý trọng. Sự
hy sinh cả xương máu cho Tổ quốc, cho công việc lắp đặt đường ống dẫn dầu của họ là sự hy sinh cao cả nhất. Những người như thế đâu dễ
gì phản lại Tổ quốc, nhân dân mình, làm gián điệp cho chúng. Nhưng con người ta, tính trong cả cuộc đời ai cũng có sai lầm và bất hạnh, chỉ
khác nhau ở mức độ và sức vượt lên của mỗi người. Vì vậy, có thể
trong hàng ngàn vạn cán bộ bắc đường ống xuyên Trường Sơn, biết đâu lại chẳng có kẻ sợ gian khổ, hy sinh đã đào ngũ chạy về phía đối phương; biết đâu đó chính là trạm trưởng Lê Văn Lâm - Những con người như thế, họ nói bằng những thứ ngôn ngữ khác nhau, vui buồn vì những lý do khác nhau. Vì vậy, những tin tức đồng chí vừa báo cáo mới chỉ là tin tức ban đầu. Bây giờ đồng chí phải làm rõ: cô gái trong ảnh kia có phải là Hằng không? Những chữ đó ghi trong thời gian nào?
− Thưa đồng chí, trạm trưởng Lê Văn Lâm coi bức ảnh này là kỷ
vật bên người. Tôi biết và chụp lại được trong trường hợp tình cờ. Bây giờ hỏi trực tiếp anh ta, tôi sợ không tiện. Nếu anh ta đúng là V10, ví dụ đó là ký hiệu của tần số điện đài hay quy ước về thời gian liên lạc chẳng hạn, anh ta sẽ tìm cách đối phó. Làm việc này thật không dễ.
− Khó thì chúng ta bó tay hay sao? - Ông Đăng có vẻ không hài lòng với A7 - Lẽ ra, là một cán bộ trinh sát, đồng chí không nên hỏi tôi những câu đó. Trên trận tuyến bí mật, kẻ địch luôn luôn tìm cách giấu tông tích; các trinh sát của ta lại muốn tìm hiểu thì chắc chắn công việc điều tra không dễ. Vấn đề ở chỗ, không biết mà điều tra được, không biết mà điều khiển được chúng hoạt động theo bày binh bố trận của ta, đó mới là nghệ thuật đánh địch trên trận tuyến này. Tôi giao cho đồng chí - Ông Đăng chỉ thị - Lập kế hoạch báo cáo tôi duyệt trước khi trở lại địa bàn công tác - Ông thấp giọng động viên - Khó đấy, nhưng có thể làm được. Ví dụ kết hợp với các đồng chí bảo vệ quân đội tìm hiểu về cô Hằng, điều tra cái hang hai người vào đó có địa hình chống trả địch và chạy thoát không?
− Rõ - A7 trả lời một cách tự tin - Nhưng xin hỏi đồng chí có ai tăng cường cho tôi nữa không?
− Chiến dịch tìm kiếm Vl0 tiến hành theo lệnh của lãnh đạo Cục.
Để bảo đảm thắng lợi của chiến dịch, mỗi người tham gia chỉ biết đến công việc của mình. Tôi yêu cầu đồng chí về báo cáo là nhằm mục đích kiểm tra hoạt động trong thời gian qua và tự đề xuất kế hoạch trong thời gian tới. Nguyên tắc hoạt động của chúng ta, người nào biết việc người ấy.
− Tôi hiểu. Xin chào đồng chí.
A7 bước ra khỏi phòng. Thượng tá, Phó cục trưởng Nguyễn Đăng xoài người trên ghế đi-văng.
Đã một thời gian dài rồi mà vẫn không thấy bóng dáng V10 đâu -
Ông lo lắng tự hỏi - Không biết đến bao giờ mới tìm kiếm được V10? -
Ông ngồi im như thế, thả mình trong các câu hỏi và trả lời cho tới khi có chuông điện thoại.
