← Quay lại trang sách

⚝ 2 ⚝

Sau khi đưa người yêu cũ xấu số đến nghĩa trang Văn Điển, Lâm lại về sông bên bìa rừng. Khi qua Hà Đông, y không quên mua bó hương về cầu nguyện cho vong linh của người con gái xấu số. Lán trại Trạm 45 vốn đã hẻo lánh, bây giờ lại nghi ngút khói hương thờ cúng linh hồn của một cô gái làm cho nó lạnh lẽo hơn. Mọi người khuyên Lâm, đó là số phận, đừng buồn làm gì nữa, con người ta ai mà chẳng phải đi vào cõi vĩnh hằng. Mỗi khi nghe những lời động viên của cán bộ, công nhân trong trạm, y chỉ nói như thanh minh:

− Tôi chỉ hối hận là đã giận cô ấy - Giọng y nghèn nghẹn - Và biết đâu, vì sự đổ vỡ mối tình, cô ta buồn đi lang thang và bị kẻ xấu giết.

Từ ngày Hà chết, Lâm ít nói hơn, mặt luôn đượm sắc ưu tư, lo lắng, nhiều lúc như dại khờ... Y nằm trên giường, úp mặt xuống gối.

Hình như trong y dâng lên nỗi u buồn, thương tiếc người bạn thân, mà người bạn đó có thời đã dành cho mình những cái hôn nồng cháy. Rồi

chính đêm ấy, y trách mình tại sao lại bước vào con đường làm gián điệp, giết người.

Y nhớ rất rõ cái đêm mưa bão ấy, y và Hằng đang ngủ với nhau ở

gốc cây thì bị bọn thám báo địch ập đến bắt. Chúng dẫn hai người đi qua những thung lũng đầy bùn và lá mục ngập tận đầu gối đến giam tại một nhà giam mà đến bây giờ y vẫn chưa biết tên.

Đêm đầu tiên Lê Văn Lâm sống xô bồ với mọi người bị giam. Một tiếng rên la của người nào đó cũng làm y thức giấc. Chốc chốc bọn địch lại đẩy vào một người mỏi bị bắt. Người mới đến và người đã bị

giam từ trước không nhìn thấy mặt nhau mà chỉ hiểu nhau qua lời nói.

Sau khi phân loại, bọn địch chuyển Lâm đến buồng giam biệt lập, đầy đủ tiện nghi, sáng hôm sau bị dẫn đi hỏi cung. Y bước theo hành lang hẹp đến trước căn phòng số 4. Tấm cửa sắt nặng nề mở ra. Căn phòng màu vàng chết chóc với chiếc máy có những mắt điện xanh đỏ

vàng đặt sát tường.

− Mòi ngồi - Rôn-pho, sĩ quan CIA chỉ huy ở vùng 2 chiến thuật nói.

Lê Văn Lâm gieo mình xuống chiếc ghê đơn độc đặt giữa phòng.

Một lính ngụy đeo lon trung úy đưa cho Rôn-pho tờ giấy. Y nhìn Lê Văn Lâm tỏ thái độ thiện cảm.

− Anh bị bắt đã lâu chưa?

− Hai ngày.

− Anh là kỹ sư học ở Ba Lan về?

− Đúng thế.

− Anh có khả năng thiết kế đường ống dẫn dầu?

− Tôi không hiểu ý câu hỏi của ông.

− Không hiểu ý câu hỏi của tôi - Rôn-pho cười gằn. Và ném cái nhìn thiện chí về phía Lâm.

− Tôi biết anh là trạm trưởng, có khả năng thiết kế đường ống.

Chúng tôi muốn yêu cầu anh hợp tác.

− Hợp tác gì? Các ông là kẻ xâm lược, chúng tôi chiến đấu chống lại kẻ xâm lược mà cũng đòi hợp tác hay sao?

Rôn-pho nhỏm người dậy tỳ sát vào bàn:

− Anh hãy vẽ lại đoạn đường ống mười cây số do anh phụ trách.

− Thưa ông, tôi chỉ vẽ cho chính phủ chúng tôi chứ có phải vẽ cho kẻ xâm lược đâu.

