
Đường Dẫn Đến Tội Lỗi
Tổng số chương: 23
Chiếc máy bay của hãng hàng không Mỹ từ từ hạ cánh xuống sân bay Hồng Kông khi ánh sáng điện của thành phố lấp lánh như viên ngọc bích khổng lồ tỏa xuống biển. Chiếc đồng hồ treo giữa bức ảnh khỏa thân ở phòng đợi đã chỉ 18 giờ 30. Oan-tơ Mác-ti, người chỉ huy trực tiếp chiến dịch đánh cắp bản thiết kê các kho, trạm và đường dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam xuống cầu thang máy bay, bước lên xe Toyota đi về trung tâm Cục tình báo trung ương Mỹ
tại Hồng Kông.
Trên khoảng sân rộng của biệt thự chẳng thấy bóng ai ngoài một người Mỹ cao to, nước da hồng như vừa thoa lớp kem trang sức của phụ nữ đứng chờ trước cửa. Bộ âu phục màu cà phê sữa, chiếc cra-vát xanh đỏ tôn thêm dáng vẻ lịch sự của gã. Oan-tơ Mác-ti thong thả gõ cặp kính đen khỏi mắt.
− Chào ngài.
− Chào ngài.
Sau câu chào xã giao, Oan-tơ Mác-ti lại tập trung suy nghĩ về
phương cách cho người xâm nhập vào ngành vật tư Việt Nam hiện đang nằm trong cặp của lão.
− Chúng tôi đang chờ ngài - Mác Lây-gân, trưởng trung tâm tình báo tại Hồng Kông nói.
− Chắc ngài đã nhận được điện từ Leng-lây1.
Mác Lây-gân thay vì trả lời câu hỏi đó bằng báo cáo:
− Dạ, chúng tôi đã chuẩn bị xong kế hoạch cho V10 xâm nhập vào một trạm xăng dầu gần Hà Nội để từ đó anh ta tiếp cận Tổng công ty Xăng dầu.
Oan-tơ Mác-ti nhìn gian phòng làm việc ghép bằng những tấm pa-nen đã được trát lớp vôi ve màu kem sữa nên có cảm giác căn phòng như bị phủ trong đám mây vàng. Oan-tơ Mác-ti nguyên là một sinh viên đại học ở Vơ-gi-ni-a được tuyển vào Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Sau khi huấn luyện, y được bổ nhiệm sang Đài Loan, Băng Cốc, Sài Gòn công tác ba nhiệm kỳ rồi trở về Trung tâm phân tích tin tại Leng-lây. Lòng căm thù chế độ cộng sản và niềm tin vô biên vào sức mạnh của Cục Tình báo trung ương Mỹ của Oan-tơ Mác-ti, những cái đó đã giúp Giám đốc CIA tin và bổ nhiệm y tới căn phòng này. Y cho rằng, những lực lượng vật chất thô bạo và những cuộc đụng độ ngoài chiến trường của các phe cánh đối đầu dần dần phải nhường bước cho trí tuệ, cho chiến tranh lạnh. Y giải thích:
− Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh tổng lực, hao người tốn của. Không lực Hoa Kỳ đã phát huy sức mạnh ở miền Bắc Việt Nam trong việc đánh phá giao thông vận tải, ném bom đường ô tô, đường sắt, ném bom phong tỏa các đầu mối đường sông, ngã ba sông, cửa sông, phong tỏa Lục Đầu Giang, sông Lèn, đoạn Đào Viên sông Đuống, đoạn Vạn Điểm sông Hồng, cửa Ba Lạt, cảng Bến Thủy, phà sông Gianh... nghĩa là chúng ta đã chặn cả đường bộ lẫn đường thủy, nhưng xe vận tải chở vũ khí, lương thực của Bắc Việt vẫn như dòng chảy chạy vào miền Nam, xe tăng vẫn hoạt động bình thường ở chiến trường. Các phương tiện đó dùng nước lã chạy phải không? Không phải! Nó sử dụng xăng dầu của hệ thống ống dẫn. Nếu chính phủ Mỹ cứ tiếp tục cho máy bay đi tìm để tiêu diệt từng ô tô chở
xăng dầu, tiếp tục xua đuổi binh sĩ ra chiến trường thì xăng dầu -
huyết mạch của giao thông - vẫn cứ chảy từ Bắc Việt vào Nam Việt theo nhịp co bóp của quả tim Hà Nội. Đến lúc này, một lần nữa Quốc hội lại thừa nhận trí tuệ và tri thức đóng vai trò quan trọng trong cuộc
chiến tranh này, nghĩa là thừa nhận vai trò của Cục Tình báo trung ương Mỹ chúng ta - Oan-tơ Mác-ti cười hết cỡ - Lạ thật, ngay cả những nghị sĩ thượng, hạ nghị viện trước đây đã từng phản đối hoạt động của CIA, đến bây giờ cũng phải thừa nhận một điệp viên báo cáo chính xác các trạm xăng dầu ở miền Bắc và đường ống dẫn xăng dầu vào Nam cho không lực Hoa Kỳ ném bom thì hàng sư đoàn không phải xông ra trận chặn các đoàn xe. Như thế một điệp viên của chúng ta có sức mạnh bằng cả một sư đoàn, có phải không ông Mác Lây-gân - Ngừng một lúc Oan-tơ Mác-ti thấp giọng - Tôi nói như thế để ngài thấy tầm quan trọng của kê hoạch cho điệp viên xâm nhập lấy cắp bản thiết kế
những đoạn xăng dầu và hệ thống đường ống dẫn xăng dầu ở miền Bắc Việt Nam. Hiểu được như thế, ngài trình bày kế hoạch sao cho thực tế và sát hợp hơn.