Sau khi chào tạm biệt thủ trưởng, trinh sát Nguyễn Tuyến mang bí số A7 bước xuống cầu thang. Ra tới đường phố, anh hòa vào dòng người đang đi bộ trên vỉa hè ra ga. Những tia nắng chiều mỏng manh cố xuyên qua những tán cây xà cừ chiếu lên tâm áo bộ đội đã bạc màu. Trên đường đi, ánh mắt anh dừng lâu hơn ở các quầy sách báo cố kiếm tìm xem trong đó có cuốn sách nào nói về ngành xăng dầu không.
Nguyễn Tuyến sinh ra trên mảnh đất Lạng Giang, Hà Bắc, vào công an đã được gần chục năm. Do có những phẩm chất quý giá như
trí thông minh, đức tính dũng cảm, lòng trung thành đã được thử thách qua một số vụ án quan trọng nên lần này anh được lãnh đạo Cục giao nhiệm vụ xâm nhập vào tổ chức gián điệp V10.
Hình như anh sinh ra đã có lòng ham mê quan sát và phân tích sự vật. Anh đi ra ga để được làm quen với nhiều hạng người. Nói chuyện với mỗi hạng người, anh lại sắm một vai phù hợp mà không để
lộ mình là một sĩ quan phản gián. Nhưng rồi anh chợt nghĩ lúc này nếu đứng ở sân ga lâu, nhỡ gặp người cùng làng xã sẽ rất phiền hà. Mà biết đâu, ngay trong đám đông này lại có tên V10 thì sao. Anh quyết định đi bộ về phía công viên Thống Nhất.
"Để tiếp cận được Vl0, mình phải giấu tông tích, loại trừ các mới nghi ngờ, Nguyễn Tuyến thầm suy nghĩ - Muốn thế, mình phải sắm vai cán bộ Tổng công ty Xăng dầu thật tốt. Như thế mình đâu có điều kiện thứ
bảy nào cũng về Lạng Giang thăm vợ và con". Sự gián đoạn nhất thời này anh coi là cuộc thử thách của anh. Nhưng bỗng có tiếng còi tàu vang lên, đoàn tàu chuyển bánh lao về phía Bắc. Anh ước ao lúc này được ngồi trên chuyến tàu đó, xuống ga, lẻn về nhà khi vợ đang ngủ
để lặp lại cái buổi ban đầu đến thăm Bích Thảo.
Anh đến bên em giữa chiều hè
Lạng Giang quê mẹ gió chiều về
Anh đọc thầm lại bài thơ làm tặng Bích Thảo khi mới yêu nhau: Quạt cho em ngủ tay nhè nhẹ
Như những ngày xưa mẹ vẫn ru
Nguyễn Tuyến đã từng đọc đi đọc lại bài thơ, âm điệu nghe nhiều thấy ấm cúng và hạnh phúc quá. Nhưng giờ đây anh cảm thấy buồn bã, nhớ nhung. Biết đến bao giờ mới lại quạt cho em ngủ?
Càng nghĩ, anh càng thương Bích Thảo ngày đêm vò võ một mình ngóng trông anh về.
Trong những năm tháng tuổi thơ, anh lăn lộn giữa đám học trò trường Ngô Sĩ Liên của thị xã Bắc Giang có dòng sông Thương bên lở
bên bồi, vượt lên thành học sinh giỏi toàn diện. Bích Thảo đã giữ trọn trong tâm khảm mình hình bóng con người Nguyễn Tuyến cần cù, chịu thương chịu khó, giàu nghị lực.
Học xong phổ thông, anh được chọn vào công an, gửi sang Liên Xô đào tạo. Và những tháng ngày ấy, Bích Thảo là hình ảnh người con gái đầu tiên có ở trong anh. Sau năm năm xa Tổ quốc, anh mới trở lại căn nhà lợp rạ. Căn nhà vẫn còn đó, nhưng người bố đã chết trong một trận giặc Mỹ ném bom thị xã Bắc Giang, để lại cho Bích Thảo người mẹ
mù lòa và hai đứa em chưa tới tuổi thành niên. Trong nỗi đau, nhớ
thương da diết trong căn nhà xuềnh xoàng đó, Bích Thảo đã gửi cả
niềm tin vào Tuyến. Anh trở thành chỗ dựa cho cả gia đình Bích Thảo.