Rôn-pho đỏ mặt vì tức giận. Ông ta có thể nhẫn nhục chịu đựng mọi sự trả lời, song kiểu đối đáp sỉ nhục quốc thể Mỹ thì ông ta khó nén nổi tức giận. Còn Lê Văn Lâm tỏ thái độ kiên quyết không chịu khai báo bất cứ điều gì liên quan tới đường ống dẫn dầu, động mạch chủ đã truyền máu cho toàn cơ thể.

− Nếu như anh không hợp tác với chúng tôi, không chịu vẽ lại đường đi của ống dẫn dầu - Rôn- pho nhìn thẳng vào mặt Lâm, mỉm cười cay độc - Nghĩa là anh chọn con đường chết.

Kinh nghiệm gần ba mươi năm trong nghề tình báo đã cho Rôn-pho hay, ngay một lúc không thể làm lay chuyển được suy nghĩ của đối phương. Dùng roi vọt tra tấn, kẻ sợ chết có thế nhận làm việc, song lòng trung thành và độ tin cậy thấp hơn nhiều so với kẻ tự

nguyện rời bỏ lý tưởng. Vì công việc tuyển chọn điệp viên vượt lên tất cả, Rôn-pho nén nỗi bực tức:

− Hy vọng anh sẽ có thì giờ nghĩ lại và hợp tác với chúng tôi.

Rôn-pho ấn tay vào núm xanh trên máy điện thoại. Cánh cửa bên mở toang, hai người Mỹ bước vào cầm sợi dây nilon luồn qua hai nách buộc chặt Lâm vào thành thế. Họ cầm dây điện quấn vào hai bắp chân Lâm chậm rãi nhưng chắc chắn và thành thạo của những người chuyên nghề thẩm vấn bằng máy điều tra tâm lý. Một tên cầm chiếc mũ sắt chụp lên đầu Lâm, tên kia nới các đầu dây, Rôn-pho đích thân kiểm tra lại máy ghi tín hiệu, tận tay đặt băng giấy trắng nằm dưới ngòi bút điện. Lê Văn Lâm tưởng chúng dùng điện tra tấn làm các chân lông trên trán lấm tấm mồ hôi.

− Anh Lâm, chính phủ Mỹ đối xử nhân đạo đổi với bất cứ ai bị bắt.

Chúng tôi chỉ kiểm tra xem mức độ thành thật của anh qua máy kiểm tra này. Anh suy nghĩ và trả lời các câu hỏi do chúng tôi đặt ra.

Rôn-pho ngồi xuống ghế và ra hiệu cho hai người Mỹ bắt đầu thao tác.

− Anh là kỹ sư học ở Ba Lan về?

− Vâng.

− Vào Trường Sơn mười tám tháng?

− Đúng.

− Chức vụ trạm trưởng?

− Đúng.

− Đã ngủ với cô Thúy Hằng?

− Không... Có...

− Nhất định không vẽ lại hệ thống đường ống?

− Đúng.

− Và chọn tội chết?

− Vâng.

− Anh thích gái nhảy Ba Lan?

− Đúng.

− Và thích chung sống với Thúy Hằng?

− Đúng.

− Nhất định không chịu cộng tác với chúng tôi để xa cô Thúy Hằng?

− Đúng.

Rôn-pho cúi xuống nền nhà nhặt cuộn băng rối rắm có một vạch mực đen trên giấy. Còn Lê Văn Lâm vẫn ngẩng mặt lên trần nhà như

nhìn vào nơi vô định để lấy lại bình tâm.

− Tắt máy - Rôn-pho ra lệnh rồi cầm cuộn băng xem tín hiệu.

Ông ta ngạc nhiên khi thấy đường vạch đi một đường thẳng đều nhau, ông ta cuộn tròn cuộn băng bỏ vào túi không cho bất cứ ai biết kết quả

cuộc thẩm tra này.

Rôn-pho quyết định tiếp tục trò chơi nghiệp vụ. Y cho dẫn Thúy Hằng vào bắt ngồi im chứng kiến các cuộc tra tấn đồng đội.

Một tên cầm roi gân bò đeo kính râm bước vào.

Một tù binh bị đẩy vào phòng, liền bị roi gân bò quật ngang mặt ngã gục xuống. Tên đeo kính chửi bới thô tục, đá liên tiếp vào mặt, vào ngực, làm máu loang ra đầy mặt, Lê Văn Lâm và Thúy Hằng đều nhắm mắt cho những hành động tra tấn kia nhòe đi.

− Có chịu khai không? - Tên đeo kính gầm lên.

