Chương 32
Vài tuần sau đó, Sally chuyển ra ngoài. Rồi mấy ngày sau, Birdie chuyển vào phòng của David. Nhưng Justin không chuyển ra ngoài. Ông ta vẫn giữ căn phòng cũ mà ngày xưa ông ta ở cùng với Birdie.
Vụ chơi thuốc lần trước tôi vẫn chưa bị phạt, và Phin cũng vậy. Nhưng rõ ràng là Phin cảm thấy mất mẹ còn kinh khủng hơn bất cứ hình phạt nào mà cha cậu ấy có thể nghĩ được ra. Trước hết, cậu ấy tự trách mình. Sau đó cậu ấy trách Birdie. Phin khinh thường Birdie, và thường gọi cô ta là “nó”. Rồi cậu ấy trách đến cha mình. Và cuối cùng, đáng tiếc là trong tiềm thức, cậu ấy đổ lỗi cả cho tôi. Suy cho cùng, chính tôi là người đã truyền đạt cho cậu điều kinh khủng đó, đưa cho cậu viên đạn thông tin chí mạng, viên đạn mà cậu ấy vô tình bắn ra, làm cuộc hôn nhân của cha mẹ cậu tan vỡ. Nếu tôi không nói cho cậu ấy nghe thì chắc sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra: không đi mua sắm, không phê thuốc, và buổi chiều hôm đó mọi người đã không phải chứng kiến cái cảnh gớm ghiếc khi mà Phin tiết lộ cha cậu ấy là người hôn heo. Và thế là mối liên kết giữa chúng tôi trên mái nhà hôm nọ không phải chỉ phai dần đi nữa, mà đã cháy thành khói độc.
Rất khó để phủ nhận rằng họa này không phải là do tôi tự chuốc vào thân. Tôi nghĩ về những mưu tính trong đầu tôi khi tôi háo hức kể cho Phin nghe, để gây sốc, để tạo ấn tượng, tôi thiếu sự cảm thông, tôi đã không nhận thức được cậu ấy sẽ phản ứng như thế nào, và vâng, tôi cảm thấy có một phần trách nhiệm. Tôi đã phải trả giá cho những hành động của mình, thực sự là như vậy. Bởi vì khi tôi vô tình phá vỡ cuộc hôn nhân của cha mẹ Phin, tôi cũng đã vô tình huỷ hoại toàn bộ cuộc đời của chính mình.
Ngay sau khi Sally chuyển ra ngoài, tôi hay bắt gặp Justin ngồi phân loại hoa và thảo mộc trên chiếc bàn ở ngoài hiên kế bên khu vườn. Việc ông ta chịu ở dưới cùng một mái nhà với cô bạn gái lăng loàn khiến tôi vừa thấy buồn vừa có chút gì đó muốn nổi loạn. Ông ta tỏ ra như không có việc gì xảy ra, vẫn chăm sóc và thu hoạch cây cỏ như trước, rồi nghiền chúng thành bột, và bỏ chúng vào những cái túi vải nhỏ, hay những lọ thuốc nhỏ, trên có gắn mác “Người bào chế thuốc ở Chelsea”. Ông ta vẫn mặc những bộ quần áo cũ, đẩy cái xe cút kít cũ; vẻ mặt không biểu lộ bất cứ khổ đau hay xáo trộn nào ở trong lòng. Tôi tò mò muốn biết trong đầu ông ấy nghĩ gì, vì chính tôi cũng đang cố gắng vượt qua nỗi đau khi mối quan hệ của tôi và Phin kết thúc. Không chỉ có vậy, giờ khi Sally đã bỏ đi, Birdie thì cặp kè với David, cha mẹ tôi cũng dần thu nhỏ lại và tự biến thành cái bóng của chính mình, thì Justin, dù nghe có vẻ lạ, lại trở thành một trong số ít những người bình thường còn sót lại ở ngôi nhà này.
Tôi ngồi xuống đối diện với ông ta, rồi ông ta ngước lên nhìn tôi trìu mến.
“Chào cậu bé. Mọi thứ thế nào rồi?”
“Mọi thứ…” Tôi định nói là mọi thứ vẫn ổn, nhưng rồi tôi nhớ ra là mọi thứ chẳng ổn tí nào. Thế là tôi nói, “không bình thường ạ.”
Ông ta nhìn tôi kỹ hơn. “Chà,” ông nói. “Cái đó thì chắc rồi.”