Sau ngày cưới, có chiều thứ bảy nào anh không lên tàu về Lạng Giang đâu. Thế mà gần một năm nay, anh luôn có mặt ở Hà Nội, Hà Sơn Bình mà không sao về được.
Lo cho chồng, thương chồng, Bích Thảo xuôi Hà Nội, đến phòng thường trực Bộ Công an tìm gặp Tuyến. Biết tin chồng đi công tác xa, chị lại ra ga. Trên đường đi, Bích Thảo gặp Tuyến. Cô vui mừng trong sự ngạc nhiên:
− Anh Tuyến.
Bích Thảo nhìn anh không chớp. Chao ôi, năm tháng mới tàn ác làm sao. Mới gần một năm mà trông anh già đi nhiều quá. Da đen, tóc
bơ phờ. Chỉ có đôi mắt vẫn rực sáng như xưa, vẩn lên từng tia đục của phần nước sông Thương bị lở.
Còn Tuyến, mọi cảm giác vui, lo không rõ rệt. Cảm giác vui sướng gặp vợ vừa trào lên lại lặn xuống. Niềm vui xen lẫn sự hoang mang. Còn vài trăm mét nữa anh sẽ vào số 1 phố Khâm Thiên với vai cán bộ Tổng công ty Xăng dầu để lên xe cùng anh em đi kiểm tra các tuyến đường ống, kho bể chứa xăng dầu toàn quốc. Lúc đó đang chiến tranh phá hoại ác liệt nên xe phải chạy ban đêm. Anh em cán bộ Tổng công ty đang đợi anh ở đó. Nếu anh em biết Bích Thảo là vợ anh, sẽ
quây quần trò chuyện. Và khi đó anh không còn là cán bộ Tổng công ty Xăng dầu nữa mà là sĩ quan phản gián, mang bí số A7.
Anh cứ đứng lặng để mặc cho niềm vui và nỗi hoang mang quyện vào nhau kết đọng trong anh cái duy nhất, đó là sự mủi lòng. Mấy phút câm lặng qua đi anh mới lên tiếng được:
− Em xuống khi nào?
− Trưa nay.
− Mẹ có khỏe không em?
− Khỏe.
− Còn con?
Bích Thảo giọng hờn giận:
− Anh mà cũng hỏi thăm con à? - Bích Thảo bước thêm mấy bước
− Em nghe nói dạo này anh quên mẹ con em rồi!
− Đừng nói thế mà tội nghiệp.
Trong trí não Tuyến đang diễn ra dồn dập những ý nghĩ đối kháng nhau. Nên bỏ chuyến công tác ở lại với Bích Thảo hay đi? Trách nhiệm công việc và chăm sóc gia đình, ý thức nghề nghiệp và tình yêu chồng vợ có lấn át nhau không?
Bích Thảo đã nguôi cơn giận.
− Mẹ bảo em ra tìm anh về.
− Anh cũng dự định sau đợt đi công tác này sẽ về thăm mẹ và em.
Tuyến nhìn đồng hồ, không ngờ mới gặp Bích Thảo chưa nói chuyện gì mà mấy chục phút đã trôi qua. Giờ xe chạy đã tới. Theo tin tức Ban chuyên án thu được, đêm nay có thể là phiên liên lạc giữa V10
và trung tâm chỉ huy CIA, anh phải có mặt ở đó để theo dõi di biến động. Anh liếc đồng hồ vẻ suy nghĩ:
− Em về nhà với con. Xong chuyến công tác này anh sẽ về nghỉ
dài ngày với em.
