← Quay lại trang sách

Chương 19

Lucy ra khỏi nhà khi các con cô còn đang ngủ, để lại một tờ giấy nhắn trên bàn cạnh giường cho Marco: “Mẹ đi giải quyết vụ hộ chiếu. Mấy tiếng nữa mẹ về. Cho em ăn cái gì đi nhé. Con chó ở chỗ Giuseppe.”

Cô bước ra khỏi cửa lúc tám giờ sáng và đi bộ sang phía bên kia thị trấn để đến ga tàu Nice. Cô dừng lại một lúc và ngồi trên ghế nghỉ, để nắng ban mai dịu dàng sưởi ấm làn da cô. Đúng tám giờ bốn lăm, cô lên tàu đi Antibes.

Chỉ sau chín giờ một chút cô đã có mặt ở trước nhà Michael. Một đám ruồi nhặng xanh bu lấy bãi phân của Fitz từ sáng hôm trước. Cô mím môi cười. Và rồi, vô cùng chậm rãi, cô bấm chuông cửa, ruột gan cô như đang có lửa đốt bên trong.

Bà giúp việc ra mở cửa. Bà cười khi thấy Lucy và nói, “Chào cô! Cô là vợ cũ của Michael! Từ ngày xưa! Mẹ của con trai Michael! Tôi không biết là trước đấy Michael lại có con trai đâu đấy.” Hai tay bà ôm lấy ngực, trông bà thực sự vui mừng. “Cậu bé xinh trai quá đi. Vào đây, vào đây.”

Căn nhà im ắng. Lucy hỏi, “Michael có nhà không ạ?”

“Có, có. Cậu ấy đang tắm. Cô đợi cậu ấy ngoài sân nhé. Được không?”

Joy dẫn cô ra sân và mời cô ngồi, rồi khăng khăng đòi mang cà phê với bánh quy mềm amaretti ra đặt bên bàn cho cô, ngay cả khi Lucy bảo cô uống nước lọc được rồi. Michael không xứng đáng có được người phụ nữ này, cô nghĩ. Michael không xứng đáng có được cái gì hết.

Cô cho tay vào trong túi và lấy ra cuốn hộ chiếu cũ của cô, và một cái ví bé xíu, trong có kẹp ảnh của Stella và Marco. Cô uống cà phê nhưng không động vào chỗ amaretti vì cô sợ nuốt không trôi. Một con chim trảu sặc sỡ đậu trên cây nhòm xuống vườn xem có gì ăn không. Cô bẻ vụn mấy cái bánh amaretti rồi ném ra sân cho nó xuống ăn. Nó chẳng để ý, bay đi mất. Bụng Lucy quặn thắt lại. Giờ đã là chín rưỡi sáng.

Và cuối cùng thì hắn cũng xuất hiện, mặc áo phông trắng chỉn chu và quần đùi màu xanh lá cây, mái tóc thưa thớt dần của hắn vẫn còn ướt, chân đi trần.

“Ôi, lạy Chúa tôi,” hắn nói, má hắn chạm hai má cô. “Hai lần trong hai ngày. Chắc hẳn hôm nay phải là sinh nhật của anh rồi. Em không mang con theo sao?”

“Không. Em để chúng nó ngủ. Đêm qua chúng nó thức muộn.”

“Lần sau vậy.” Hắn nở nụ cười rạng rỡ, ngồi xuống, bắt tréo chân. “Vậy, anh phải làm gì để xứng đáng với vinh dự này đây?”

“Chà,” cô đặt đầu ngón tay lên bìa cuốn hộ chiếu và mắt hắn nhìn xuống theo cô. “Em phải đi về nhà,” cô nói. “Bạn em đang ốm. Có khi không qua khỏi. Em muốn thăm cô ấy, trước khi cô ấy… nhỡ đâu… anh biết đấy.” Một giọt nước mắt lăn ra từ khóe mắt trái của cô và hạ cánh xuống cuốn hộ chiếu một cách kỳ diệu. Cô lau nó đi. Cô không định khóc, nhưng nước mắt cứ chảy ra.

“Ôi, em yêu.” Michael đặt tay lên tay cô.

Cô cười nhẹ, cố gắng ra vẻ biết ơn trước cử chỉ vừa rồi.

“Thật đáng buồn. Cô ấy bị sao vậy? Ung thư à?”

Cô gật đầu. “Ung thư buồng trứng.” Cô rút tay ra khỏi tay hắn rồi đưa lên miệng để che đi một tiếng nấc nhỏ. “Sang tuần tới em muốn đi,” cô nói, “nhưng hộ chiếu của em, nó hết hạn rồi. Mà em cũng chẳng có hộ chiếu cho các con. Em rất xấu hổ khi phải hỏi xin anh. Vả lại, hôm qua anh hào phóng với em quá, lại còn cho em tiền để đi sửa đàn nữa. Và em cũng sẽ chẳng xin anh đâu nếu em có lựa chọn nào khác. Nhưng anh còn quen mấy người đó không? Mấy người làm hộ chiếu cho em ấy?” Cô lướt tay qua mắt rồi ngước nhìn hắn với ánh mắt đáng thương, và cô mong là nó cũng không kém phần quyến rũ.

“Ôi trời, cũng không hẳn. Nhưng, nhìn anh này, anh sẽ cố gắng.” Hắn kéo cuốn hộ chiếu lại phía mình. “Cứ để nó ở lại đây với anh.”

