← Quay lại trang sách

Chương 18

Miller Roe đã đứng chờ sẵn ở đó khi Libby tiến lại gần. Cô nhận ra anh từ tấm hình trên mạng, dù anh đã để râu kể từ khi chụp tấm ảnh tác giả đó, và cũng đã kịp tăng thêm mấy cân. Anh đang ăn dở một chiếc bánh mì sandwich hổ lốn, trên râu dính chút xốt mù tạt vàng. Anh lau ngón tay lên khăn giấy trước khi bắt lấy tay Libby và nói, “Libby, wow, gặp được cô tôi rất mừng. Gặp được cô tôi rất mừng!” Anh nói giọng London và có đôi mắt màu xanh đậm. Tay anh to bản. “Đây, mời cô ngồi xuống. Để tôi mời cô món gì nhé? Ở đây có bánh sandwich ngon tuyệt.”

Cô thoáng nhìn chiếc bánh nát bét như bị xe cán của anh và nói, “Tôi vừa mới ăn sáng xong.”

“Vậy cà phê nhé, hay trà?”

“Một cốc cappuccino là được rồi, cảm ơn anh.”

Cô nhìn anh tiến đến quầy pha chế trong quán cà phê thời thượng ở hẻm West End nằm chính giữa đường đi từ St Albans đến Nam Norwood, nơi mà anh đã gợi ý hai người chọn lấy làm điểm gặp mặt. Anh mặc quần jeans cạp trễ, áo phông bạc màu, bên ngoài khoác áo bông màu xanh lá cây, chân đeo bốt. Bụng anh to, đầu cũng to, tóc nâu dày. Nhìn anh hơi gấu làm cô thấy có chút gì đó choáng ngợp, nhưng không hẳn là không hấp dẫn.

Anh mang tách cappuccino lại và đặt trước mặt cô. “Tôi rất biết ơn cô đã dành thời gian để đến đây gặp tôi. Tôi mong trên đường đi đến đây cô không gặp vấn đề gì.” Nói đoạn anh đẩy đĩa sandwich sang một bên như thể anh không muốn ăn tiếp nữa.

“Mọi thứ đều ổn,” cô nói, “mười lăm phút, thẳng một mạch.”

“Cô đi từ St Albans đến, đúng không?”

“Vâng.”

“Chỗ đó đẹp, St Albans ấy.”

“Vâng,” cô đồng tình. “Tôi thích ở đấy.”

“Vậy,” anh nói, đoạn ngừng lại và nhìn cô đầy ngụ ý, “cô chính là em bé đó à.”

Cô cười gượng. “Có vẻ vậy.”

“Và giờ cô đã nhận quyển thừa kế lại căn nhà?”

“Vâng, đúng ạ.”

“Ồ wow,” anh nói. “Lật ngược ván bài.”

“Đúng là như thế,” cô đồng tình.

“Cô đã tới đó chưa?”

“Tới ngôi nhà á?”

“Ừ.”

“Rồi, một vài lần.”

“Chúa ơi.” Anh ta ngã ngửa người ra sau ghế. “Tôi đã cố thuyết phục không biết bao nhiêu lần để họ cho tôi vào ngôi nhà đó. Chắc chỉ thiếu mỗi nước tôi tặng tay luật sư ấy đứa con đầu lòng của tôi nữa thôi. Có đêm tôi còn định lẻn vào.”

“Vậy anh chưa bao giờ vào bên trong ngôi nhà à?”

“Chưa, tôi chưa bao giờ.” Anh cười nhạt. “Tôi cố nhìn qua cửa sổ; tôi còn đi nịnh bợ mấy người hàng xóm ở phía sau nhà cô để họ cho tôi nhìn qua cửa sổ nhà họ. Nhưng tôi chưa bao giờ vào trong nhà. Trong đó trông như thế nào?”

“Tối tăm lắm,” cô nói. “Chỗ nào cũng ốp gỗ. Có vẻ hơi quái dị.”

“Và nếu tôi không nhầm thì cô định bán nó chứ?”

“Vâng, tôi sẽ bán. Nhưng…” Cô lướt ngón tay quanh miệng tách cà phê, cố tìm từ ngữ để diễn tả những gì cô muốn nói tiếp theo. “Nhưng trước tiên tôi muốn biết chuyện đã xảy ra.”

Miller Roe làu bàu khe khẽ, tay xoa râu, làm chỗ xốt dính trên râu lúc nãy nhoe nhoét ra chỗ khác. “Lạy Chúa, cả tôi và cô. Hai năm cuộc đời tôi, bài báo đó đã tước đoạt của tôi, hai năm ám ảnh, điên cuồng, hai năm chết tiệt của đời tôi. Huỷ hoại cả cuộc hôn nhân của tôi lúc bấy giờ, và tôi vẫn chưa thấy câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm. Không một manh mối.”