Câu nói của Tuyến làm Bích Thảo hết sức đột ngột. Cô nhìn Tuyến chớp mắt muốn khóc nhưng đã kìm lại được:
− Anh còn nhớ tới mẹ con em!
Thấy Tuyến vẻ lưỡng lự chưa bước, cô giục:
− Đi đi! Đi với người ta!
Tuyến cúi đầu buồn rầu bước đi. Bên tai vẫn vang lên câu nói trách cứ "Đi với người ta".
Bích Thảo run lên, vừa giận vừa tủi thân nhìn theo Tuyến cho đến khi anh rẽ vào đường Khâm Thiên. Trong ý nghĩ Bích Thảo lúc đó, sự
ngờ vực và thương nhớ hầu như cân bằng nhau. Bích Thảo đứng như
chôn chân ở bên đường Nam Bộ. Tất cả Hà Nội lúc đó đối với cô như
chao đảo, ngả nghiêng. Cái phản xạ nhớ thương bắt đầu tan biến nhường chỗ cho trách cứ, ngờ vực. Chao ôi, có thật thế không?
Mãi sau này, hơn một năm sau Bích Thảo mới hiểu đúng về
Tuyến thì đã muộn rồi. Câu nói đó cứ theo thời gian khô đọng lại thành sự ân hận mà cả cuộc đời Bích Thảo phải mang theo.
⚝ 3 ⚝Trời quang đãng bỗng tối sầm. Mây đen kéo đến khắp rừng. Khi bóng tối ập đến thì mưa như trút nước. Không nhìn thấy rừng, chỉ
nghe thấy tiếng cây bị gió lay, lá chạm vào nhau kêu rào rào như
thác đổ. Nước mưa quất vào tấm liếp của lán trạm chảy xuống thành dòng. Mỗi khi có đợt gió thôi qua, làm cả lán rung lên, dây buộc như
muốn đứt. Nguyễn Tiến Đạt khoác áo mưa ngồi trên giường ghép bằng cây rừng, giát đan bằng nứa.
− Có lẽ mưa suốt đêm.
Trạm trưởng Lê Văn Lâm hiểu tâm trạng Tiến Đạt đang buồn, anh nói phụ họa theo:
− Vẫn chưa bằng mưa Trường Sơn đâu.
Sau ca làm việc, trạm trưởng Lê Văn Lâm thường đến lán Đạt uống trà hoặc uống rượu với thức nhắm chim rừng và kể đủ thứ
chuyện. Hôm nay, anh đến với Tiến Đạt từ lúc trời chưa nổi cơn giông. Tiến Đạt là người đầu tiên anh quen khi về nhận chức trạm trưởng Trạm 45. Không ngờ số phận run rủi đưa hai người xích lại gần nhau. Tiến Đạt kể về cuộc đời mình cho bạn nghe:
− Mói từ Liên Xô về nước bị điều ngay vào chiến trường nên nhiều lúc buồn chán. Nỗi buồn chán cứ theo ngày tháng mà nhân lên.
Vào tới Trường Sơn, những trận mưa rừng, bom đạn đã làm tiêu tan hoài bão ấp ủ từ khi học ở Liên Xô; không tin mình có thể thắng Mỹ, không tin những điều tốt đẹp có thực trong đời.
Lúc này Tiến Đạt vẫn đang ngồi trên chiếc giường cạnh liếp cửa, anh mặc chiếc áo bộ đội cũ đã bạc màu. Trông anh có vẻ mệt mỏi, da hơi xanh. Sau mỗi câu nói, khóe miệng hơi rung rung, hình như vì xúc động, đôi mắt không nhìn Lâm mà cứ nhìn đăm đăm về phía rừng.