Người tù kia quằn quại nằm ngửa lên liền bị một trận tra tấn tiếp theo cho đến khi tắt thở.

− Khiêng đi! - Hắn bắt Lâm và Hằng khiêng xác người đồng chí đưa đi chôn.

Sau khi chôn cất người đồng chí, Lê Văn Lâm lại trở về buồng giam.

Đêm ấy, khoảng mười một giờ, theo sau ánh sáng điện và gió vội ùa vào là bốn tên đao phủ ngụy khiêng một người tù quần áo bê bết máu quăng vào buồng giam rồi đi ra. Tiếng rên dai dẳng từ một cái miệng áp chặt xuống đất như tiếng thở phì phì. Y cởi áo lau máu đang chảy bên mép người tù.

− Anh tên gì?

− Hà Văn Đệ.

− Đơn vị nào?

− Trinh sát sư đoàn 559.

Trước đó ba ngày, trên đường đi trinh sát, anh bị địch phục kích bắt. Chúng bắt anh dẫn đường cho lính Mỹ đánh vào sư đoàn bộ, anh không chấp nhận nên bị chúng đánh gãy chân, mê man bất tỉnh và chết vào sáng hôm sau.

Đám ma anh Đệ cũng khá kỳ lạ, chỉ có bốn tên đao phủ, Hằng và y. Anh Đệ nằm trong quan tài bằng hòm gỗ cũ còn đọc được nhãn hiệu hòm đạn và bột giặt: bốn tên đao phủ bắt y và Hằng xúc đất chôn Đệ, không được nói chuyện. Mỗi lần ngẩng mặt lên, bốn con mắt lại bắt gặp nhau vừa cảm thấy rất gần lại rất xa, vừa thương nhau lại vừa sợ

hãi.

− Lâm đi tiễn biệt bạn rồi trở về mà khai báo, nếu không cũng chịu số phận như tên tù này.

Lúc đó y mong được sống cùng Hằng, che chở cho Hằng. Thế rồi hai đứa phải xa nhau, lại phải trở về buồng giam biệt lập để tiếp tục chứng kiến cảnh tra tấn, đánh đập, để rồi hôm sau lại cùng Hằng xúc đất đổ lên những hàng quan tài anh em đồng đội. Cuộc đời họ cứ xếp hàng đi ngang qua cuộc đời y và Hằng. Một cuộc đời đi ngang qua một cuộc đời, cũng có thế như khóc, cũng có thế như hát. Đệ và một số

anh em nằm dưới những nấm mồ ngoài nghĩa địa kia đã đi qua cuộc đời y như một bóng ma. Y định bỏ chạy, nó cứ níu lại bên miệng huyệt.

Y ngồi lặng lẽ bên tường sợ hãi những cuộc tra tấn, sợ hãi cái chết.

Bỗng buồng giam mở cửa. Đúng rồi, có lẽ họ đưa mình đi tra tấn.

Y nghĩ như thế.

Nhưng không, chúng lại đưa đi kiểm tra qua máy kiểm tra tâm lý.

Lần này, người điều khiển máy và thẩm tra vẫn như lần trước, chỉ có khác là có Thúy Hằng ngồi bên chứng kiến. Rôn-pho nâng cốc nước lọc lên uống liền mấy ngụm rồi châm thuốc hút. Ông ta giở sổ tay sắp xếp lại những câu hỏi lần trước để đánh gục Lê Văn Lâm.

Cảu hỏi 1: - Anh là kỹ sư học ở Ba Lan về nước?

− Đúng.

Câu hỏi 3: - Anh thật lòng yêu cô Thúy Hằng?

− Đúng.

Cảu hỏi 9: - Nhưng anh muốn chết để cô Thúy Hằng sống một minh?

− Không.

Câu hỏi 19: - Thế thì anh cộng tác với chúng tôi?

− Không.

Buổi thẩm vấn kết thúc. Rôn-pho mở băng ghi âm nghe lại cuộc thẩm vấn và mắt nhìn theo đường mực ngoằn ngoèo để phân tích tâm lý.

Niềm vui mong đợi đã đến. Câu hỏi số 19 với đường gạch của "bút điện", Rôn-pho nói to lên gần như thét:

− Nó bắt đầu do dự.

Rôn-pho quyết định nhanh chóng giáng tiếp một đòn mới vào chỗ

yếu trong tình cảm của Lâm.

