Chương 20
Nhiều tháng trôi qua. Phineas đã bước sang tuổi mười ba, cổ lộ yết hầu, mép bắt đầu có ria. Tôi đã cao thêm được một inch nữa, tóc cuối cùng cũng đã dài ra, đủ để vuốt sang một bên. Em gái tôi và Clemency ngày càng trở thân thiết đến phát rồ, hai đứa nói chung một thứ tiếng bí mật, ngày nào cũng trốn trong những cái ổ làm bằng ga trải giường và mấy cái ghế lật ngược trong căn phòng trống trên tầng gác mái đến mấy tiếng đồng hồ. Nhóm nhạc của Birdie ra một đĩa đơn mới dở tệ, xếp vị trí thứ 48 trên bảng xếp hạng, và Birdie giận dỗi bỏ đi, nhưng cũng chẳng có tờ báo âm nhạc nào để ý hay quan tâm đến chuyện cô ta rời nhóm, rồi cô ta bắt đầu dạy đàn violin chuyên nghiệp trong phòng nhạc của gia đình tôi.
Cùng lúc đó, Justin đã biến khu vườn của cha tôi thành một xí nghiệp thương mại, chuyên buôn bán các loại thảo dược tự chế, và quảng cáo trên mục rao vặt ở trang cuối của các tờ báo địa phương. Sally dạy cả bốn đứa chúng tôi, bốn tiếng mỗi ngày, trên bàn ăn trong bếp. Còn David thì tuần cũng có lịch dạy ba lớp ở hội trường nhà thờ trong khu dân cư World’s End về các phương pháp trị liệu thay thế, và về nhà với một túi đầy tiền mặt.
Những gì Phin dự đoán mấy tháng trước là hoàn toàn chính xác.
Nhà Thomsen không đi đâu cả.
Tôi nhìn lại những năm tháng tôi sống ở căn nhà trên phố Cheyne với nhà Thomsen và tôi biết chính xác đâu là điểm mà giọt nước tràn ly, khiến trục quay số phận của chúng tôi xoay chuyển, và làm câu chuyện của gia đình tôi trở nên méo mó, biến dạng. Tôi nhớ bữa ăn tối ở Chelsea Kitchen, nơi tôi thấy cha tôi đã hoàn toàn thất bại trong cuộc đấu tranh giành quyền lực; trận đấu mà ông quá kém cỏi nên không nhận ra rằng nó đã bắt đầu. Tôi nhớ ngày mẹ tôi cố giữ mình trước David, không dám phô ra, vì sợ ông ta sẽ thèm khát bà. Tôi nhớ mọi chuyện bắt đầu từ đâu, nhưng tôi không hiểu nổi từ đêm đó cha mẹ tôi đã làm gì, mà để những kẻ lạ mặt này chín tháng sau chiếm hết từng ngóc ngách trong ngôi nhà của chúng tôi.
Cha tôi giả vờ như ông quan tâm đến những gì đang diễn ra. Ông làm mấy công việc vặt vãnh trong khu vườn của Justin, tỏ ra vẻ thích thú khi nhìn thấy những hàng cây cối và thảo dược của ông ta; rồi đến bảy giờ mỗi tối, ông đổ hai ngón tay rượu whiskey ra hai chiếc cốc lớn, và ngồi tranh luận căng thẳng với David trong bếp về chính trị và những vấn đề quốc tế, mắt ông hơi trợn lên để thể hiện rằng ông biết mình đang nói gì. (Quan điểm của bố tôi chỉ có trắng hoặc đen, điều gì thì cũng chỉ có sai hoặc đúng, tốt hoặc xấu: thế giới quan của ông không có chút sắc thái nào ở giữa cả. Rất đáng xấu hổ.) Nhiều hôm ông ngồi trong bếp khi chúng tôi đang học bài, trông ông có vẻ hơi choáng vì thấy chúng tôi quá thông minh. Tôi không thể hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra với bố tôi. Như thể Henry Lamb đã bỏ nhà ra đi, chỉ để cái xác ở lại vậy.
Tôi muốn được nói cho ra nhẽ với ông về những gì đang xảy ra, khiến thế giới của tôi bị đảo lộn, nhưng tôi sợ rằng làm thế chẳng khác nào rứt nốt miếng vảy đang che đậy vết thương của ông, chút ý thức về tầm quan trọng còn sót lại cuối cùng mà ông đang níu giữ. Nhìn ông thật yếu đuối, tuyệt vọng. Một buổi trưa đầu hè, tôi thấy ông đang ôm chặt lấy cái mũ len mohair và chiếc áo khoác, đứng kiểm tra ví ở trước cửa. Hôm đấy chúng tôi đã học xong bài và tôi đang thấy chán.
“Cha đi đâu đấy?” Tôi hỏi.
“Đi đến câu lạc bộ,” ông trả lời.
À, cái câu lạc bộ của ông. Một dãy phòng ám đầy khói trong con hẻm nhỏ cuối đường Piccadilly. Tôi từng đến đó một lần, khi mẹ tôi đi ra ngoài, và cô trông trẻ của chúng tôi không xuất hiện. Thay vì bị mắc kẹt ở nhà chơi với hai đứa nhóc tẻ nhạt, ông đã bế chúng tôi lên ghế sau của một chiếc taxi màu đen và đưa chúng tôi đến câu lạc bộ của ông. Tôi và Lucy ngồi trong góc phòng uống nước chanh và ăn đậu phộng, trong khi cha tôi hút xì gà và uống whiskey với những người đàn ông mà tôi chưa thấy bao giờ. Ở đây tôi cảm thấy rất thú vị, và tôi ước mình không bao giờ phải rời đi, ước là cô trông trẻ của chúng tôi sẽ mãi mãi không đến.