− Thế rồi, có một lần, bị bọn biệt kích ngụy đánh úp, bắt cả
trạm đem đi. Chúng tiến hành tra tấn, đánh đập bắt mọi người vẽ lại sơ đồ hệ thống ống dẫn dầu. Thú thực chúng mình không biết, nên không khai. Cậu tính xem, một kỹ sư làm ở một trạm thì chỉ biết
đoạn đường ống khu vực mình phụ trách thôi, có phải không? Thế
nhưng bọn chúng vừa ngu, lại vừa dã man cứ không tin và tiếp tục tra tấn rồi quăng vào khu chuồng trại ở mé rừng, nơi chúng kiểm soát. Bọn mình nằm trên lớp rơm rạ ẩm ướt, bên dưới là lớp thuốc sâu. Mình nằm nghe những tiếng rên của đồng chí xung quanh, nghĩ
về số phận đen bạc của mình. Hai thằng cùng học ở Liên Xô về nước, một đứa về Bộ ngồi thiết kế đường ống Bắc Nam, còn mình ba lô con cóc trên vai xuyên rừng vào chiến trường. Cậu nghĩ xem, cảnh bất công như thế ai chịu được.
Lâm ngồi lặng lẽ nghe Tiến Đạt kể. Đã lâu lắm mới có dịp hồi tưởng lại tháng ngày ở Trường Sơn. Anh đưa chén rượu cho Đạt. Đạt cầm chén rượu đưa lên dốc thẳng vào miệng một lần cạn chén.
− Kể tiếp đi. Sau đó thì sao?
Tiến Đạt tiếp tục kể, giọng đầy chán nản, uất ức:
− Mấy tháng sau, chúng chuyến tất cả đến trại giam khác. Nghe đâu đến trại giam Bắc Quảng Trị. Đoàn tù phải đi bộ trong rừng sâu.
Bọn mình quần áo rách bươm khoác vai nhau lội bì bõm trên những vùng bùn và lá mục, qua những ổ trâu, ổ gà, bùn lầy ngập ngụa. Lợi dụng lúc những người tù đi cách xa nhau, lính dẫn giải không để ý, mình và Thu, trinh sát Trung đoàn 2 Sư đoàn 559, chạy trốn.
− Đó là hành động anh hùng, đáng tự hào, tại sao cậu lại buồn?
− Lẽ ra như thế, song các ông chỉ huy và công an vặn hỏi mình như tù binh: nào là trong nhà tù đồng chí có khai báo gì không? Tại sao đồng chí lại chạy thoát còn những người khác thì sao? Buồn hơn nữa - Tiến Đạt thở dài - Họ không tin mình, không sử dụng số liệu mình thu thập được chuyển đường đi của ống dẫn dầu, điều mình ra Bắc.
− Có lẽ mình cũng trong trường hợp tương tự chăng? - Lâm tự
nghĩ rồi trả lời - Không. Cấp trên điều chuyển hàng loạt chứ có phải một mình đâu?
Ngoài lán, gió đã ngớt hơn nhưng mưa vẫn đổ xuống dữ dội.
Hai người đốt lửa nhóm bếp đun nước. Một đợt gió mới lồng lộn lao
vào mái lán, nghe rõ tiếng cột kèo kêu răng rắc, tiếng nước mưa ào ào rút khỏi chỗ trũng của mái lán.
− Những đêm mưa rừng như thế này lại nhớ tới tháng ngày ở
Trường Sơn. Trường Sơn đã đem đến cho mình niềm tự hào nhưng nó cũng cay nghiệt với mình quá... Chính ở nơi đó, nó đẩy mình sang mặt trận bên kia, mình bị công an nghi ngờ làm tay sai cho địch. Ôi biết đến bao giờ mới thanh minh được nỗi oan trái này - Tiến Đạt nói như gầm lên. Anh cầm chai tiếp tục rót rượu - Uống đi mày! Uống cho nó quên hết nỗi bực bội, trớ trêu này.
Trạm trưởng Lâm, mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa hơi mỉm cười, như mải nghĩ ngợi một chuyện gì.
