Chương 21
Miller Roe đứng đợi ở ngoài căn nhà trên phố Cheyne, mắt dán chặt vào điện thoại. Trông anh ta có vẻ còn nhàu nhĩ hơn sáng nay, lúc ở quán cà phê trong hẻm West End. Anh chỉnh trang lại một chút khi thấy Libby và Dido tiến lại gần, miệng anh nở nụ cười.
“Miller, đây là Dido, đồng nghiệp của tôi…” Nói đoạn cô tự sửa lại. “Cũng là bạn tôi. Dido, đây là Miller Roe.”
Họ bắt tay nhau rồi cùng quay mặt về phía ngôi nhà. Cửa sổ của căn nhà sáng rực lên trong ánh nắng chiều.
“Libby Jones,” Dido nói, “khủng thật. Em có hẳn một căn biệt thự.”
Libby cười, quay người mở khóa. Khi bọn họ đứng cạnh nhau trong hành lang và ngó nghiêng quanh ngôi nhà, cô vẫn không có cảm giác gì là mình đã sở hữu nơi này. Cô vẫn đợi có một ông luật sư nào đó xuất hiện, bước phía trước họ đầy uy quyền.
“Giờ thì tôi hiểu ý cô khi cô bảo căn nhà này toàn là gỗ rồi,” Miller nói. “Cô biết không, ngôi nhà này từng là nơi chứa đầy đầu động vật nhồi bông và dao săn. Tôi nghe nói ở đây còn có cả hai cái ngai vàng thật nữa, ngay đây…” Anh chỉ tay vào vị trí hai bên cầu thang. “Một cái cho ông và một cái cho bà,” anh gượng gạo bổ sung.
“Ai kể cho anh nghe về mấy cái ngai vàng?” Dido hỏi.
“Bạn cũ của Henry và Martina, người vẫn thường đến đây dự những bữa tiệc tối linh đình vào những năm bảy mươi và đầu tám mươi. Hồi mà Henry và Martina vẫn còn là socialite. Khi con của họ còn bé xíu. Tôi nghe nói ngày xưa ở đây nguy nga tráng lệ lắm.”
“Vậy mấy người bạn cũ đó,” Dido tiếp lời, “họ ở đâu khi mọi chuyện trở nên tồi tệ?”
“Trời ơi, họ có phải là bạn bè tử tế gì đâu. Họ chỉ là phụ huynh có con học cùng trường, rồi mấy người hàng xóm tạm thời, thêm mấy thành phần phù du đến từ khắp nơi trên thế giới. Không ai thực sự quan tâm đến họ cả. Chỉ có mấy người còn nhớ họ thôi.”
“Và nhớ cả hai cái ngai vàng của họ nữa.”
“Đúng rồi,” Miller cười. “Cả cái ngai vàng nữa.”
“Vậy còn họ hàng của họ thì sao?” Dido hỏi. “Mấy người đó ở đâu?”
“Chậc, Henry không còn ai là họ hàng cả. Ông ấy là con một, cả bố và mẹ đều đã qua đời. Martina bị cha ghẻ lạnh, còn mẹ bà thì tái giá và ở cùng với gia đình chồng mới ở Đức. Tôi cũng có nghe là mẹ Martina muốn sang thăm nhưng Martina cứ từ chối mãi. Bà còn nhờ một đứa con trai sang, năm 1992; ông ấy đến và gõ cửa suốt năm ngày liên tiếp nhưng không ai ra mở cửa. Ông ấy nói ông ấy nghe thấy tiếng động trong nhà, và còn thấy rèm cửa kéo ra kéo vào. Điện thoại trong nhà không đổ chuông. Bà mẹ cứ day dứt mãi, bà cảm thấy tội lỗi vì bà đã không cố gắng tiếp cận con gái mình nhiều hơn. Chưa bao giờ nguôi. Cho phép tôi…?” Anh rẽ sang bên trái, hướng về phía nhà bếp.
Libby và Dido đi theo sau anh ta.
“Đây, đây là nơi trẻ con trong nhà học bài,” anh nói. “Các ngăn kéo tủ đựng đầy giấy, rồi sách giáo khoa, rồi cả sách bài tập nữa.”
“Ai dạy chúng?”
“Cũng không rõ. Nhưng chắc chắn không phải Henry Lamb. Ông ta trượt tất cả các kỳ thi O level và cũng chẳng học lên cao hơn. Tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ của Martina nên chắc cũng không phải bà dạy. Cho nên, chúng tôi nghĩ đó là một trong số ‘những người khác’ bí ẩn kia. Và người dạy rất có thể là phụ nữ.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra với những quyển sách đó?” Libby hỏi.
“Tôi không biết,” Miller nói. “Biết đâu chúng vẫn ở đây.”