Anh cười với cô. Cô nghĩ anh có khuôn mặt đẹp. Cô cố đoán tuổi anh, nhưng cô không thể. Nói anh ta hai lăm tuổi có vẻ đúng, mà nói anh ta bốn mươi tuổi trông cũng không sai.

Cô với lấy túi xách và lôi ra chùm chìa khóa của ngôi nhà trên phố Cheyne, rồi đặt nó lên bàn trước mặt anh.

Anh hướng mắt xuống chùm chìa khóa, và cô thấy một làn sóng khao khát mãnh liệt lướt qua mắt anh. Tay anh rướn qua bàn. “Lạy Chúa tôi. Cô cho phép tôi chứ?”

“Vâng,” cô nói. “Anh cứ tự nhiên.”

Anh chăm chú nhìn từng chiếc chìa một, tay mân mê chiếc móc khóa. “Jaguar à?” anh hỏi, ngước lên nhìn cô.

“Chắc thế.”

“Cô biết không, Henry Lamb, cha cô, cũng từng chơi bời có tiếng đấy. Ông ấy hay hò hét đi săn vào cuối tuần, rồi trong tuần thì tiệc tùng ở câu lạc bộ đêm Annabel.”

“Tôi biết,” cô đỏ mặt đáp lại. “Tôi đã đọc bài báo anh viết rồi.”

“Phải,” anh nói, “hẳn rồi.”

Giữa họ có một khoảng lặng ngắn. Miller nhón một miếng bánh sandwich bỏ vào miệng. Libby nhấp một ngụm cà phê.

“Vậy,” anh nói, “chúng ta làm gì tiếp theo?”

“Tôi muốn tìm anh chị tôi.”

“Họ chưa bao giờ liên lạc với cô ư?”

“Chưa. Chưa bao giờ. Anh có giả thuyết gì không?”

“Tôi có cả triệu giả thuyết. Nhưng câu hỏi quan trọng ở đây là: Họ có biết ngôi nhà được ủy thác cho cô không? Và nếu họ biết, liệu họ có biết cô đã chấp nhận quyền sở hữu nhà không?”

Libby thở dài. “Tôi không biết. Ông luật sư nói rằng quỹ ủy thác này đã được thành lập từ nhiều năm trước rồi, từ khi anh trai tôi ra đời. Đáng lẽ nó phải thuộc về anh tôi, khi anh tròn hai lăm tuổi. Nhưng anh chưa bao giờ đứng ra để nhận nó. Rồi đến chị tôi, nhưng chị tôi cũng không đến nhận… và tất nhiên ông luật sư cũng không có cách nào liên hệ được với họ. Nhưng đúng, tôi đoán có khả năng là họ biết nó sẽ được ủy thác lại cho tôi. Nếu…” Cô định nói nếu họ vẫn còn sống, nhưng cô ngăn mình lại.

“Và người đàn ông,” cô nói, “người đàn ông chết trên sàn với cha mẹ tôi. Trong bài báo anh viết là anh đã lần theo rất nhiều manh mối. Nhưng anh chưa bao giờ tìm ra được ông ta là ai à?”

“Không, bực là không.” Miller xoa râu. “Mặc dù chỉ có một cái tên xuất hiện mà thôi. Tôi đã phải từ bỏ công cuộc thu thập thêm tin tức về ông ta. Nhưng nó vẫn làm tôi day dứt mãi. David Thomsen.”

Libby ném cho anh ta cái nhìn khó hiểu.

“Trên lá thư tuyệt mệnh có ba tên họ viết tắt, cô nhớ chứ? ML, HL, DT. Thế là tôi hỏi cảnh sát danh sách những người mất tích năm đó có tên viết tắt là DT. David Thomsen là một trong số ba mươi tám người mà họ phát hiện được. Ba mươi tám người mất tích có tên viết tắt là DT. Mười người trong số họ ở độ tuổi của John Doe. Và tôi loại trừ từng người một.

