Chương 14
Ngày hôm ấy, ngày 8 tháng Chín năm 1988, đáng lẽ ra là ngày thứ hai của tôi ở trường lớn, nhưng giờ thì chắc bạn cũng đoán được là năm đó tôi đã không được đi học ở ngôi trường lớn mà tôi vẫn hằng mong ước, ngôi trường mà ở đó tôi đã có thể gặp được tri kỷ, những người bạn đi theo tôi đến suốt đời, những người giống tôi. Mùa hè năm đó thi thoảng tôi lại hỏi mẹ, “Khi nào thì mình đi Harrods để mua đồng phục vậy mẹ?” Và mẹ tôi trả lời, “Cố chờ cho đến hết hè, vì nhỡ đâu con lại lớn bổng lên thì sao.” Rồi kỳ nghỉ hè cũng sắp hết và chúng tôi vẫn chưa đi Harrods.
Năm ấy chúng tôi cũng không đi Đức. Chúng tôi vẫn thường sang thăm bà tôi và ở lại một hoặc hai tuần, trong căn nhà rộng rãi, thoáng mát của bà ở Rừng Đen, với cái hồ bơi nhớp nháp nổi trên mặt đất, và đám lá thông mịn như lụa ở dưới chân. Nhưng mùa hè này rõ ràng là chúng tôi không có đủ tiền để đi, và nếu chúng tôi không có đủ tiền để mua vé máy bay sang Đức, thì tôi tự hỏi thế quái nào mà nhà tôi có đủ tiền đóng học phí cơ chứ?
Đến đầu tháng Chín, cha mẹ tôi bắt đầu nộp đơn xin học ở các trường công trong vùng, và ghi tên anh em chúng tôi vào danh sách đợi. Họ không bao giờ nói thẳng ra là họ đang gặp vấn đề tài chính, nhưng điều đó rõ rành rành. Tôi bị đau bụng mấy ngày liền vì lo sợ, rằng đến học ở trường công có nhiều thành phần cá biệt thì tôi sẽ bị bắt nạt.
Ôi, những lo lắng ấy mới nhỏ bé, vụn vặt làm sao. Tôi nhìn lại tôi lúc mười một tuổi: một cậu bé hơi lập dị, chiều cao trung bình, thân hình khẳng khiu, mắt xanh giống mẹ, tóc màu hạt dẻ giống bố, đầu gối như củ khoai tây dính vào hai cây gậy, đôi môi mỏng lúc nào cũng mím chặt, ra vẻ không tán thành, phong thái kiêu kỳ; một cậu bé ương ngạnh, tin rằng những trang tiếp theo của cuộc đời mình đã được viết rành mạch hết ra, nên cứ thế mà theo thôi; tôi nhìn lại tôi lúc mười một tuổi và tôi chỉ muốn cho thằng bé với cái mặt đần độn, khinh khỉnh, và đôi mắt đầy sao kia một cái tát.
Justin thu mình lại trong vườn, tay vuốt ve những lá cây mà ông đã chăm sóc bấy lâu.
“Bào chế thảo dược; trồng, chăm sóc, và sử dụng,” ông ta giải thích cho tôi, giọng như mê sảng. “Các công ty dược phẩm lớn đang làm ô uế hành tinh này. Trong hai mươi năm tới, chúng ta sẽ trở thành một cường quốc của những người lạm dụng thuốc kê đơn và Dịch vụ Y tế Quốc gia sẽ phải lê lết để mà trả tiền mua thuốc phiện cho cái đất nước đau ốm này. Chú muốn quay ngược thời gian và sử dụng những gì đất mẹ trao tặng để chữa những bệnh vặt hằng ngày. Chúng ta không cần đến tám loại hóa chất khác nhau để chữa đau đầu. Mẹ cháu nói là mẹ cháu muốn ngừng sử dụng thuốc tây, để sử dụng cồn thuốc của chú.”
Tôi nhìn ông ta. Gia đình chúng tôi toàn những người uống thuốc. Thuốc trị viêm mũi dị ứng, thuốc cảm, thuốc giải rượu, thuốc đau bụng, đau đầu, đau tứ tung. Mẹ tôi còn có cả những viên thuốc mà bà vẫn gọi là “những cảm xúc buồn”. Cha tôi uống thuốc tim và uống thuốc để tóc ông khỏi rụng. Thuốc ở khắp mọi nơi. Nhưng giờ nhà chúng tôi lại đổi sang trồng thảo dược và tự làm thuốc ở nhà. Đúng là khó tin.