“Con đi với được không?”
Ông ngây ra nhìn tôi, như thể tôi vừa đố ông một bài toán khó.
“Đi mà. Con sẽ giữ trật tự. Con sẽ không nói gì đâu.”
Ông ngước mắt nhìn lên cầu thang như thể lời giải cho câu hỏi hóc búa tôi vừa đặt ra sắp rơi xuống đầu. “Con học xong chưa?”
“Rồi ạ.”
“Được thôi.”
Ông đợi tôi mặc áo khoác; rồi chúng tôi cùng nhau đi bộ xuống phố và ông bắt taxi.
Ở trong câu lạc bộ ông không tìm thấy ai mà ông biết cả, trong lúc chúng tôi đợi đồ uống được mang đến, ông nhìn tôi rồi nói, “Vậy, con thế nào rồi?”
“Con thấy bối rối,” tôi bắt đầu.
“Bối rối?”
“Đúng, về chuyện của nhà mình gần đây.” Tôi nín thở. Nếu ngày xưa mà tôi giở cái thái độ hỗn xược này ra, cha tôi đã nhăn mặt, quay về phía mẹ tôi, và hỏi bà bằng giọng hăm dọa rằng liệu bà thấy hành vi của tôi có chấp nhận được không, liệu tôi có xứng đáng là con của cha mẹ tôi không.
Nhưng giờ ông chỉ nhìn tôi với đôi mắt màu xanh ậng nước và nói ngắn gọn, “Ừ.”
Ngay lập tức ông nhìn ra chỗ khác.
“Cha có cảm thấy bối rối không?”
“Không, con trai, không. Cha không thấy bối rối chút nào cả. Cha biết chính xác chuyện gì đang xảy ra.”
Tôi không biết liệu ông đang muốn nói rằng ông biết chuyện gì đang diễn ra và ông vẫn kiểm soát được, hay ông đang nói là ông biết chuyện gì đang diễn ra, và ông không thể làm gì để cản được cả.
“Vậy… chuyện gì ạ?” Tôi hỏi. “Chuyện gì đang xảy ra mới được chứ?”
Đồ uống của chúng tôi đã đến: một cốc nước chanh trên miếng lót bằng giấy màu trắng cho tôi, rượu whiskey và nước lọc cho cha tôi. Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, và tôi nghĩ có lẽ ông sẽ không nói gì. Nhưng rồi ông thở dài. “Con trai,” ông nói, “ở đời nhiều khi con sẽ phải đứng trước ngã tư đường. Giờ cha và mẹ con đang đứng giữa ngã tư đường. Mẹ con muốn đi một đường, cha lại muốn rẽ lối khác. Mẹ con thắng.”
Chân mày tôi dựng lên. “Ý cha là mẹ muốn tất cả mấy người họ ở trong nhà mình á? Mẹ thực sự muốn như thế á?”
“Muốn ư?” ông buồn rầu hỏi, như thể câu hỏi của tôi rất nực cười, trong khi rõ ràng không phải vậy.
“Mẹ có muốn sống với mấy người đó không?”
“Chúa ơi, cha không biết. Cha không biết giờ mẹ con muốn gì nữa. Và đây, nghe lời cha này. Đừng bao giờ lấy phụ nữ làm vợ. Nhìn thì đẹp đấy, nhưng họ sẽ hủy hoại con.”
Điều này chẳng có nghĩa lý gì cả. Chuyện lấy vợ—điều mà tôi chưa từng có ý định muốn làm, nhưng hồi đó tôi cũng không biết mình còn có lựa chọn nào khác; nếu không lấy phụ nữ thì lấy ai đây?—thì liên quan gì đến mấy người lầu trên cơ chứ?
Tôi nhìn ông chằm chằm, cầu mong ông nói điều gì đó rõ ra để khai sáng cho tôi. Nhưng cha tôi không có sự thông minh về mặt cảm xúc ấy, hay đúng hơn, kể từ khi ông bị đột quỵ, ông cũng không còn cả từ vựng để mà diễn đạt rõ ràng, chứ đừng nói là khai sáng. Ông lấy một điếu xì gà từ trong túi áo, và dành ít thời gian cuộn nó lại để chuẩn bị hút. “Con không thích mấy người đấy à?” cuối cùng ông nói.
“Không,” tôi trả lời. “Con không thích. Vậy họ có đi không?”
“Chà, nếu cha có quyền quyết định…”
“Nhưng đó là nhà của cha mà. Tất nhiên là cha có quyền rồi.”
Tôi nín thở, sợ rằng tôi đã đi quá xa.
Nhưng ông chỉ thở dài. “Con hẳn là đã nghĩ như vậy, đúng không?”
Sự ngu ngốc của ông đang giết chết tôi. Tôi muốn hét lên. Tôi nói, “Cha bảo họ đi đi có được không? Bảo họ là cha muốn lấy lại nhà của mình. Bảo họ là bọn con muốn đi học trở lại. Bảo họ là chúng ta không muốn họ ở đây nữa?”
“Không,” cha tôi nói. “Không, cha không thể.”
“Nhưng tại sao?”
Giọng tôi đã đẩy lên đến quãng tám và tôi thấy cha tôi giật mình.
“Cha bảo con rồi mà,” ông gắt lên. “Vì mẹ con. Mẹ con cần họ. Mẹ con cần hắn ta.”
“Hắn ta?” Tôi nói. “David á?”
“Đúng. David. Hắn làm cho mẹ con cảm thấy tồn tại trên đời này bớt vô vị. Hắn giúp cuộc đời mẹ con có ý nghĩa. Giờ thì,” ông gầm lên, tay mở một tờ báo, “con đã bảo là con sẽ không nói gì cơ mà. Con giữ lời được không?”