Chương 4
Libby có thể nghe thấy tiếng thì thầm của từng khoảnh khắc mà căn phòng này đã từng chứng kiến, cảm thấy từng hơi thở của những người đã ngồi trên cái ghế mà cô đang ngồi.
“Một nghìn bảy trăm chín mươi chín,” ông Royle trả lời câu hỏi trước đó của cô. “Đây là một trong những văn phòng luật lâu đời nhất ở thủ đô.”
Giờ thì ông Royle nhìn cô từ phía bên kia cái mặt bàn phủ đầy sáp của ông. Một nụ cười thoáng qua trên môi ông, và ông nói, “Ái chà chà chà. Món quà sinh nhật này cũng ra tấm ra món đấy chứ, hả?”
Libby gượng cười lo lắng. “Tôi vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn bị thuyết phục rằng mọi thứ là thật,” cô nói. “Tôi vẫn mong ai đó nói với tôi rằng đây chỉ là trò đùa mà thôi.”
Cách cô chọn từ trò đùa có vẻ không được thích hợp với bối cảnh cổ kính và trang nghiêm này. Cô ước cô đã chọn cách diễn đạt khác. Nhưng chắc ông Royle không để bụng cho lắm. Ông vẫn nhoẻn miệng cười khi ông rướn người về phía trước và đẩy một chồng giấy tờ dày cộp sang cho Libby. “Không có trò đùa nào đâu, cô Jones, tôi có thể đảm bảo với cô điều đó.”
“Đây,” ông vừa nói vừa kéo thứ gì đó ra từ chồng giấy. “Tôi không chắc liệu có nên đưa cho cô cái này bây giờ hay không. Hay có lẽ tôi nên gửi nó cho cô. Cùng với lá thư lần trước. Tôi không biết nữa, làm thế nào thì cũng khó xử cả. Nó nằm trong tập tài liệu, nhưng tôi giữ nó lại, vì nhỡ đâu lại có điều gì đấy không đúng. Nhưng đây là điều tôi nên làm. Nên đây. Tôi không biết cha mẹ nuôi của cô đã kể cho cô những gì về cha mẹ đẻ của cô. Nhưng có lẽ cô nên dành vài phút để đọc cái này.”
Cô mở tờ báo ra và đặt nó lên bàn, ngay trước mặt mình.
Socialite và chồng chết trong một vụ tự tử tập thể
Thiếu niên trong nhà mất tích; bé sơ sinh vẫn còn sống
Hôm qua cảnh sát được triệu tập đến căn biệt thự ở Chelsea của cựu socialite Martina Lamb và chồng, ông Henry sau khi nhận được tin có một vụ tự tử tập thể ba người xảy ra ở đây. Cảnh sát có mặt vào khoảng giữa trưa và tìm thấy thi thể của ông bà Lamb nằm cạnh nhau trên sàn bếp. Một người đàn ông khác, hiện chưa xác định được danh tính, cũng được phát hiện đã chết. Một bé sơ sinh, được cho là bé gái, khoảng mười tháng tuổi, được tìm thấy trong căn phòng trên tầng hai. Hiện em bé đã được đưa vào cô nhi viện và có sức khỏe tốt. Hàng xóm quan sát thấy trong mấy năm gần đây có một vài đứa trẻ từng sống trong căn nhà này; ngoài ra cũng có nhiều báo cáo cho biết còn có những người lớn khác cũng từng sống ở đây, nhưng không có dấu vết nào khác được tìm thấy ở hiện trường.
Nguyên nhân của cái chết vẫn chưa được xác định, nhưng các mẫu xét nghiệm máu ban đầu cho thấy rất có thể ba người đã tự đầu độc.
Henry Lamb, 48 tuổi, là người thừa kế tài sản duy nhất của cha mình, ông Harry Lamb, người gốc Blackpool, Lancashire. Những năm gần đây sức khỏe của ông Lamb giảm sút, có nguồn tin cho biết ông phải ngồi xe lăn.
Hiện cảnh sát đang rà soát khắp cả nước để tìm hai cháu bé được cho là con của cặp đôi này, một trai một gái, khoảng độ mười bốn đến mười sáu tuổi. Bất kỳ ai có thông tin gì về tung tích của hai đứa trẻ xin liên hệ với lực lượng cảnh sát thủ đô trong thời gian sớm nhất có thể. Bất kỳ ai đã sống ở căn biệt thự này trong những năm gần đây cũng được cảnh sát hết sức quan tâm.