Hè năm ấy cha tôi bị đột quỵ nhẹ. Nó khiến ông đi khập khiễng, nói lắp, và biến ông thành một người khác, theo kiểu mà tôi khó có thể diễn tả được. Chứng kiến cha mình ngày một sa sút thế này làm tôi mất đi cảm giác được bảo vệ, như thể vừa có một lỗ hổng nhỏ nhưng quan trọng xuất hiện trong hàng chắn phòng thủ của gia đình tôi.
Bác sĩ của cha tôi, một người đàn ông khô như ngói, không rõ tuổi tác, tên là Broughton, sống và làm việc trong căn nhà sáu tầng đầu phố, đến để thăm khám cho cha tôi khi cha tôi vừa trở về sau một đêm nằm viện. Ông ấy và cha tôi ngồi trong vườn hút xì gà và ông nói với cha tôi về những chẩn đoán của mình. “Tôi nói này, Henry, cái ông cần là một người làm vật lý trị liệu và phục hồi chức năng thật giỏi. Đáng tiếc là tất cả những người làm phục hồi chức năng mà tôi biết đều dở ẹc.”
Họ cười phá lên, và cha tôi nói, “Tôi không chắc nữa, giờ tôi không cảm thấy chắc chắn về bất kỳ điều gì nữa. Nhưng tôi cũng sẵn lòng thử. Tôi sẽ thử bất cứ thứ gì, để được trở về với con người tôi của ngày xưa.”
Birdie đang chăm sóc vườn thảo mộc của Justin. Trời nóng, và cô ta mặc chiếc áo vải xô xuyên thấu, lộ rõ hai núm vú. Cô ta cởi chiếc mũ vải mềm ra, đứng trước cha tôi và bác sĩ của ông.
“Tôi biết một người,” cô ta nói, tay chống nạnh. “Tôi biết một người giỏi lắm. Anh ấy rất tuyệt. Anh ấy sử dụng năng lượng. Anh ấy còn có thể điều khiển khí lực qua cơ thể. Anh ấy đã chữa khỏi bệnh đau lưng cho mấy người tôi biết. Cả đau nửa đầu nữa. Tôi sẽ gọi anh ấy và bảo anh ấy đến đây.”
Tôi nghe thấy tiếng cha tôi bắt đầu phản đối. Nhưng Birdie chỉ nói, “Không. Thật lòng đấy, Henry. Đây là điều tối thiểu mà tôi có thể làm được cho anh. Tối thiểu đấy. Tôi sẽ gọi anh ấy ngay bây giờ. Tên anh ấy là David. David Thomsen.”
Sáng hôm ấy khi tôi đang ở trong bếp xem mẹ tôi làm bánh scone phô mai thì chuông cửa reo. Mẹ tôi chùi tay vào tạp dề, lo lắng chỉnh lại phần đuôi tóc cắt ngắn, đã được sấy, tạo kiểu và uốn cong, rồi nói. “À, đấy chắc hẳn là nhà Thomsen.”
“Nhà Thomsen,” tôi hỏi, quên mất lời giới thiệu của Birdie tuần trước, “là ai vậy ạ?”
“Là bạn,” mẹ tôi nói, nét mặt rạng rỡ. “Của Birdie và Justin. Ông chồng chuyên làm vật lý trị liệu, ông ấy sẽ làm việc với cha con, giúp cha con lấy lại thể trạng ban đầu. Còn bà mẹ là một giáo viên đã được đào tạo. Bác ấy sẽ dạy học cho hai con ở nhà trong thời gian sắp tới. Như thế chẳng phải là tốt sao?”
Tôi không có bất kỳ cơ hội nào để hỏi thêm mẹ tôi về màn giới thiệu chóng vánh và sự thay đổi đáng kinh ngạc vừa rồi trước khi bà ra mở cửa.
Mồm há hốc, tôi nhìn họ tiến vào.
Đầu tiên là một con bé khoảng chín hay mười tuổi gì đấy. Con bé có mái tóc màu đen, cắt ngắn ngang cằm, mặc quần yếm ngắn, đầu gối trầy xước, má dính chocolate, mang theo một nguồn năng lượng dồn nén yếu ớt. Tên con bé, nếu tôi nghe không nhầm, là Clemency.
Sau đó đến một thằng nhóc, trạc tuổi tôi, hoặc hơn tôi một tí, tóc vàng, cao, lông mi sẫm màu, cong dài như lông vũ, chạm lên phần xương gò má sắc nét. Tay cậu đút trong túi chiếc quần soóc màu xanh lịch lãm, tóc mái hất qua mắt một cách duyên dáng, phong thái có chút gì đó ngông nghênh. Tên cậu ấy là Phineas. Gọi tắt là Phin, họ bảo chúng tôi thế.