Ngay đêm đó, Lê Văn Lâm được đưa về khách sạn Thái Bình Dương tại Đà Nẵng. Khi bước vào phòng, đã thấy Thúy Hằng đang nằm trên chiếc đệm trắng tinh trong bộ đồ ngủ đắt tiền. Bốn con mắt nhìn nhau đến rơi nước mắt.

− Em có bị tra tấn không?

Thúy Hằng lắc đầu:

− Anh ngồi xuống đây đã!

Lâm đến bên Thúy Hằng. Cô ta nhìn Lâm bằng đôi mắt lạ lùng.

Đó là đôi mắt của con nai trong tình cảnh sa bẫy của thợ săn, ánh lên long lanh, vừa trong vừa hoảng loạn. Lâm đoán rằng, trong những ngày qua, Thúy Hằng phải chịu nhiều cực hình, có thể bị chúng thi nhau hãm hiếp, giờ cô đang hoang mang.

− Những ngày vừa rồi em rất thương anh, lo anh cũng bị tra tấn như anh Đệ.

− Anh cũng lo cho em và thương em nhiều. Có lúc nghĩ dại, em đã bị chúng...

− Không. - Thúy Hằng cầm tay Lâm kéo nằm xuỗng giường - Em vẫn là của anh tất cả.

− Tại sao em xanh thế?

Thúy Hằng nói trong hơi thở:

− Em đã có...

− Có thai? - Lâm ngạc nhiên hỏi - Bị từ lần vừa rồi hay trước đó?

− Trước.

Lâm nhìn Thúy Hằng vừa thương lại vừa lo trong tình cảm thương yêu và cùng bị tù đầy.

− Bọn chúng có biết không?

− Biết. Con bác sĩ phát hiện thấy em nôn oẹ đã cho em về đây tĩnh dưỡng cho đến ngày sinh nở mẹ tròn con vuông. Chính ở căn phòng này em lại thương và lo cho anh vô hạn. Không hiểu sau đây cuộc đời của anh và con sẽ ra sao.

Lâm kéo vỏ chăn hoa đắp ngang bụng Thúy Hằng để tránh cái gió biển Thanh Bình thổi tới. Giây phút ấy, niềm hạnh phúc đã đến với cả hai người. Thúy Hằng có cảm giác hai người đang che chở cho nhau.

Mùi da thịt và hơi ấm của hai người tỏa ra nóng rực. Thúy Hằng nhìn Lâm, nghĩ về Lâm và đứa trẻ sắp ra đời, cô khóc.

− Nín đi, em nín đi ngay nào!

Theo bản năng, Lâm đưa ngón tay chạm vào cặp môi hơi mềm nhẹ của Thúy Hằng và nhận biết nước mắt đã loang tràn xuống đến tận môi. Những ngón tay đầy thương cảm của Lâm lần lần lên má, lên khóe mắt Thúy Hằng, rồi lặng lẽ lau nước mắt cho cô.

− Em buồn khổ lắm phải không?

Thúy Hằng nhìn Lâm, khuôn mặt đẹp và buồn dường như lắc nhẹ

bảo rằng "vâng", cánh tay lại kéo Lâm về phía mình như bảo rằng

"không".

Có lẽ Thúy Hằng ôm riết lấy Lâm trước hay Lâm ôm riết lấy cô ta trước, điều đó nói chính xác thật khó. Chỉ biết rằng hai người ôm nhau thật bất ngờ, thật tự nhiên. Lòng họ cũng chan chứa tình thương yêu, muốn truyền cho nhau trong căn phòng này, trong lúc tâm trạng tạm thời bình tĩnh sau những ngày hoảng loạn. Sự ấm cúng tạm thời đó truyền cho nhau thật êm ái, thật thân thiết. Thúy Hằng cứ để mặc cho những ngón tay Lâm lần giở từng cúc áo của mình mà không hề

ngượng ngập. Lâm cứ như đứa trẻ vùi mình vào chiếc vỏ chăn ấm, vừa âu yếm lại vừa tham lam dữ tợn như một con thú.

Sau những phút giây tưởng trái đất này chỉ có Lâm và Hằng. Lâm thở dài. Những ngón tay Thuý Hằng lúc trước đó vò cho tóc Lâm rối bù thì giờ đây lại trải đều, vuốt nhẹ. Hai người nằm sát bên nhau trên chiếc đệm mút phủ vải trắng tinh.

