Chương 17
Phải mất gần hai tuần Phineas Thomsen mới chịu nói chuyện với tôi. Hoặc có thể là tôi chịu nói chuyện với cậu ấy, ai mà biết được. Tôi chắc là cậu ấy có ý kiến của riêng mình. Nhưng theo trí nhớ của tôi (và dĩ nhiên tất cả những gì viết ở đây đều dựa hoàn toàn trên trí nhớ của tôi) thì cậu ấy bắt đầu trước.
Như thường lệ, hôm ấy tôi đang quanh quẩn trong bếp với mẹ tôi, và nghe lỏm cuộc nói chuyện của mẹ tôi với những người phụ nữ hình như đã chuyển sang sống ở nhà chúng tôi. Tại thời điểm ấy, tôi đã ngầm phát hiện ra cách duy nhất để biết chuyện gì đang xảy ra trên thế giới này, đó là nghe những người phụ nữ buôn chuyện. Bất cứ ai phớt lờ những câu chuyện tán dóc của phụ nữ đều sẽ nghèo đi, trên mọi góc độ.
Tới giờ Birdie và Justin đã sống với chúng tôi được năm tháng, còn nhà Thomsen thì gần hai tuần. Cuộc trò chuyện trong bếp hôm đó vận hành theo một chu kỳ luân phiên bốn mươi tám tiếng: vấn đề đáng lo ngại về nơi ăn chốn ở của Sally và David. Cho đến tận thời điểm này, tôi vẫn mù quáng tin vào lời ngụy biện rằng Sally và David sẽ chỉ ở tạm đây ít lâu mà thôi. Cứ vài ngày, khả năng Sally và David chuyển đi lại được đề cập, và được đưa ra bàn bạc kỹ càng, và cảm giác Sally và David sắp không còn ở đây nữa bắt đầu treo lơ lửng trong một thời gian ngắn, như cố ý trêu ngươi tôi, cho đến khi, bốp, bỗng nhiên họ phát hiện ra một lỗ hổng nào đó mà không ai có thể lấp đầy, và thế là mọi ý tưởng lại bắt đầu lại từ đầu. Cái “khả năng” đang được đề cập đến lúc này là một ngôi nhà thuyền ở Chiswick. Căn nhà ấy thuộc về một bệnh nhân của David. Cô ta quyết định đi du lịch bụi một năm, và cần tìm ai đó chăm sóc cho mấy con rồng Úc của cô ta.
“Nhưng nhà ấy chỉ có một phòng ngủ,” Sally nói với mẹ tôi và Birdie. “Mà cái phòng ngủ cũng nhỏ xíu. Rõ ràng là tôi và David có thể ngủ trong phòng khách, nhưng chỗ đó cũng hơi chật, vì mấy cái bể nuôi thằn lằn.”
“Trời ạ,” Birdie nói, mải mê cậy da khô ở quanh đầu ngón tay, và những mảnh bong tróc rơi xuống lưng con mèo. “Có bao nhiêu cái?”
“Bể nuôi thằn lằn á?”
“Ừ. Gì cũng được.”
“Chịu. Sáu bảy cái gì đấy. Có lẽ chúng tôi sẽ phải tìm cách để chồng chúng lên nhau.”
“Nhưng còn mấy đứa trẻ con thì sao. Chúng có chịu ở chung phòng không? Nhất là lại chỉ có giường đôi nữa. Ý tôi là, Phin cũng sắp thành thiếu niên rồi…”
“Ôi giời, chỉ là ở tạm thôi. Cho đến khi chúng tôi tìm được chỗ nào lâu dài.”
Tôi nhìn lên. Đây chính là lúc mà mọi kế hoạch bắt đầu đổ bể. Giây phút ấy trở nên rõ ràng khi ai cũng thấy được những thứ mà họ vạch ra thực sự ngớ ngẩn, và Sally sẽ bình thản nói rằng, “Ôi không sao đâu, chúng tôi cũng không định ở lại đấy lâu dài,” và mẹ tôi sẽ nói, “Đừng, chị buồn cười thật, nhà chúng tôi còn đầy chỗ. Anh chị không phải vội đi đâu cả.” Lúc này Sally sẽ thả lỏng người, miệng nở nụ cười, tay với tay mẹ tôi và nói, “Tôi đâu muốn lạm dụng lòng hiếu khách của anh chị.” Và người mẹ đẹp của tôi sẽ nói, bằng giọng Đức tuyệt đẹp của bà, “Vớ vẩn, Sally. Vớ vẩn. Cứ từ từ. Rồi chị sẽ tìm thấy chỗ nào khác thôi. Một chỗ nào đấy lý tưởng cho anh chị và các cháu.”