Libby hướng mắt về chiếc bàn gỗ lớn ở giữa phòng với hai hàng ngăn kéo ở mỗi bên. Cô nín thở và lần lượt kéo chúng ra. Không có gì cả. Cô thở dài.
“Đấy là bằng chứng của cảnh sát,” Miller nói. “Có thể họ đã tiêu hủy hết rồi.”
“Vậy cảnh sát còn lấy gì làm bằng chứng nữa?” Dido hỏi.
“Áo chùng. Chăn ga gối đệm. Tất cả các đồ dùng bào chế dược phẩm, chai lọ, khay và những thứ mà cô cũng có, như xà phòng, rồi khăn mặt, khăn tắm này. Mấy thứ vải vóc kiểu đấy. Nhưng thực sự, ở đây cũng không có gì nữa cả. Không còn tranh ảnh gì treo trên tường, không đồ chơi, không giày dép.”
“Không giày dép?” Dido hỏi lại.
Libby gật đầu. Đó là một trong những chi tiết gây sốc nhất trong bài báo trên tờ Guardian của Miller. Một căn nhà chật ních người và không có lấy một đôi giày.
Dido nhìn quanh. “Căn bếp này,” cô nói, “hẳn là đỉnh cao của những mẫu bếp thời thượng vào những năm bảy mươi đây.”
“Chẳng phải thế sao?” Miller đồng ý. “Nội thất cũng toàn hàng xịn cả. Hầu như mọi thứ trong nhà, trước khi họ đem bán đi hết, đều được mua ở Harrods. Nhân viên lưu trữ ở bộ phận bán hàng cho tôi xem hóa đơn, mãi từ cái hồi mà Henry mua nhà ấy. Trang thiết bị trong nhà, giường tủ, đèn đóm, xô-pha, quần áo, hoa tươi giao đến nhà hàng tuần, hẹn đi làm tóc, đồ vệ sinh cá nhân, khăn tắm, thức ăn, tất cả mọi thứ.”
“Kể cả cái cũi của tôi.”
“Đúng, kể cả cái cũi của cô. Nếu tôi không nhầm, nó được mua vào năm 1977, khi Henry con ra đời.”
“Vậy tôi là đứa trẻ thứ ba ngủ trong đó?”
“Đúng. Tôi đoán vậy.”
Họ tiến về phía căn phòng nhỏ ở trước nhà và Dido nói, “Vậy giả thuyết của anh là gì? Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra?”
“Tóm lại à? Người lạ chuyển đến sống với gia đình giàu có. Vài điều quái gở xảy ra, mọi người chết hết, ngoại trừ vài đứa trẻ vị thành niên mà từ đó đến nay không ai biết thêm tin tức gì về họ nữa. Và tất nhiên, còn cả đứa bé nữa. Serenity. Rồi người ta tìm được bằng chứng là đã có một người khác nữa sống ở đây. Ai đó trồng khu vườn thảo dược. Tôi dành cả tháng trời theo dõi tất cả những người bào chế thuốc nam từng sống ở London vào thời điểm đó, cả ở Anh và ở nước ngoài. Không thấy gì hết. Không một dấu vết.”
Cả tường lẫn sàn trong căn phòng họ đang đứng đều được ốp gỗ. Trên bức tường phía xa xa có xây một lò sưởi bằng đá rất lớn, còn bên kia tường treo một thanh gỗ gụ.
“Họ tìm thấy một thứ dụng cụ ở đây,” Miller nghiêm túc nói. “Cảnh sát ban đầu nghĩ đó là vật dụng dùng để tra tấn, nhưng hóa ra nó là đồ tập callisthenics tự chế. Hai trong ba nạn nhân có cơ thể rất thon gọn và cơ bắp. Đây rõ ràng là nơi họ tập thể dục. Có thể việc này giúp giảm đi tác hại của việc không bao giờ ra khỏi nhà. Vì thế nên tôi lại dành thêm cả tháng nữa để săn lùng mọi huấn luyện viên callisthenics tôi có thể tìm được, để xem có ai biết về kiểu kỹ thuật tập xà này ở Chelsea những năm tám mươi và đầu chín mươi hay không. Và tất nhiên, vẫn không thấy gì cả.” Anh thở dài, rồi quay ngoắt sang Libby. “Cô đã tìm thấy lối cầu thang bí mật chưa? Dẫn lên gác mái ấy?”
“Rồi, ông luật sư đã chỉ cho tôi khi ông ấy dẫn tôi đến đây.”
“Cô có thấy cái ổ khóa không? Trước cửa phòng ngủ của trẻ con ấy?”
Libby bỗng cảm thấy toàn thân cô như đang run rẩy. “Lúc đó tôi chưa đọc bài báo của anh,” cô nói, “nên tôi không để ý. Và lần trước tôi đến đây…” Cô dừng lại. “Lần đó tôi nghĩ là tôi đã nghe thấy có tiếng ai ở trên đó, tôi sợ quá nên bỏ đi.”