Nỗi lo sợ bị giết hại bắt đầu nhen lên tiến công niềm vui, nỗi đam mê mà hai người vừa dành cho nhau. Đối với Lâm, nỗi lo sợ đến nhanh hơn, dữ tợn hơn. Còn đối với Thuý Hằng, lẽ ra có con là vui chứ. Người phụ nữ nào chẳng muốn có đứa con, niềm vui, niềm hạnh phúc và đứa con đó phải có bố. Nếu bây giờ địch thả ra trở về Trường Sơn, ra Bắc, liệu anh em đồng chí có bỏ qua chuyện mình chưa có chồng đã có con không? Sự sợ hãi này đang nảy sinh trong niềm vui có đứa con. Hay là mình khuyên anh ấy khai báo đôi điều rồi vào Sài Gòn sống cuộc đời ẩn dật như mấy tên cai ngục đã hứa hẹn. Phải rồi, đó là con đường thoát.

Những giây phút đó, đứa con là điều hạnh phúc, là con đường chạy trốn khỏi tiếng đồn đại khinh miệt của đồng đội, dân làng đã tưới lên tâm hồn đau khổ, nỗi lo âu sợ hãi, đẩy cô thiên về hướng khuyên Lâm khai báo.

− Nếu anh không khai, anh sẽ bị chúng giết như đã giết anh Đệ -

Thuý Hằng nói khẽ và run.

− Để xem đã! - Lâm nói lưỡng lự.

− Bọn chúng nói với em, dù nhà tù cộng sản hay Mỹ ngụy thì cũng đối xử nhân đạo với tử tù: trước khi tử hình, cho ăn một bữa cơm ngon. Đối với anh, họ bảo cho đến thăm em để hưởng giây phút hạnh phúc cuối cùng trên trần thế trước khi bước sang thế giới bên kia.

− Chúng nói như thế hay sao? - Lâm ngạc nhiên nói.

− Vâng, chúng nó nói thế - Giọng Thuý Hằng vẫn buồn, trầm đục.

Cô tiếp tục thuyết phục - Anh không thể chết lúc này được. Đứa trẻ

sinh ra phải có cha. Anh cũng phải sống để...

Trong lúc Thúy Hằng nói như thế, Lê Văn Lâm thấy cái chết bất thần lại ập đến đẩy y về miệng huyệt đen ngòm. Lê Văn Lâm nhẹ nhàng gỡ

cánh tay bị đầu Thúy Hằng đè lên, thay vào đó là chiếc gối. Đôi mắt Thúy Hằng u buồn, trắng đục nhìn Lê Văn Lâm trào nước mắt làm cho sắc mặt xanh bợt của cô thêm biến màu. Tự nhiên cô thương và lo cho

Lâm bị giết hơn lúc nào hết. Rồi cô lại nghĩ, nếu anh ấy chết, đứa con sinh ra sẽ không có bố. Không, anh không thể chết được! Con chúng ta phải có bố. Muốn thế anh phải sống! Muốn sống, anh phải khai chút xíu thôi, gọi là làm phép. Họ cũng nói với em như thế mà, anh ơi!

Thúy Hằng nói tất cả những ý nghĩ khổ đau dằn vặt đó với Lê Văn Lâm. Lê Văn Lâm nằm im nghe Thúy Hằng nói, một lúc sau ngồi dậy lấy thuốc lá hút.

Đêm đó, Lê Ván Lâm ngồi thức suốt đêm nhìn qua ô cửa. Đà Nẵng ban đêm thật dễ chịu. Gió biển thường đến sớm và sương giăng li ti trong màu sáng đục của ánh điện đêm. Bình thường gió từ phía biển Thanh Bình thổi tới, thỉnh thoảng gió quẩn lại chuyển hướng từ