Thế là vào một chiều cuối tháng Chín, dự án ấy đi vào ngõ cụt. Kế hoạch chuyển đến ngôi nhà thuyền của Sally được đưa ra tranh luận và bác bỏ trong vỏn vẹn tám phút, và đây rất có thể là một kỷ lục mới.
Thực tâm tôi cảm thấy bị giằng xé bởi gia đình Thomsen. Sự có mặt của họ làm xáo trộn cuộc sống của gia đình tôi. Không chỉ vì những thứ đồ đạc lỉnh kỉnh họ mang theo, mà còn vì chính họ, vì thân hình, vì âm thanh, vì mùi hương, vì sự khác biệt của họ. Em gái tôi và Clemency giờ hợp lại thành một liên minh đáng bị báng bổ, trước đã ồn, nay còn ồn hơn. Chúng chạy ầm ầm cả ngày từ sáng sớm đến tối muộn, chơi những trò chơi đóng vai kỳ lạ, và tất cả những gì chúng làm dường như đều có mục đích là làm sao tạo ra nhiều tiếng ồn nhất có thể. Thế chưa đủ, Birdie còn dạy cả hai đứa chơi đàn violin, và điều này càng làm cuộc sống của tôi thêm khốn khổ.
Và, tất nhiên, không thể không kể tới David Thomsen, một con người với quyền năng hiện diện ở khắp các tầng nhà. Không chỉ chiếm hữu căn phòng ở tầng trên để làm phòng ngủ, bằng cách nào đó ông ta còn trưng dụng luôn cả phòng khách của chúng tôi, nơi có cái xà của cha tôi, để làm phòng tập cho riêng cho mình. Có lần lén nhìn qua khe nứt trên cửa tôi đã thấy ông ta nâng toàn bộ cơ thể mình lên chỉ bằng đầu ngón tay.
Nhưng bù lại, tôi được thấy Phin. Nhưng Phin chẳng bao giờ chịu nhìn mặt tôi, huống chi là nói chuyện với tôi. Thậm chí Phin cư xử như không thấy tôi ở đấy. Cậu ấy càng làm vậy, tôi lại càng khát khao được cậu ấy để ý đến.
Và rồi cuối cùng ngày ấy cũng tới. Lúc ấy tôi vừa bước ra khỏi bếp, ngay sau khi Sally và David quyết định ở lại, tôi suýt chút nữa thì lao vào Phin đang đi tới từ một hướng khác. Cậu ấy mặc chiếc áo nỉ phai màu, trên có chữ trang trí, cùng quần jeans rách ở đầu gối. Cậu ấy dừng lại khi thấy tôi, và lần đầu tiên, ánh mắt của chúng tôi chạm nhau. Tôi nín thở. Tôi cố tìm trong dòng suy nghĩ rối ren của mình một điều gì đấy để nói, nhưng tôi không thể. Tôi đi sang trái, cậu di chuyển sang bên phải của cậu. Tôi xin lỗi rồi di chuyển sang bên phải của tôi. Tôi tưởng cậu ấy sẽ chỉ im lặng bước qua, nhưng rồi cậu ấy nói, “Cậu biết gia đình tớ đến đây là để ở lại, đúng không?”
“Xin lỗi cậu nói gì cơ?”
“Đừng để ý đến những gì ba mẹ tớ nói về chuyện chuyển ra ngoài. Nhà tớ sẽ không đi đâu hết. Cậu biết đấy,” Phin tiếp tục, “gia đình tớ sống trong căn nhà cũ ở Bretagne tận hai năm liền. Đáng lẽ ra nhà tớ chỉ được ở đấy mấy ngày nghỉ lễ thôi.” Cậu ấy dừng lại và nhướng một bên chân mày.
