← Quay lại trang sách

Chương 12

Thứ Bảy này Libby được mời đến nhà một người bạn để ăn tiệc nướng. Cô đã mong chờ đến dịp này từ rất lâu rồi. Bạn cô, April, nói với cô rằng cô ấy sẽ mời một “anh chàng hợp gu ở chỗ làm. Tớ nghĩ là cậu sẽ thích anh ấy lắm đấy. Tên anh ấy là Danny.”

Nhưng rồi thứ Bảy đến. Đó lại là một ngày nắng nóng, trời xanh vắt, và những tấm kính trên cửa sổ đã nóng rực lên khi cô chạm tay vào để mở chúng ra. Libby không có hơi sức đâu để mà nghĩ về anh chàng Danny nóng bỏng, hay món salad couscous cay nổi tiếng của April, hay việc ngâm chân trong một cái bể bơi cao su, nhâm nhi ly cocktail Aperol Spritz màu da cam lóng lánh trên tay. Cô không có hơi sức mà suy nghĩ về bất kỳ điều gì khác ngoài vụ án bí ẩn của Serenity Lamb và cái chân thỏ.

Cô nhắn tin cho April.

Tớ rất rất rất xin lỗi. Chúc cậu có một ngày thật vui nhé. Nhắn tớ nếu cậu vẫn “quẩy” tối nay, đến hoàng hôn tớ sẽ qua nhậu cùng.

Sau đó cô đi tắm và mặc bộ áo liền quần in họa tiết nhiệt đới, đeo đôi xăng đan hở ngón bằng da màu vàng, bôi kem chống nắng lên tay và vai, gài kính râm lên đầu, kiểm tra chìa khóa nhà trong túi xách, và lên tàu đi London.

Libby cắm chìa vào ổ khóa trên tấm pano gỗ và vặn nó ra. Móc khóa trượt mở, và cô cắm một cái chìa khóa khác vào cửa chính. Cô nửa tin nửa ngờ là sẽ có một bàn tay nào đó đặt lên vai cô, một ai đó hỏi cô đang làm gì, và liệu cô đã được cho phép tự ý mở cửa với những chiếc chìa khóa kia hay chưa.

Rồi cô bước vào căn nhà. Đây là nhà của cô. Và cô chỉ có một mình.

Cô đóng cánh cửa đằng sau cô lại, tiếng xe cộ ngoài đường biến mất ngay lập tức; cảm giác nóng ran sau gáy cô cũng dịu dần.

Trong giây lát, cô đứng yên bất động.

Cô tưởng tượng ra hình ảnh cảnh sát đứng ở đây, ngay chỗ cô đang đứng lúc này. Họ đội những chiếc mũ bảo hiểm kiểu cũ. Cô biết họ trông như thế nào vì cô đã nhìn thấy họ trong bài báo đăng trên tờ Guardian. Sĩ quan Ali Shah và John Robbin. Lúc đó họ đang lần theo cuộc gọi ẩn danh đến từ “một người hàng xóm lo lắng”. Người hàng xóm ấy chưa bao giờ được tìm ra.

Cô đi theo những bước chân một thời của Shah và Robbin vào trong bếp. Cô cảm giác như lúc này mùi hôi thối ấy đang bốc lên càng lúc càng nồng nặc hơn.

Sĩ quan Shah hồi tưởng lại tiếng ruồi nhặng bay. Anh nói anh đã tưởng có ai đó để tông đơ đang chạy, hoặc là một chiếc bàn chải điện. Ba thi thể, họ nói, đang ở trong những giai đoạn phân hủy đầu tiên, nên họ vẫn có thể nhận diện được một người phụ nữ xinh đẹp, tóc tối màu, trạc tuổi ba mươi, và một người đàn ông lớn tuổi hơn, tóc hoa râm. Tay họ nắm lấy nhau. Nằm bên cạnh là xác của một người đàn ông khác. Khoảng bốn mươi tuổi. Cao. Tóc sẫm màu. Cả ba đều mặc đồ đen: người phụ nữ mặc áo dài và quần bó, hai người đàn ông mặc cái gì đó trông như áo chùng. Tất cả những vật dụng được phát hiện đều là đồ tự chế. Sau đó họ tìm thấy một chiếc máy khâu ở căn phòng phía sau, và vài tấm vải dư màu đen ở trong một cái thùng.

Ngoài tiếng ruồi vo ve ra, cả căn nhà im ắng như chết lặng. Cảnh sát cho biết họ đã không hề nghĩ đến việc đi tìm một đứa trẻ nếu như tờ giấy trên bàn ăn không đề cập đến cô bé. Suýt chút nữa là họ bỏ qua phòng thay đồ trong phòng ngủ chính, nhưng rồi họ nghe thấy một tiếng “u ơ”, sĩ quan Shah kể lại.

Một tiếng “u ơ”.