Nhưng riêng người này lại thu hút tôi. Tôi không biết tại sao. Có điều gì đó về người đàn ông này khiến tôi cảm thấy có vẻ ông ta chính là người mà tôi đang tìm. Một người đàn ông bốn mươi hai tuổi đến từ Hampshire. Gia cảnh bình thường. Nhưng không có bất cứ loại sổ sách nào lưu trữ thông tin về ông ta, ở bất cứ đâu, sau khi ông ta từ Pháp quay trở lại Anh vào năm 1988, với vợ tên là Sally, và hai đứa con tên là Phineas và Clemency. Bốn người bọn họ đi bằng phà từ Saint-Malo tới Portsmouth vào…” Anh lướt qua quyển sổ ghi chép một lúc, “… tháng Chín năm 1988. Và từ đó trở đi mọi dấu vết của họ đều biến mất: không có trong sổ khám bệnh của bác sĩ, không thuế má, không giấy nhập học, không đi bệnh viện, không gì cả. Người nhà của gia đình này gọi họ là ‘những kẻ cô đơn’, có vẻ như đã có rạn nứt và thù hằn ở đâu đó, vì lý do thừa kế, hay đại loại thế. Vì thế nên cũng chẳng ai buồn quan tâm xem họ ở đâu. Trong suốt nhiều năm liền. Mãi cho đến khi gần đất xa trời, mẹ của David Thomsen muốn hòa giải với con trai trong cơn hấp hối, nên đã báo cảnh sát là David và gia đình của ông ta đã mất tích. Cảnh sát tìm lấy lệ, nhưng không thấy dấu vết gì, rồi mẹ của David qua đời, và không ai hỏi gì về David hay Sally Thomsen nữa. Cho đến tôi, ba năm trước.” Miller thở dài. “Tôi đã cố gắng truy lùng theo tung tích của họ. Phineas. Clemency. Toàn là những cái tên lạ cả. Nếu họ ở ngoài kia thì đáng lẽ phải dễ tìm ra mới đúng. Nhưng không có một cái gì cả. Kể cả một dấu vết. Và tôi cần nộp bài, tôi cần được trả tiền, và tôi phải từ bỏ.” Anh ta lắc đầu. “Giờ cô đã thấy chưa? Cô đã thấy tại sao tôi mất tận hai năm liền, tại sao câu chuyện này suýt nuốt sống tôi chưa? Tại sao vợ tôi bỏ tôi. Tôi trở thành một bóng ma, lúc nào cũng tìm tìm kiếm kiếm. Nó là tất cả những gì tôi nghĩ đến, tất cả những gì tôi nói về.”

Anh thở dài và lướt ngón tay qua chùm chìa khóa. “Nhưng được rồi, hãy làm thôi. Hãy cùng nhau đi tìm xem chuyện gì đã xảy ra với những con người ấy. Hãy cùng nhau tìm ra xem chuyện gì đã xảy đến với cô.”

Anh với tay ra để bắt tay cô. “Cô đồng ý chứ, Serenity Lamb?”

“Vâng,” Libby nói, bắt lấy tay anh. “Tôi đồng ý.”

Libby đi thẳng đến chỗ làm sau bữa sáng với Miller Roe. Mới chín rưỡi sáng và Dido cũng chưa kịp nhận ra là hôm nay cô lại đi muộn nữa. Nhưng khi nhận ra, Dido sững lại sửng sốt, và vội vàng thì thầm với Libby, “Ôi Chúa ơi! Tay nhà báo! Thế mọi chuyện sao rồi!”

“Tuyệt vời,” Libby đáp lời. “Bọn em định gặp nhau ở ngôi nhà đó tối nay. Để bắt đầu cuộc điều tra.”

“Chỉ có mình em,” Dido nói, mũi hơi nhăn lại, “và anh ta á?”

“Vâng.”

“Hừm. Em có chắc đó là ý kiến hay không?”

“Gì cơ ạ? Tại sao?”

“Chị không biết. Nhỡ anh ta không phải là người như em nghĩ thì sao.” Dido nheo mắt lại. “Chị nghĩ là chị nên đi cùng em.”

Libby chớp mắt chậm rãi rồi sau đó mỉm cười. “Nếu muốn chị chỉ việc hỏi em thôi mà.”

“Chị không biết em có ý gì.” Dido quay mặt lại nhìn máy tính xách tay. “Chị chỉ muốn bảo vệ em thôi.”

“Được thôi,” Libby nói, miệng vẫn cười. “Chị có thể ‘bảo vệ’ em. Em hẹn anh ta lúc bảy giờ. Vậy đúng sáu giờ mười một là mình phải lên đường. Được không?”

“Ừ,” Dido nói, mắt vẫn dán vào màn hình. “Được. Mà này,” đột nhiên cô ngẩng đầu nhìn lên. “Chị đã đọc hết tất cả những cuốn tiểu thuyết do Agatha Christie viết. Hai lần liền. Nên biết đâu em lại thấy chị có ích cũng nên.”