Cô nhìn ông Royle chằm chằm. “Vậy có phải…? Đứa bé bị bỏ lại ấy, chính là tôi không?”
Ông ta gật đầu. Cô thấy trong mắt ông hiện lên một nỗi buồn chân thật. “Đúng rồi,” ông nói. “Một câu chuyện thật bi thảm, phải không? Mà cũng còn quá nhiều uẩn khúc. Ý tôi là, mấy đứa trẻ ấy. Họ cũng có phần thừa kế trong ngôi nhà này, chỉ có điều không ai ra nhận cả. Có vẻ như họ đã… à mà thôi.” Ông rướn người về phía trước, tay giữ lấy cà vạt, miệng cố gượng cười. “Để tôi lấy cho cô cái bút nhé?”
Ông đưa cho cô một cái ống đựng đầy những chiếc bút bi trông có vẻ đắt tiền và cô nhón lấy một cái. Trên thân bút in tên của văn phòng luật bằng chữ màu vàng.
Libby ngây người nhìn cây bút một hồi lâu.
Một anh trai.
Một chị gái.
Một vụ tự tử tập thể.
Cô khẽ lắc đầu; rồi sau đó cô hắng giọng và nói, “Cảm ơn ông.”
Ngón tay cô siết chặt lấy cây bút. Cô chẳng nhớ nổi chữ ký của mình trông như thế nào. Trên mép của mỗi trang cô cần ký đều gắn những mẩu giấy ghi chú hình mũi tên, chỉ cho cô ký đúng chỗ. Tiếng bút di trên giấy như thể cố giày vò thêm những nỗi đau. Ông Royle hiền hậu nhìn, tay đẩy qua đẩy lại tách trà.
Khi đặt bút xuống ký, cô cảm nhận rõ ý nghĩa của giây phút này, giây phút mà cuộc đời cô bước ngoặt sang một trang mới. Phía bên này chồng giấy là chuyến xe buýt đến siêu thị giá rẻ Lidl được lên kế hoạch kỹ lưỡng, một tuần đi du lịch mỗi năm, và chiếc ôtô Vauxhall Corsa mười một tuổi. Phía bên kia là chìa khóa của căn biệt thự tám phòng ngủ ở Chelsea.
“Tốt,” ông nói, thở phào nhẹ nhõm, cùng lúc Libby đưa lại cho ông tập giấy tờ. “Tốt, tốt, tốt.” Tay ông lướt qua tập giấy, mắt tập trung vào những chỗ được đánh dấu bằng mẩu giấy ghi chú hình mũi tên, rồi sau đó ngước lên Libby, miệng mỉm cười và nói, “Ổn thỏa cả rồi. Tôi nghĩ đã đến lúc trao cho cô quyền sở hữu chiếc chìa khóa.” Ông lấy từ trong ngăn kéo ra một chiếc túi Jiffy nhỏ màu trắng. Trên túi có nhãn ghi “16 đường Cheyne”.
Libby liếc mắt nhìn bên trong. Ba chùm chìa khóa. Một chùm có chiếc móc chìa khóa bằng kim loại có logo Jaguar bên trên. Một chùm có chiếc móc chìa khóa bằng đồng, bên cạnh gắn thêm chiếc bật lửa. Một chùm không có móc chìa khóa.
Ông Royle đứng dậy. “Giờ chúng ta đi chứ?” Ông nói. “Chúng ta có thể đi bộ. Nó ở ngay đây thôi.”
Hôm ấy là một ngày mùa hè nóng dữ dội. Libby cảm nhận được hơi nóng của những viên đá lát đường xuyên qua đế giày vải của cô, và cái nắng giữa trưa chói chang thiêu cháy những áng mây mỏng manh. Họ bước xuống con phố đầy những nhà hàng tấp nập, tràn ra cả vỉa hè, với những chiếc bàn được bố trí trên từng chiếc bệ đặc biệt, dưới những chiếc dù che lớn hình chữ nhật để chắn ánh nắng mặt trời. Vài tốp hai ba người phụ nữ đeo kính râm ngoại cỡ ngồi uống rượu. Có vài người trạc tuổi Libby, và cô thấy lạ là làm sao họ có thể giàu đến nỗi không phải làm gì cả, và chỉ việc ngồi uống rượu trong một nhà hàng sang trọng vào một buổi chiều thứ Hai.