Libby chậm rãi bước lên cầu thang và đi vào phòng ngủ. Cô liếc vào góc cửa nối sang phòng thay đồ.

Và cô đã ở đó! Xinh quá đi mất! Sĩ quan Robbin đã nói như thế. Xinh quá đi mất thôi!

Cô nổi da gà khi thấy chiếc cũi. Nhưng cô cố vượt qua nỗi khó chịu, ép mình phải nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi cô không còn thấy mẫn cảm nữa. Sau một lúc thì cô cảm thấy bình thường, đủ can đảm để tự đặt tay được lên cái cũi. Cô tưởng tượng hai người cảnh sát trẻ đang nhìn xuống cũi. Cô tưởng tượng ra chính mình, mặc bộ áo liền quần màu trắng tinh, và dù chỉ mới mười tháng tuổi tóc cô đã mọc kín đầu, lọn nào lọn nấy xoăn tít như Shirley Temple, chân đạp thích thú khi thấy những khuôn mặt thân thiện đang ngắm nhìn cô.

“Cô bé muốn đứng dậy,” Robbin nói. “Cô bé cứ lấy tay với lên thành cũi. Như thể muốn được ai đó bế ra vậy. Chúng tôi không biết phải làm gì. Cô bé là bằng chứng của vụ án. Liệu chúng tôi có nên động vào cô bé không? Chúng tôi có nên gọi thêm người đến hỗ trợ không? Chúng tôi thực sự rất bối rối.”

Cuối cùng dường như họ quyết định không bế cô lên. Sĩ quan Shah hát ru cô trong khi họ chờ lệnh xem họ nên làm gì tiếp theo. Libby ước gì cô nhớ được ngày hôm ấy; nhớ những bài hát mà anh đã hát cho cô nghe, người sĩ quan trẻ tốt bụng ấy. Liệu anh có thích cảm giác hát cho cô nghe không? Anh có thấy xấu hổ không? Theo bài báo, sau này anh cũng có năm đứa con của riêng mình, nhưng khi tìm thấy Serenity Lamb trong cũi, anh không có kinh nghiệm gì với trẻ sơ sinh cả.

Sau đó một đội đặc vụ đã nhanh chóng có mặt ở hiện trường, trong đó có cả một sĩ quan đặc biệt đến để đón đứa bé. Bà tên là Felicity Measures. Lúc ấy, bà bốn mươi mốt tuổi. Bây giờ bà đã sáu mươi lăm tuổi và mới nghỉ hưu, hiện đang sống ở Algarve với người chồng thứ ba. “Cô bé rất dễ thương,” bài báo trích lời bà. “Tóc vàng xoăn, được ăn uống đầy đủ và chăm sóc cẩn thận. Rất hay cười và rất thích nựng. Có vẻ không hợp lý cho lắm khi căn cứ vào hiện trường cô bé bị bỏ lại. Căn nhà này rất u ám. Vâng, thực sự là nó rất, rất u ám.”

Libby đẩy chiếc cũi và nó kêu cọt kẹt đến thảm hại, chứng tỏ là nó cũng đã rất cũ rồi. Nó được mua cho ai? Cô tự hỏi. Có phải cho cô không? Hay cả thế hệ trước cô nữa? Vì giờ cô biết trong câu chuyện của cô còn có những nhân vật khác. Không chỉ có mỗi Martina và Henry Lamb, và người đàn ông bí ẩn. Không chỉ có những đứa trẻ bị mất tích. Hàng xóm đã nói không chỉ có hai, mà có “rất nhiều” đứa trẻ, và cả những người khác nữa “đi ra đi vào” trong ngôi nhà này. Ngôi nhà chứa đầy vết máu và DNA không thể lần ra được, với những sợi tóc và những mẩu ghi chú kỳ lạ, cùng những nét vẽ nguệch ngoạc trên tường, những ván cửa bí mật và một khu vườn trồng đầy thảo dược, một vài loại trong số đó đã được dùng trong vụ tự tử của cha mẹ cô.

“Chúng tôi đang tự giải thoát khỏi những cơ thể vụn vỡ, khỏi cái thế giới đớn hèn này, khỏi khổ đau và thất vọng. Con gái chúng tôi tên là Serenity Lamb. Con bé mười tháng tuổi. Xin làm ơn thay chúng tôi đảm bảo con bé được gửi gắm vào tay người tốt. Và như thường lệ, xin gửi lời chúc bình an, HL, ML, DT”, bức thư trăng trối của ba cơ thể đang phân hủy viết.

Libby rời căn phòng và chậm rãi đi dạo quanh nhà, cố tìm kiếm những thứ kỳ lạ được tìm thấy sau cái chết. Kẻ nào đó đã ở trong nhà đêm vụ tự tử tập thể xảy ra, bài báo viết, mở toang tủ quần áo, để thức ăn ở trong tủ lạnh, và những quyển sách đang đọc dở trên sàn, cùng những mảnh giấy xé từ trên tường xuống, để lại những mẩu băng dính Sellotape ở góc nhà.