Chúng tôi im lặng trong giây lát. Tôi nhìn ông ta cẩn thận tách nụ ra từ cành hoa và đặt chúng lên một cái khay.
“Tại sao chú vẫn sống ở đây?” cuối cùng tôi nói. “Khi mà giờ chú và Birdie đã…?”
“Câu hỏi hay đấy,” ông ta nói, không buồn nhìn tôi. Ông đặt thêm một cái nụ nữa xuống khay, xoa hai đầu ngón tay vào nhau, rồi đặt tay lên đùi. “Chú nghĩ, vì kể cả khi chú không ở cùng cô ấy nữa, cô ấy vẫn là một phần của chú? Cháu biết không, cái phần ấy không phải vì tình dục, mà là vì tình yêu, và nó không tự động chết ngay được. Hoặc chí ít, nó cũng không cần phải chết.”
Tôi gật đầu. Điều này chắc chắn đúng với tôi. Mặc dù khả năng cao là tôi sẽ không bao giờ được cầm tay Phin lần nữa, hay có một cuộc hội thoại đúng nghĩa với cậu ấy, điều đó không làm giảm đi tình cảm của tôi dành cho cậu ấy.
“Chú có nghĩ là chú sẽ có cơ hội quay lại với cô ta không?”
Ông ta thở dài. “Ừ,” ông nói. “Có thể có. Mà cũng có thể không.”
“Chú nghĩ gì về David?”
“À.”
Ngôn ngữ cơ thể của ông có chút thay đổi. Ông co hai vai lại, ngón tay đan vào nhau.
“Chú cũng chưa biết phải nghĩ thế nào,” cuối cùng ông nói. “Một mặt chú thấy ông ta rất tuyệt. Nhưng mặt khác…” Ông lắc đầu. “Ông ta làm chú thấy sợ.”
“Vâng,” tôi nói, giọng tôi vang lên to hơn và nhiệt thành hơn tôi dự định. “Vâng,” tôi lặp lại, khe khẽ. “Ông ta cũng làm cháu sợ.”
“Sợ như thế nào mới được chứ?”
“Ông ta rất…” Tôi đưa mắt nhìn lên trời, cố tìm một từ để diễn tả sao cho chính xác. “Nham hiểm.”
Justin phá lên cười giòn giã. “Ha, đúng vậy,” ông nói. “Rất chính xác. Đúng. Nham hiểm.”
“Đây.” Ông ta đưa cho tôi một nắm hoa màu vàng, trông như hoa cúc dại, và một cuộn dây. “Buộc chúng lại thành từng bó nhỏ, quấn dây vào thân ấy.”
“Cây gì đây ạ?”
“Cúc vạn thọ. Giúp làm dịu đi các bệnh ngoài da. Tốt lắm.”
“Thế kia là gì ạ?” Tôi chỉ tay về phía chiếc khay đầy những nụ hoa vàng tí hon.
“Đây là hoa cúc họa mi. Dùng để pha trà. Ngửi mà xem.” Ông ta đưa cho tôi một cái nụ. Tôi đưa lên mũi ngửi. “Thơm đúng không?”
Tôi gật đầu, tay lấy dây quấn quanh mấy nhành cúc vạn thọ, rồi buộc lại thành một cái nơ. “Thế này được chưa ạ?”
“Xuất sắc. Đúng rồi đấy. Mà,” ông ta mở lời, “chú nghe chuyện của cháu và Phin. Mấy tuần trước. Chắc cháu cũng biết, chuyện chơi thuốc ấy.”
Tôi đỏ mặt.
“Này chàng trai,” ông ta nói, “chú không dám động vào bất cứ loại thuốc phiện nào cho đến tận năm chú mười tám tuổi. Giờ cháu mấy tuổi rồi? Mười hai à?”
“Mười ba,” tôi trả lời chắc nịch. “Cháu mười ba tuổi.”
“Trẻ quá!” ông ta nói. “Chú xin ngả mũ kính nể.”
Tôi không hiểu ông có ngụ ý gì. Rõ ràng những gì tôi làm là xấu. Nhưng tôi cười trừ cho qua.
“Cháu biết không,” ông ta nói đầy bí ẩn. “Chú có thể trồng bất cứ loại thảo dược gì ở đây. Gần như là thế. Cháu có hiểu ý chú không?”
Tôi lắc đầu.
“Chú không chỉ trồng những thứ tốt cho cháu. Chú còn có thể trồng cả những thứ khác nữa. Bất cứ thứ gì cháu thích.”