“Và,” ông Royle nói, “tôi nghĩ đây rất có thể là những người hàng xóm mới của cô. Nếu cô định sống trong căn nhà này.”
Cô lắc đầu, miệng bật cười lo lắng. Cô không có nổi một câu đáp lại. Thật quá ngớ ngẩn.
Họ đi qua các cửa tiệm nhỏ, các quầy hàng đồ cổ chất đầy những bức tượng đồng hình con cáo con gấu, và những chiếc đèn chùm lấp lánh to như cái bồn tắm của cô. Rồi họ tiến bước dần đến bên sông và Libby có thể ngửi thấy mùi của con sông trước khi cô nhìn thấy nó, thứ mùi ngai ngái giống như mùi lông chó ướt. Những con thuyền lớn nối đuôi nhau; một con thuyền nhỏ hơn chở những người giàu có để lại những vệt bong bóng nước kéo dài phía sau, trên mạn thuyền có một chai rượu sâm-panh trong xô đá màu bạc, và một con chó golden retriever lông tung bay trong gió, mắt híp lại nhìn mặt trời.
“Nó ở ngay đây thôi,” ông Royle nói. “Khoảng một hai phút nữa là tới.”
Hai má đùi của Libby đang chà xát vào nhau và cô ước gì hôm nay cô mặc quần soóc chứ không phải mặc váy. Cô cảm thấy mồ hôi đang thấm vào trong lớp vải ở giữa áo ngực của cô, và cô thấy, ông Royle, trong bộ vest và chiếc áo sơ-mi bó sát, cũng đang khó chịu bởi cái nóng.
“Đến nơi rồi,” ông Royle nói, đoạn hướng mặt về phía dãy năm hay sáu ngôi nhà gạch đỏ, kích thước khác nhau. Libby đoán được ngay đâu là nhà của cô, trước cả khi cô kịp nhìn thấy số mười sáu cong cong sơn trên ô cửa sổ hình bán nguyệt. Ngôi nhà cao ba tầng, rộng bốn cửa sổ. Đẹp thật. Nhưng, cũng giống như cô tưởng tượng, ngôi nhà có phần kín cổng cao tường. Xung quanh ống khói và rãnh thoát nước cỏ dại mọc um tùm. Thật chướng mắt.
Nhưng là một sự chướng mắt thật xinh đẹp. Libby hít một hơi thật sâu. “Ngôi nhà này rộng thật,” cô nói.
“Đúng vậy,” ông Royle nói. “Mười hai phòng tất cả. Không kể tầng hầm.”
Ngôi nhà nằm cách khá xa vỉa hè, phía sau hàng rào chắn bằng kim loại được trang trí công phu và một khu vườn trồng hoa cỏ mọc um tùm. Trước cửa chính có mái che bằng sắt được chạm trổ tinh xảo, và bên trái là một khẩu súng đại bác cỡ lớn đặt trên bệ bê tông.
“Cô cho tôi vinh dự này chứ?” ông Royle chỉ tay vào chiếc ổ khóa trên tấm ván đóng trước cửa nhà.
Libby gật đầu và ông mở khóa, tay ông vòng qua tấm ván và nhấc nó lên. Cái ván chắn cửa phát ra tiếng cót két rợn người, và đằng sau nó là một cánh cửa màu đen khổng lồ. Ông xoa hai đầu ngón tay vào nhau, và đưa từng chiếc chìa khóa vào ổ theo trình tự, cho đến khi mở được cửa ra.
“Lần cuối có người ở trong ngôi nhà này là khi nào?” Libby hỏi.
“Lạy Chúa, tôi nghĩ có khi phải vài năm rồi, khi nhà bị lụt. Lúc ấy chúng tôi đã phải tìm thợ sửa ống nước khẩn cấp. Sửa chữa một số thứ đồ bị hư hỏng. Đại loại thế. Chà, chúng ta ở đây rồi.”