Rõ ràng là tôi phải tìm cách đáp lại những lời Phin vừa nói, nhưng đầu óc tôi giờ đã bị cậu ấy làm cho mụ mị hết cả. Tôi chưa bao giờ đứng gần ai đẹp như thế. Hơi thở của cậu có mùi bạc hà.
Cậu nhìn tôi chằm chằm, và tôi thấy nỗi thất vọng thoáng qua trên gương mặt cậu, cũng không hẳn là thất vọng, mà là cam chịu, như thể sự im lặng của tôi đã chứng thực những gì cậu ấy vẫn nghĩ về tôi, rằng tôi chỉ là một đứa tẻ nhạt và vô vị, không đáng để cậu ấy quan tâm.
“Tại sao gia đình cậu lại không có nhà riêng?” cuối cùng thì tôi cũng hỏi.
Cậu nhún vai. “Vì ba tớ bủn xỉn, ông ấy không muốn trả tiền thuê nhà.”
“Vậy gia đình cậu đã bao giờ sở hữu một cái nhà riêng chưa?”
“Rồi. Đã từng. Nhưng ba tớ bán đi để lấy tiền cho cả nhà đi du lịch.”
“Thế còn chuyện học hành của cậu thì sao?”
“Liên quan gì đến chuyện học hành của tớ?”
“Cậu đi học vào lúc nào?”
“Tớ thôi đi học từ năm lên sáu rồi. Mẹ tớ dạy tớ ở nhà.”
“Ôi chao,” tôi nói. “Thế còn bạn bè của cậu thì sao?”
Cậu ấy nhìn tôi ngờ vực.
“Cậu không nhớ bạn của cậu à?”
Phin nheo mắt. “Không,” cậu trả lời gọn lỏn. “Không chút nào.”
Cậu ấy nhìn tôi như thể cậu ấy muốn đi ra chỗ khác. Nhưng tôi không muốn cậu ấy đi. Tôi vẫn muốn được ngửi mùi bạc hà trong hơi thở của cậu ấy và nghe cậu ấy nói về mình nhiều hơn. Mắt tôi hướng xuống quyển sách trong tay cậu. “Cậu đang đọc quyển gì đấy?” Tôi hỏi.
Cậu nhìn xuống rồi quay quyển sách lên. Đó là The Dice Man của Luke Rhinehart, một cuốn tiểu thuyết mà lúc đó tôi chưa từng nghe tới, nhưng đến giờ thì chắc tôi cũng phải đọc đi đọc lại được khoảng ba chục lần rồi. “Có hay không?”
“Sách nào cũng hay cả,” cậu ấy đáp.
“Không đúng,” tôi nói. “Tớ từng đọc mấy quyển dở tệ.” Tôi đang nghĩ đến Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh, cuốn tiểu thuyết mà chúng tôi bị ép phải đọc kỳ trước, và đó là cuốn sách khó chịu, ngu ngốc nhất mà tôi từng biết.
“Đó không phải là những quyển sách dở tệ,” Phin kiên nhẫn phản đối. “Chỉ là những quyển sách mà cậu không thích mà thôi. Hai thứ ấy khác nhau hoàn toàn. Những quyển sách dở tệ phải là những quyển sách viết dở đến nỗi mà không ai chịu xuất bản kia. Còn bất cứ cuốn sách nào đã được xuất bản thì sẽ hẳn là một cuốn ‘sách hay’, ít nhất là trong mắt của một ai đó.”
Tôi gật đầu. Tôi không thể tìm ra lỗi sai nào trong logic của cậu ấy cả.
“Tớ sắp đọc xong rồi,” cậu nói, nhìn xuống cuốn sách trong lòng bàn tay. “Cậu có thể mượn đọc nếu cậu muốn.”
Tôi gật đầu thêm lần nữa. “Ừ,” tôi nói. “Cảm ơn cậu.”
Và cậu ấy bỏ đi. Nhưng tôi đứng ở yên đó, đầu tôi như bị rung động, lòng bàn tay tôi ướt nhẹp, và tim tôi tràn ngập một điều gì đó phi thường và mới mẻ.