“Vậy chúng ta lên đấy thử xem sao?”
Cô gật đầu. “Được.”
“Trong nhà của cha mẹ tôi cũng có một lối cầu thang bí mật như thế này,” Dido nói, bám chặt lấy tay vịn khi họ bước lên đoạn cầu thang hẹp. “Hồi bé nó luôn làm tôi cảm thấy bất an. Tôi đã từng nghĩ rằng sẽ có một con ma đến và khóa cả hai đầu cầu thang lại, để tôi bị mắc kẹt trong đó mãi mãi.”
Nghe đến đây, Libby tăng tốc, và khi trèo lên đến gác mái, cô đứng thở hổn hển.
“Cô ổn chứ,” Miller hỏi ân cần.
“Mm,” cô lào thào. “Tôi vẫn ổn.”
Anh đặt tay lên tai. “Cô nghe thấy chứ?” anh nói.
“Nghe thấy gì?”
“Tiếng cọt kẹt ấy?”
Cô gật đầu, mở tròn mắt.
“Mấy căn nhà cổ khi trời nóng quá, hay lạnh quá hay có tiếng kêu như thế. Chúng đang than phiền. Đó là tiếng cô nghe thấy hôm trước. Tiếng nhà cô than phiền.”
Cô suy nghĩ không biết có nên hỏi anh xem khi trời nóng nhà có ho không, nhưng cuối cùng lại thôi.
Miller lấy điện thoại từ trong túi ra và hướng ống kính về trước, vừa đi vừa quay phim. “Trời ơi,” anh thì thầm. “Nó đây rồi. Nó đây rồi.”
Anh quay ống kính về phía cửa của căn phòng đầu tiên ở bên trái. “Nhìn đi,” anh nói.
Cả cô và Dido cùng nhìn. Có một cái khóa gắn ở bên ngoài căn phòng. Họ đi theo anh đến căn phòng tiếp theo. Lại thêm một cái khóa nữa. Rồi thêm cái khóa thứ ba, thứ tư.
“Cả bốn phòng, đều khóa ngoài được. Cảnh sát cho rằng đây là nơi trẻ con trong nhà ngủ. Đây cũng là nơi họ tìm thấy vết máu và những vết cào trên tường. Nhìn này,” anh nói, “thậm chí nhà vệ sinh cũng có khoá ngoài. Chúng ta vào thử chứ?”
Tay anh đặt lên tay nắm cửa của một căn phòng.
Libby gật đầu.
Khi cô mới đọc bài báo của Miller, cô lướt qua đoạn viết về những căn phòng trên tầng gác mái, vì những gì được miêu tả trong đó cô nuốt không trôi. Nhưng giờ cô chỉ muốn làm một lần cho xong.
Đó là một căn phòng với diện tích vừa đủ, sơn trắng, điểm chút vàng xung quanh những ván ốp ở dưới chân tường, sàn để trần, rèm trắng rách bươm ở quanh cửa sổ, thêm mấy tấm nệm mỏng ở các góc phòng, ngoài ra không có gì hơn. Căn phòng tiếp theo cũng thế. Và căn phòng sau đó cũng y hệt. Libby nín thở khi họ bước vào căn phòng thứ tư; cô tin rằng đằng sau cánh cửa kia sẽ có một người đàn ông. Nhưng chẳng có người đàn ông nào ở đấy cả, và lại thêm một căn phòng trống rỗng, tường sơn trắng, rèm cửa cũng trắng và sàn để trần. Khi họ chuẩn bị đóng cửa phòng thì Miller dừng lại, quay camera ra tới góc xa nhất trong phòng, hướng ống kính vào tấm nệm.
“Gì vậy?”
Anh tiến gần về phía cái đệm, kéo nhẹ nó ra khỏi góc tường, và phóng ống kính vào thứ gì đó nhét ở bên trong.
“Cái gì vậy?”
Anh nhặt nó lên, đặt nó trước ống kính, rồi kéo nó lại gần. “Một chiếc tất.”
“Một chiếc tất?”
“Đúng vậy. Một chiếc tất đàn ông.”
Chiếc tất có hai màu, đỏ và xanh, một sự phối hợp màu hơi lạ trên cái nền trống trơn của căn phòng gác mái.
“Kỳ cục thật,” Libby nói.
“Còn hơn cả kỳ cục nữa,” Miller nói. “Điều này là không thể. Vì đây, nhìn xem.” Anh quay chiếc tất ra, đưa cho Libby và Dido xem.
Trên tất có logo của Gap.
“Gì cơ?” Dido hỏi. “Tôi không hiểu.”
“Đây là logo hiện tại của Gap,” Miller nói. “Và họ mới chỉ dùng mẫu logo này trong mấy năm gần đây thôi.” Mắt anh không rời mắt Libby. “Chiếc tất này mới.”