Tiếp theo là bà mẹ. Vóc rộng, da dẻ nhợt nhạt, ngực phẳng, tóc dài màu vàng, trông có vẻ lo lắng. Tên bà, ngay lúc đó tôi cũng vừa mới khám phá ra, là Sally Thomsen.
Đi sau tất cả bọn họ là ông bố dáng cao, hơi gầy, vai rộng, da rám nắng, tóc cắt ngắn màu đen, mắt xanh thẫm, miệng rộng. David Thomsen. Một tay ông nắm chặt lấy bàn tay tôi, tay kia ông úp lên trên. “Rất vui được gặp cậu, chàng trai trẻ,” ông nói, giọng trầm ấm, dịu dàng.
Rồi ông thả tay tôi ra và vươn hai tay lên. Ông mỉm cười với từng thành viên trong gia đình tôi và nói, “Rất hân hạnh được gặp gia đình anh chị.”
Hôm đó David cứ khăng khăng mời gia đình tôi ra ngoài ăn tối. Đó là một buổi tối thứ Năm, ngoài trời vẫn còn nóng. Tôi dành kha khá thời gian tút tát ngoại hình của mình tối hôm đó, không chỉ đơn giản như cách tôi vẫn làm, đó là chọn quần áo sạch sẽ, là lượt phẳng phiu, mà chưng diện hơn một chút; cái cậu tên Phineas làm tôi thấy thích thú, không chỉ với vẻ ngoài điển trai, mà còn cả phong cách ăn mặc của cậu ta nữa. Cùng với chiếc quần đùi màu xanh đơn giản, cậu mặc một chiếc áo polo màu đỏ, cổ áo viền sọc trắng, đi đôi giày thể thao Adidas màu trắng và phối với tất đến mắt cá chân cũng trắng nốt. Tối hôm đó, tôi tìm trong tủ quần áo của mình xem có gì trông thoải mái như thế không. Tất của tôi đôi nào cũng dài đến bắp chân cả; chỉ em gái tôi mới có tất chạm mắt cá chân. Quần soóc của tôi đều được làm từ len, và cái áo nào của tôi cũng có cúc. Trong chốc lát tôi còn định mặc bô quần áo thể dục cũ của tôi, nhưng tôi đã sớm từ bỏ ý định đấy vì tôi nhận ra nó vẫn nằm chất đống trong túi thể dục của tôi từ hôm tôi đi học buổi thể dục cuối cùng. Cuối cùng tôi chọn một chiếc áo phông trơn màu xanh và một chiếc quần jeans, cùng với một đôi giày vải. Tôi cố chải phần tóc mọc từ chân tóc xuống lông mày như Phineas, nhưng tóc tôi ngoan cố vẫn nhất quyết không chịu dời đi chỗ khác. Tôi mất đến hai mươi giây để ngắm mình trong gương trước khi rời khỏi phòng, tự chán ghét khuôn mặt ngu ngốc, xấu xí của mình, cái áo phông đơn điệu, và cả cái quần jeans John Lewis for Boy đáng thương hại của tôi nữa. Tôi khẽ khè ra một tiếng nghẹt, đá vào tường, và đi xuống nhà.
Phin đã ở đó, ngồi trên một trong hai chiếc ghế gỗ khổng lồ cạnh cầu thang ở giữa hành lang. Cậu đang đọc sách. Tôi lén nhìn cậu qua thành lan can một lúc trước khi tôi bước vào. Cậu thực sự là thứ đẹp đẽ nhất mà tôi từng được thấy trong đời. Tôi cảm thấy má tôi bừng đỏ lên khi tôi ngắm những đường nét trên khuôn mặt cậu: khuôn miệng thanh tú nhìn như thể được đúc từ thứ đất sét đỏ nhất, mềm mại nhất, như thể nếu chạm tay lên sẽ để lại dấu vân. Da cậu mềm như da sơn dương, kéo căng giữa hai gò má sắc sảo, như thể sắp đâm thủng lớp da ấy đến nơi. Trên gương mặt cậu thậm chí còn thấp thoáng đường nét khêu gợi của một bộ ria mép sắp mọc nữa.
Cậu hất tóc mái một lần nữa và thờ ơ ngước nhìn tôi khi tôi đi xuống, rồi lại chúi mắt ngay vào quyển sách. Tôi những muốn hỏi cậu đang đọc sách gì nhưng cuối cùng lại thôi. Tôi cảm thấy lúng túng, tôi không biết phải ngồi ở đâu, hay đứng ở chỗ nào. Nhưng rồi những người khác cũng nhanh chóng xuất hiện: đầu tiên là cha mẹ tôi, sau đó đến con bé Clemency và em gái tôi, hai đứa giờ đã ríu rít chuyện trò, rồi đến Sally, tiếp theo là Justin và Birdie, và cuối cùng, gần như được bao bọc bởi một vòng tròn ánh sáng trên đỉnh cầu thang, David Thomsen bước xuống.