Mác Lây-gân ngồi im. Gần hai nhiệm kỳ nằm ở Đài Bắc và Hồng Kông, y cảm thấy mình như một kẻ ẩn dật tự nguyện. Bây giờ nghe Oan-tơ Mác-ti nói, y thấy biệt thự y ẩn dật sôi động hẳn lên:
− Thưa ngài, các sếp ở Leng-lây yêu cầu gì ở chúng tôi trong chiến dịch này?
Oan-tơ Mác-ti nâng cốc rượu Uýt-ky uống, ngả lưng về phía thành ghế nói:
− Theo tin tức chúng ta thu được, cộng sản Bắc Việt đã và đang hoàn thành hệ thống đường ống dẫn xăng dầu từ Bắc vào Nam. Tin tức đó có đúng không? Nếu có thì dẫn đi theo đường nào? Những kho chứa nổi và trạm bơm chính đặt ở đâu? - Oan-tơ Mác-ti thấp giọng -
Ném bom đánh phá, phong tỏa chặn đường chi viện của cộng sản từ
Bắc vào Nam mà không phá đường ống dẫn xăng dầu này thì chỉ là việc làm vô ích. Cho nên, nhiệm vụ của ngài là cho phép điệp viên xâm nhập vào Bắc Việt thu thập những tin tức này báo cáo cho đại bản doanh Leng-lây biết.
− Công việc này cần bao lâu?
− Tôi nghĩ, nếu bây giờ mới tuyển chọn người tung vào Bắc Việt thì cần tới hai năm. Nhưng V10 đã nằm ở Bắc Việt rồi thì chỉ cần 6
tháng. Đối với chúng ta hiện nay, thời gian là vấn đề cốt yếu nhất.
− Một lúc mà ta cho V10 tiếp cận Tổng công ty Xăng dầu Bộ Vật
tư và cả Cục Xăng dầu Bộ Quốc phòng, tôi e rằng thời gian 6 tháng quá gấp.
− Trong cùng thời gian, điệp viên chỉ nên chọn một mục tiêu: Anh hãy giao cho V10 tìm ra cái đó. Ngay đêm nay, qua các chữ số mật mã, anh chỉ thị cho V10 kế hoạch hành động.
Oan-tơ Mác-ti truyền đạt xong chỉ thị của Leng-lây y cảm thấy nhẹ nhõm. Y đứng dậy đi lại trong phòng rồi dừng bên cửa sổ nhìn ra đường ngắm các cô gái Hoa kiều với chiếc váy mi-ni để lộ đôi chân trắng nõn đi trên đường phố. Y chép miệng thở dài. Đó là thói quen của y khi nhìn thấy con gái đẹp. Còn Mác Lây-gân rút khăn lau trán lấm tấm mồ hôi. Công việc Leng-lây giao đã làm thần kinh y căng thẳng quá mức. Y kéo ngăn bàn lấy tờ giấy thảo mật điện gửi V10. Kế
hoạch đánh thức con rắn nằm trong rừng bò về Hà Nội bắt đầu.
⚝ ⚝ ⚝
1. Langley là đại bản doanh cơ quan tình báo trung ương Mỹ tại Niu-Yoóc.