− Ừ, bị nghi ngờ như thế kể cũng buồn - Trạm trưởng Lâm suy nghĩ - Thế cậu cứ chịu sống trong cảnh nghi ngờ đó mãi hay sao?
− Thú thật với cậu, nhiều lúc tó muốn kết thúc cuộc đời cho xong. Nhưng nghĩ lại, mình chết bọn chúng có bị ảnh hưởng gì đâu.
Chúng vẫn sống đàng hoàng ở Hà Nội, sớm tối đi về với vợ con. Sang thế giới bên kia thì không trả thù được, sống ở thế giới cộng sản Bắc Việt này mình cũng coi là kẻ thừa. Lắm lúc nghĩ, rời bỏ quách cuộc sống khô sở này, chạy theo Mỹ cho xong.
− Đừng. Tớ khuyên cậu đừng nghĩ như thế. Chạy không thoát đâu. Từ bây giờ trở đi, cứ coi như không có chuyện đó, cứ làm việc ở
trạm bốn nhăm này với tớ.
Tiến Đạt nói vẻ giận dữ hơn:
− Nghe tớ kể, cậu biết đấy! Tớ đã sống những ngày xung quanh chỉ rừng núi; trải qua những đêm dông bão như đêm nay, chao ôi, thật dễ sợ; ngay cả bị chúng bắt, tra tấn, thậm chí giết hại, tớ có sợ
đâu, tớ vẫn có đồng chí, đồng đội bên mình - Tiến Đạt thở dài - Thế
mà bây giờ đồng chí, đồng đội lại nghi ngờ. Cậu bảo không bỏ nơi này chạy đi còn ở lại làm gì?
Đã lâu lắm, từ ngày rời Trường Sơn, hai người mới lại gặp một trận mưa rừng như đêm nay. Bỗng dưng hai người muốn được trò chuyện, giãi bày tâm tư, những sâu kín của lòng mình. Trạm trưởng
Lâm nhìn mặt và nghe giọng nói Tiến Đạt, anh ngồi chết lặng. Anh đang lần mò lại tất cả những gì hiểu biết về Đạt.
− Ở trạm bốn nhăm này, mình là trạm trưởng, cậu là trưởng van. Xét về công việc, mình là người phụ trách; xét về tình bạn, chúng mình có trách nhiệm giúp đỡ nhau nhưng phải hiểu về nhau.
Còn mình ở đây là còn cậu - Lâm ngừng nói, suy nghĩ - Thôi, nói sang chuyện khác - Cậu có biết tại sao dầu mỏ ở Việt Nam có sức hấp dẫn với Mỹ không?
− Mỹ cố sống cố chết mở cuộc chiến tranh Việt Nam một phần vì nguồn dầu mỏ tiềm tàng ở đất liền và thềm lục địa nước ta. Theo các nhà thăm dò, đánh giá, có thể các mỏ dầu ở Việt Nam còn lớn hơn các mỏ dầu ở Cận Đông. Sau này, khi kết thúc chiến tranh, Việt Nam sẽ khai thác và trở thành cường quốc dầu mỏ thế giới.
− Khi đó, đất nước mình sẽ ra khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, đời sống văn hóa, xã hội được thay đổi. Bởi vì từ dầu mỏ, nhiều ngành sẽ
phát triển. Cậu bỏ đất nước này chạy đi đâu?
− Giàu với họ, nghèo với mình, vì mình bị mất lòng tin - Tiến Đạt đập chén rượu xuống giường vỡ tan - Mất lòng tin là mất tất cả.
Rõ chưa?
− Bình tĩnh đã nào! Cùng lính Trường Sơn, cùng đồng đội trên tuyến dẫn dầu này, tớ không giúp được cậu sao?
Những lời của Lâm nói khi Tiến Đạt đang khủng hoảng lòng tin như cho anh thêm sức lực. Tiến Đạt nhìn Lâm như muốn nói rằng mình đã tìm được nơi bấu víu, tìm được người giãi bày tâm sự và xóa đi nỗi khổ đau.