Cô tìm thấy một dải băng dính trên tường bếp, giờ đã ố vàng và khô cứng lại. Cô giật mảnh giấy sót lại trên dải băng dính ra, đặt nó lên lòng bàn tay và ngắm nghía một hồi lâu. Trên mảnh giấy ấy đã ghi những gì mà những kẻ tháo thân khỏi con tàu đang chìm này không muốn người khác nhìn thấy?

Trong căn bếp phong cách đồng quê có một cái tủ lạnh lớn kiểu Mỹ đã gỉ sét, màu be sữa, có lẽ ít thấy ở Anh vào những năm tám mươi, cô tự hình dung. Cô mở nó ra và nhìn vào bên trong. Lốm đốm mốc, một cặp khay đá bằng nhựa đã bị nứt vỡ, ngoài ra không có gì cả. Trong tủ bếp cô tìm thấy vài chiếc hộp tráng men trống rỗng, một gói bột mì cũ đến mức đóng cục lại. Một bộ tách uống trà màu trắng, một ấm trà mạ crôm, những chiếc bình cổ đựng thảo mộc và gia vị, một chiếc giá đựng bánh mì nướng, một cái khay lớn, sơn màu đen. Cô cạo cạo lớp sơn màu đen và thấy ở dưới là bạc. Cô tự hỏi không biết lại có ai đi sơn một cái khay bạc màu đen.

Và rồi cô ngừng tay lại. Cô nghe thấy có tiếng gì đó. Có cái gì đó đang di chuyển trên tầng. Cô đặt cái khay lại vào trong tủ và đứng lên chân cầu thang. Cô nghe thấy âm thanh ấy một lần nữa, một tiếng đập nhè nhẹ. Tim cô đập nhanh. Cô rón rén bước lên đầu cầu thang. Và âm thanh ấy lại vang lên lần nữa. Và một lần nữa. Và rồi tim cô đã đập nhanh gấp đôi khi nghe tiếng ai đó hắng giọng.

Ông Royle, cô nghĩ, hẳn là ông Royle, ông luật sư đó. Làm gì còn ai khác được nữa. Lúc bước vào nhà cô đã đóng cửa lại. Chắc chắn vậy.

“Xin chào?” cô lên tiếng. “Xin chào. Ông Royle!”

Không thấy gì khác ngoài sự im lặng. Một sự im lặng tức thì, có chủ đích.

“Xin chào!” cô gọi lớn thêm lần nữa.

Sự im lặng ấy cứ đeo bám cô, như một con gấu ngồi chình ình trên nóc nhà. Cô cảm thấy như thể mình đang nghe thấy tiếng mạch đập của ai đó.

Cô nghĩ về tất cả các bí ẩn mà bài báo tiết lộ: những đứa trẻ chạy trốn khỏi ngôi nhà này, người nào đó đã ở lại và chăm sóc cho cô; cô nghĩ về những nét vẽ nguệch ngoạc trên tường, và những dây vải treo trên lò sưởi, những vết cào khoét trên thành tường, lời trăng trối vụng về mà cha mẹ cô để lại, những bông hoa hồng màu xanh nước biển trên chiếc cũi ọp ẹp, những mảnh giấy dán trên tường bị xé vụn, những vết máu, và cả những chiếc khóa ở ngoài phòng ngủ của những đứa trẻ.

Và rồi cô lại nghĩ về thảm cỏ được cắt tỉa gọn gàng trước sân nhà của cô bạn April, món couscous cay, ly Aperol Spritz màu cam neon, và cảm giác nhớp nháp khi cô đặt chân xuống chiếc bể phao mát lạnh. Cô nghĩ về anh chàng Danny nóng bỏng và những đứa con mà biết đâu họ sẽ có cùng nhau khi cô ba mươi tuổi. Có khi còn sớm hơn. Đúng vậy, tại sao lại không phải sớm hơn cơ chứ? Cô chờ đợi điều gì? Cô có thể bán ngôi nhà này, cùng với những tài sản u ám, đáng sợ mà nó để lại, cái tủ lạnh ẩm mốc, khu vườn khô héo, và cả tiếng chân người bước đi thình thịch, tiếng đằng hắng trên gác mái. Cô có thể bán nó ngay bây giờ, trở nên giàu có, cưới Danny và sinh con cho anh ấy. Cô không còn phải quan tâm điều gì đã xảy ra ở đây nữa. Cô không muốn biết.

Cô loay hoay tìm chìa khóa trong túi xách và khóa cánh cửa lớn bằng gỗ ở trước nhà lại, cùng cái khóa trên tấm pano. Cô bước lên vỉa hè nóng rẫy, cảm thấy nhẹ nhõm, và bắt đầu rút điện thoại từ trong túi xách ra.

Phần cho tớ ít couscous. Một tiếng nữa tớ qua.