“Đây. Em mang cả ảnh nữa. Và Chúa ơi, em biết điều này nghe có vẻ điên rồ, nhưng em cần hộ chiếu cho cả con chó nữa. Nó quá hạn mấy mũi tiêm phòng nên em không thể làm theo cách truyền thống được. Mà chỉ có Chúa mới biết làm thế mất bao lâu…”

“Em mang chó đi theo à? Để thăm bạn đang ốm thập tử nhất sinh?”

“Em không còn lựa chọn nào khác.”

“Sao không để anh trông cho?”

Cô cố không tỏ ra kinh hãi trước suy nghĩ để con chó yêu quý của cô vào tay tên quái vật này. “Nhưng anh biết làm gì với con chó cơ chứ?”

“Ơ, Chúa ơi, anh không biết. Chơi với nó? Dắt nó đi dạo? Cho nó ăn?”

“Phức tạp hơn thế nhiều. Anh sẽ phải dậy mỗi sáng để cho nó đi vệ sinh. Và anh sẽ phải dọn phân cho nó.”

Michael đảo mắt và nói. “Bà Joy yêu chó lắm. Chắc bà ấy sẽ thích có con chó ở bên. Và anh cũng thế.”

Tất nhiên rồi, Lucy nghĩ, Michael có người dọn phân chó cho hắn cơ mà.

“Nhưng,” cô nói, “Em muốn đưa nó đi cùng với em. Mấy đứa trẻ con quấn con chó lắm, cả em cũng thế…”

“Để anh xem anh có thể giúp được gì,” hắn đáp. “Anh nghĩ hộ chiếu cho con chó sẽ phức tạp hơn đôi chút thôi. Nhưng anh sẽ cố.”

“Chúa ơi,” cô nói, mắt mở to ra vẻ biết ơn. “Cảm ơn anh rất nhiều, Michael. Anh không biết lúc này em đang cảm thấy nhẹ nhõm thế nào đâu. Em vừa mới nhận được tin nhắn về bạn em đêm hôm qua và cả đêm em không ngủ được, vì lo lắng không biết em sẽ đi thăm cô ấy như thế nào. Cảm ơn anh.”

“Đừng, anh đã làm đâu.”

“Em biết,” cô nói. “Em biết là anh chưa làm chứ. Nhưng em vẫn rất biết ơn.”

Cô nhìn nét mặt hắn chuyển từ quan tâm ân cần sang biến thái. “Em thật sự, thật sự thấy biết ơn chứ?”

Cô cố nặn ra một nụ cười. Cô biết chuyện này sẽ đi tới đâu; cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn hết rồi. “Thật sự rất, rất, rất biết ơn ạ,” cô nói.

“À há.” Hắn ngả người ra ghế và mỉm cười. “Anh thích nghe điều đó.”

Cô cười đáp lại và lấy tay vuốt tóc.

Hắn hướng mắt lên những cánh cửa đóng chặt trên đầu họ, bên ngoài phòng ngủ chính, nơi mà hắn đã hãm hiếp cô không biết bao nhiêu lần trong thời gian hai người còn kết hôn. Sau đó ánh mắt hắn quay lại tìm cô, và cố lắm cô mới che giấu nổi cơn rùng mình. “Chắc để lần sau,” cô nói.

Hắn nhướng mày, một tay vắt qua lưng ghế ở phía bên phải hắn. “Em đang khuyến khích anh đấy à?”

“Có thể,” cô nói.

“Anh thích phong cách của em.”

Cô cười. Rồi cô ngồi thẳng người, kéo lấy dây túi xách và đeo lên vai. “Nhưng bây giờ,” cô nói, “em phải về với mấy đứa con còn đang ngủ.”

Cả hai bọn họ cùng đứng dậy. “Anh nghĩ khi nào thì…” cô ngập ngừng hỏi hắn.

“Anh sẽ xử lý ngay bây giờ,” hắn nói. “Cho anh xin số điện thoại của em, anh sẽ gọi cho em ngay khi anh có tin tức gì.”

“Bây giờ em đang không có điện thoại,” cô nói.

Hắn chau mày. “Nhưng em vừa bảo tối qua em nhận được tin nhắn về bạn em đấy thôi.”

Nếu việc phải ngủ một tuần trên bãi biển có dạy được cho con người ta điều gì, thì đó chính là kỹ năng phản ứng nhanh. “Ồ, cái đó là điện thoại bàn ở nhà nghỉ. Có ai đó nhắn lại cho em. Trên một mảnh giấy.”

“Được rồi, thế giờ anh liên lạc với em kiểu gì nào? Anh gọi điện đến nhà nghỉ mà em đang ở được không?”

“Không,” cô trả lời lạnh tanh. “Cho em số điện thoại của anh. Em sẽ gọi cho anh từ bốt điện thoại công cộng. Em gọi cho anh vào thứ Sáu này nhé?”

Hắn viết vội số điện thoại vào một tờ giấy và đưa cho cô. “Ừ, thứ Sáu này gọi cho anh. Và đây…” Hắn đút tay vào túi và rút ra một nắm giấy bạc. Hắn kéo vài tờ hai mươi đồng đưa cho cô. “Đi mua một cái điện thoại mà dùng. Vì Chúa.”

Cô lấy mấy tờ hai mươi và nói cảm ơn hắn. Cô chẳng còn gì để mất cả. Cô vừa ký gửi linh hồn của mình cho một cuốn hộ chiếu.