Họ bước vào hành lang. Cái nóng ngoài trời, tiếng ồn ào của xe cộ, tiếng vọng của dòng sông, tất cả đều tan biến. Trong nhà rất mát. Sàn nhà lát gỗ màu tối nhạt, trên sàn đầy những vết nứt nẻ và bụi bặm. Chiếc cầu thang phía trước có tay vịn xoắn thành hình bông lúa mạch, với một tô trái cây đầy tràn được chạm trổ trên đỉnh chiếc trụ cuối tay vịn lan can. Trên cửa ra vào được chạm khắc hình vải lanh gấp, và có tay nắm cửa bằng đồng được trang trí công phu. Các bức tường được ốp một nửa với gỗ sẫm màu, và dán giấy dán tường màu đỏ rượu vang, trên có những mảng trụi lớn do bị bướm đêm cắn phá. Không khí trong nhà đặc sệt, bụi bẩn bám dày. Nguồn ánh sáng duy nhất đến từ những ô cửa sổ hình bán nguyệt phía trên cửa ra vào.
Libby rùng mình. Trong nhà nhiều gỗ quá. Mà lại không có đủ ánh sáng. Không có đủ cả không khí nữa. Cô cảm thấy như cô đang ở trong cái quan tài. “Ông không phiền chứ?” Cô đặt tay lên một trong những cánh cửa.
“Cô có thể làm bất cứ điều gì cô muốn. Đây là nhà cô mà.”
Cánh cửa mở ra một căn phòng hình chữ nhật dài ở đằng sau nhà với bốn cửa sổ nhìn ra bụi cây rậm rạp. Lại thêm những ván gỗ ốp tường. Cửa chớp cũng bằng gỗ. Và sàn cũng lót gỗ nốt.
“Cái này dẫn đi đâu?” Cô hỏi ông Royle, tay chỉ vào cánh cửa hẹp nép trên tường.
“Đấy là cửa cầu thang dành riêng cho người làm trong nhà. Nó dẫn đến các phòng nhỏ hơn trên tầng áp mái, ở đầu cầu thang tầng hai còn có một cánh cửa cũng bị che khuất như thế này nữa. Rất phổ biến ở những ngôi nhà cổ kiểu này. Phòng được xây như những cái lồng chuột cảnh.”
Họ đi quanh ngôi nhà, lên tất cả các tầng, khám phá từng phòng một.
“Vậy đồ đạc của họ đâu hết cả rồi? Cả những vật dụng trong nhà nữa?” Libby hỏi.
“Chẳng còn lại gì. Gia đình này đã bán hết tất cả mọi thứ để sống qua ngày. Cả nhà phải ngủ trên đệm. Tự may cả quần áo nữa.”
“Vậy nghĩa là họ không có tiền.”
“Đúng vậy, tôi cho rằng thực ra thì họ không có tiền.”
Libby gật đầu. Cô chưa tưởng tượng ra được rằng cha mẹ đẻ của mình lại là những người không có tiền. Tất nhiên cô cho phép mình tự tạo ra cha mẹ trong trí tưởng tượng. Ngay cả những đứa trẻ là con ruột cũng tự tạo cha mẹ của riêng chúng trong trí tưởng tượng. Trong trí tưởng tượng của cô, cha mẹ cô vừa trẻ trung lại vừa giao thiệp rộng. Nhà của họ ở bên sông có cửa kính bao hai mặt tiền, xung quanh có sân hiên. Cha mẹ cô còn nuôi cả chó nữa, hai con liền, cả hai đều là chó nhỏ, giống cái, cổ đeo kim cương. Mẹ trong trí tưởng tượng của cô làm nghề quan hệ công chúng trong lĩnh vực thời trang, còn cha cô làm thiết kế đồ họa. Khi cô còn bé, cha mẹ cô thường đưa cô đi ăn sáng, và đặt cô lên chiếc ghế ăn của trẻ con, chia nhỏ bánh cho cô, và chơi đá chân nhau dưới gầm bàn, nơi hai con chó nhỏ đang nằm cuộn tròn bên nhau. Họ qua đời vì tai nạn giao thông, trên đường lái xe về nhà sau bữa tiệc cocktail. Khả năng cao là vụ tai nạn ấy có liên quan đến một chiếc xe thể thao.
“Họ còn để lại gì nữa không?” cô hỏi. “Ngoài lá thư tuyệt mệnh ra.”
Ông Royle lắc đầu. “Không, không có gì chính thức cả. Nhưng có một thứ. Khi cô được tìm thấy. Có một thứ ở trong cũi của cô. Tôi tin nó vẫn ở đây. Trong phòng của cô khi cô mới sinh. Chúng ta tới đó chứ…?”