phía sông Hàn tới. Ngày bị áp giải về Đà Nẵng, khi đi qua cầu Trịnh Minh Thế, mặc dù xe bịt kín, Lê Văn Lâm cũng biết mình đã qua sông Hàn. Giờ đây ngồi trên tầng cao của khách sạn, Lê Văn Lâm cố phóng mắt nhìn về phía dòng sông, chốc chốc lại đưa mắt nhìn Thúy Hằng. Lê Văn Lâm thấy buồn. Nỗi nhớ không phương hướng bắt đầu len lỏi trong tâm khảm. Lâm nghĩ lại lịch trình cuộc đời, bắt đầu từ những ngày học phổ thông, Ba Lan đi vào các khách sạn nhảy với các cô gái châu Âu, những ngày vào Trường Sơn, ghì chặt Thúy Hằng ngủ dưới tấm nilon che mưa... Rồi tự nhiên Lâm nghĩ tới buổi đào huyệt chôn Đệ. Thế rồi hình ảnh cái huyệt mà Đệ nằm xuống cho nước ngập tràn quan tài đã xua đuổi mọi nỗi nhớ, không cho nỗi nhớ kết tổ trong Lâm.

Trăng lên, vượt khỏi đèo Hải Vân từ bao giờ đang nhợt nhạt trong sương. Ánh trăng không sao lấn át được ánh điện thành phố. Nỗi nhớ

quá khứ kia như nhòe vào ánh trăng đêm, còn cái huyệt chôn Đệ lại xuất hiện ngay dưới ánh đèn đường, ngay trước mặt Lâm. Lòng Lê Văn Lâm đang tan loãng trong cơn buồn và sợ chết.

Thúy Hằng ngồi dậy đến bên Lâm từ lúc nào nhưng y không để ý.

− Sao, anh có nghe theo em không hay cứ chấp nhận cái chết vô ích?

Lê Văn Lâm bừng tỉnh. Hai chân định đứng lên quay mặt về phía Thúy Hằng nhưng cả thản hình như đang bị trói chặt. Trời ơi, có lẽ tình yêu chồng vợ chung đụng với đàn bà mới đem đến cho mình hạnh phúc chăng. Miệng Lâm líu lại không thành câu:

− Anh đang suy nghĩ.

− Suy nghĩ để chính tay em đi đào huyệt chôn anh hay sao?

Câu nói của Thúy Hằng làm Lâm rã rời xương cốt, hoang mang, hoảng loạn.

− Anh sẽ khai những vấn đề nào không quan trọng.

− Họ cũng chỉ yêu cầu thế thôi mà.

Nhưng sự thực hoàn toàn trái ngược điều Lâm nghĩ.

Sau khi có tài liệu trong tay, CIA lại tiếp tục khai thác, cuối cùng buộc y phải ký giấy làm việc rồi đưa đi huấn luyện cấp tốc, tung trở lại chiến trường với những lời báo cáo ngụy trang và chiếc ảnh Thúy Hằng có bảng chữ số chìa khóa mã ghi ở phía sau.

Thê rồi, Tổng cục Xăng dầu điều y ra Bắc. Y nghĩ đó là dịp may hiếm có để rũ bỏ cái nghề làm tay sai cho Mỹ, ra đi không thèm báo cáo lại CLA, cắt đứt mọi liên lạc. Nhưng CIA không chịu từ bỏ. Một tối y đang đi lang thang một mình theo dọc đường ống dẫn dầu, bỗng có tiếng gọi:

− V10.

Y quay lại.

− Ông là ai?

− V5.

Y rùng mình sợ hãi. Thế là CIA lại cho V5 bước vào cuộc đời mà y đang có ý định sông yên ổn.

− Õng ở đâu đến?

− Không cần biết. Đó là nguyên tắc - Hắn ta dằn rõ hai tiếng

"nguyên tắc".

Lâm thực sự hoang mang. Đúng là CIA đã giữ chặt cuộc đời của

y. Không còn cách nào khác, y đành nhận chỉ thị đánh cắp bản thiết kế

đường ống dẫn xăng dầu và chiếc đài phát sóng.

Điều bất hạnh xảy ra, Phan Hồng Hà xé mất ảnh Thúy Hằng là xé bỏ chữ số khóa mã nên cô phải tội chết. Cái chết của cô ngoài dự kiến của Lâm, gây cho y nỗi buồn nhất định.

Đêm đó, ngồi trong lán Trạm 45, y nghĩ về cái chết của Đệ, của anh em Trường Sơn và cái chết của Hà, làm y cảm thấy khiếp đảm quá chừng. Sao mà cái chết nó cứ đeo đẳng bên mình một cách tệ hại như

thế. Nó thực sự như một thứ thuốc độc ngấm vào cơ thể làm y mệt rã rời. Y nằm xuống giường, toàn thân run lên như người lên cơn sốt rét.