Trong mắt tôi, dưới góc độ là một cậu bé, tôi có thể kể cho bạn nghe những gì về David Thomsen? Chà, tôi có thể nói cho bạn biết là ông ta rất đẹp trai. Không phải kiểu đẹp mềm mại, nữ tính như con trai ông, mà kiểu đẹp truyền thống hơn. Ông ta có bộ ria mép rậm như thể được ai đó vẽ lên, lông mày đậm, sắc nét, toát ra nguồn năng lượng mãnh thú, và một sức mạnh tiềm tàng. Ông ta có cách khiến cho những người đứng cạnh đều có vẻ kém cỏi hơn ông ta, ngay cả khi sự thật không phải thế. Tôi phải thú nhận là ông ta vừa làm tôi sợ, lại vừa làm tôi thấy thích thú. Và tôi cũng có thể nói cho bạn biết rằng mẹ tôi cư xử rất kỳ lạ trước mặt David, không phải ra bộ ve vãn hay tán tỉnh, mà có phần thận trọng, dè dặt hơn, như thể bà không tin vào chính bản thân mình mỗi khi ở cạnh ông ta. David vừa cao ngạo lại vừa dễ gần, vừa lạnh lùng mà có lúc lại rất ấm áp. Tôi ghét ông ta, nhưng tôi hiểu tại sao những người khác lại yêu quý ông ta đến vậy. Tuy nhiên tất cả những điều đó vẫn chưa xảy ra. Trước hết phải kể đến bữa tối đầu tiên trong buổi tối đầu tiên, khi tất cả mọi người đều cư xử đúng mực nhất có thể.
Chúng tôi ngồi dúm dó quanh chiếc bàn dài ở Chelsea Kitchen, trong khi chỗ này chỉ vừa cho tám người mà thôi. Trẻ con ngồi ở một đầu, và điều đó có nghĩa là tôi chỉ cách Phineas có một cùi chỏ. Tôi bắt đầu cảm thấy rạo rực trước khoảng cách giữa tôi và cậu ấy, dây thần kinh của tôi lúc ấy còn non nớt, và cơ thể tôi còn quá nguyên sơ, khao khát một thứ gì đó mà tôi còn quá nhỏ để hiểu được, và tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài quay lưng về phía cậu ấy.
Tôi liếc sang đầu bàn bên kia, nơi cha tôi đang ngồi ở ghế chủ tọa.
Khi tôi nhìn thấy ông, tôi cảm thấy trong tôi như có thứ gì đó đang lao xuống, như một cái thang máy không dây rơi xuống trục. Tôi không hiểu chính cảm giác của mình lúc ấy, nhưng giờ tôi có thể nói cho bạn biết giây phút đó tôi đã thấy trước một điềm báo đáng sợ. Tôi thấy cha tôi đột nhiên thu nhỏ mình lại trước sự xuất hiện của David Thomsen, một người đàn ông cao lớn lạ thường, và tôi đã thấy cách ông cố bám trụ lấy cái ghế chủ tọa, một vị trí đã được xác lập từ lâu, giờ bỗng trở nên thật mong manh. Kể cả khi không tính trận đột quỵ và di chứng mà nó để lại, tất cả mọi người trên cái bàn ăn này đều thông minh hơn cha tôi, và trong đó có tôi. Ông ăn mặc sai; áo khoác của ông quá chật, cái khăn tay màu hồng đậm trên ngực áo không hợp với màu tóc của ông. Tôi thấy ông bồn chồn trên ghế; tôi thấy những cuộc trò chuyện bay qua đầu ông như những đám mây trong ngày lộng gió. Tôi thấy ông đọc menu lâu hơn mức cần thiết. Tôi thấy David Thomsen rướn người sang phía bên kia bàn về phía mẹ tôi để nhấn mạnh một điều gì đó, rồi ngả người ra đằng sau để quan sát cách mẹ tôi phản ứng.
Tôi thấy, tôi thấy hết, và tôi đã biết, trong tiềm thức nhưng cũng cực kỳ khó chịu, rằng đang có một cuộc tranh giành quyền lực xảy ra ngay trước mắt tôi và ngay giây phút này đây, khi mọi thứ mới chỉ bắt đầu ở con số không, thì cha tôi đã thua mất rồi.