Libby đi theo ông Royle đến căn phòng lớn ở ngay tầng hai. Ở đây có hai khung cửa sổ lớn nhìn ra sông; không khí nặng nề và ứ đọng, ở những góc cao trên trần nhà có những tấm rèm phủ đầy bụi và mạng nhện. Có khoảng trống ở đầu bên kia căn phòng, và họ biến cái góc thành một căn phòng nhỏ, trông có vẻ như là phòng thay đồ, với ba chiếc tủ quần áo cao sát trần, các ngăn kéo được sơn màu trắng và trang trí đá cườm. Ở giữa căn phòng là một chiếc cũi.
“Đó có phải…?”
“Đúng. Đây chính là nơi họ tìm thấy cô. Ai cũng bảo là cô lúc ấy cười ríu ra ríu rít, vui như tết.”
Chiếc cũi có chức năng đung đưa, được thiết kế với đòn bẩy bằng kim loại để tiện đẩy qua đẩy lại, trên phủ lớp sơn màu kem sữa dày, điểm xuyết thêm những cánh hoa hồng màu xanh nhạt trang trí xung quanh. Trước cũi gắn một huy hiệu nhỏ, trên có logo của Harrods.
Ông Royle với tay sang cái kệ trên tường và lấy ra một chiếc hộp nhỏ. “Đây,” ông nói. “Người ta tìm thấy cái này trong chăn của cô. Chúng tôi cho rằng, tất cả chúng tôi, cả luật sư lẫn cảnh sát, cho rằng cái hộp này dành riêng cho cô. Cảnh sát giữ nó làm bằng chứng hàng năm trời, rồi họ gửi lại cho chúng tôi khi công cuộc điều tra rơi vào bế tắc.”
“Có gì trong đó vậy?”
“Cô mở ra mà xem.”
Libby lấy chiếc hộp các-tông nhỏ từ ông Royle, và mở nắp ra. Trong hộp chứa đầy mảnh báo vụn. Ngón tay cô cảm thấy thứ gì vừa rắn rắn, lại vừa mượt mượt. Cô kéo nó lên và để nó treo lủng lẳng trên ngón tay mình. Đó là bàn chân của một con thỏ gắn trên chiếc dây chuyền vàng. Libby rùng mình và chiếc dây chuyền rơi khỏi tay cô xuống sàn gỗ. Cô cúi xuống nhặt nó lên.
Ngón tay cô mân mê bàn chân thỏ, cảm nhận cái lạnh của chết chóc trên bộ lông óng mượt, và cả đầu nhọn của móng chân. Cô luồn tay qua chiếc dây chuyền. Trong đầu cô một tuần trước chỉ có đôi xăng đan mới, buổi tối hẹn hò cùng hội chị em, những lọn tóc chẻ ngọn của cô, những cái cây trồng trong nhà mà cô cần tưới nước, giờ tâm trí cô đã bị lấp đầy bởi những người ngủ trên nệm, xác thỏ, và một ngôi nhà vừa to vừa đáng sợ, bên trong không có gì ngoài cái cũi bập bênh hiệu Harrods, được trang trí với những cánh hồng màu xanh nhạt kỳ quái. Cô đặt cái chân thỏ lại vào trong hộp và ôm lấy nó một cách vụng về. Sau đó cô chậm rãi đặt tay xuống chiếc nệm ở đáy cũi, cảm nhận tiếng vọng từ cơ thể bé nhỏ của cô đang say giấc nồng nhiều năm về trước, và bóng ma của người cuối cùng đã đặt cô xuống đây, đắp chăn cho cô, rồi nhét dưới chăn một chiếc chân thỏ. Nhưng tất nhiên cô chẳng cảm thấy gì cả. Chỉ là một chiếc giường trống trơn, đầy mùi ẩm mốc.
“Vậy hồi đó tôi tên gì,” Libby hỏi. “Có ai biết không?”
“Có chứ,” ông Royle nói. “Tên của cô được viết trong tờ giấy mà cha mẹ cô để lại. Họ đặt tên cô là Serenity.”
“Serenity?”
“Đúng vậy,” ông nói. “Cái tên đẹp đấy chứ. Tôi nghĩ thế. Có chút gì đó hơi… bohemian.”
Bỗng nhiên Libby cảm thấy ngột ngạt. Cô chỉ muốn chạy ngay ra khỏi phòng, nhưng cư xử đồng bóng như vậy vốn không phải là tính cách của cô.
Thay vào đó cô nói, “Chúng ta có thể ra vườn bây giờ được không? Tôi cần chút không khí.”