Tôi gật đầu nghiêm túc. Và rồi tôi nói. “Ý chú là trồng thuốc phiện ấy ạ?”
Ông ta cười, bụng rung lên. “Chà, đúng rồi đấy, chú đoán thế. Các loại thuốc tốt.” Ông ta chạm tay lên mũi mình. “Và cả những loại không tốt nữa.”
Ngay lúc đó, cửa sau nhà bật mở. Cả hai chúng tôi quay lại để xem đó là ai.
David và Birdie xuất hiện. Họ vòng tay ra ôm lấy eo nhau. Họ thoáng nhìn về hướng hai chúng tôi, rồi đi ra ngồi ở đầu bên kia của khu vườn. Bầu không khí xung quanh bỗng thay đổi. Giống như vừa có một đám mây bay ngang qua và che đi mặt trời.
“Chú ổn chứ?” tôi thốt lên với Justin.
Ông ấy gật đầu. “Chú ổn.”
Chúng tôi ngồi một lúc trước sự hiện diện của hai con người kia, cảm giác như đang bị một cái chăn trùm kín lên đầu, tán gẫu về các loại cây và thảo dược cùng công dụng của chúng. Tôi hỏi Justin về thuốc độc và ông ấy kể cho tôi nghe về Atropa belladonna, hay còn gọi là bóng đêm chết chóc. Truyền thuyết kể rằng loại cây này đã được dùng bởi những chiến binh của Macbeth để đầu độc quân đội Anh đang tới. Còn cây độc cần được sử dụng để hành quyết Socrates. Justin cũng kể cho tôi nghe về cách sử dụng các loại thảo mộc khiến cho người ta mê đắm, cùng với bùa chú và các loại chất kích dục, như bạch quả.
“Chú học được những điều này ở đâu ạ?” tôi hỏi.
Justin nhún vai. “Từ sách vở là chủ yếu. Vả lại mẹ chú cũng thích làm vườn. Vậy nên, cháu biết đấy, chú lớn lên cùng với đất và hoa cỏ. Thực sự cũng chỉ là… tiến bộ dần dần, thuận theo lẽ tự nhiên thôi.”
Đến thời điểm này, kể từ khi Sally bỏ đi, chúng tôi chưa được học thêm một ngày nào. Mấy đứa trẻ con chúng tôi được tự do chạy nhảy trong nhà, lúc nào cũng cảm thấy chán nản, hoặc bồn chồn. “Đi đọc sách đi,” là điệp khúc mà chúng tôi hay nhận được khi một trong số chúng tôi phàn nàn là không có gì để làm cả. Hay “Làm tính đi.”
Có lẽ chính vì thế mà giờ tôi sẵn sàng học thêm bất cứ thứ gì mới, ngoại trừ những bài tập thể dục quái dị của David và những buổi học chơi đàn violin với Birdie.
“Có loại cây nào có thể khiến ta làm những điều trái với ý muốn của chính mình không ạ?”
“Chà, tất nhiên là có các loại cây gây ra ảo giác, như nấm thần hoặc đại loại thế.”
“Chú có thể trồng những loại cây đấy không?” tôi hỏi. “Trong một khu vườn như thế này?”
“Chú có thể trồng bất cứ thứ gì, ở bất cứ đâu, cậu bé ạ.”
“Cháu giúp chú được không?” tôi hỏi. “Cháu có thể giúp chú trồng các loại cây được không?”
“Được chứ,” Justin nói. “Cháu có thể trở thành tập sự nhí của chú. Sẽ rất vui.”
Tôi không biết đằng sau cánh cửa đáng sợ kia, những lúc chung chăn sẻ gối thì David và Birdie nói những chuyện gì; tôi không thích suy nghĩ quá nhiều về những thứ xảy ra bên kia cánh cửa ấy. Tôi đã nghe thấy những điều mà cho đến tận bây giờ, gần ba mươi năm sau, mỗi khi nghĩ đến tôi vẫn phải rùng mình. Đêm nào ngủ tôi cũng phải lấy gối bịt tai lại.
Vào buổi sáng họ sẽ đi xuống nhà cùng nhau, với vẻ mặt mãn nguyện và trịch thượng. David cuồng si mái tóc dài đến hông của Birdie. Ông ta mân mê tóc cô ta cả ngày. Ông cuốn tóc cô ta vào ngón tay, rồi búi nó lại. Mỗi lần nói chuyện với Birdie, David lại luồn tay vào tóc cô ta, rồi vuốt từ trên xuống dưới, hay xoắn chân tóc cô ta thành từng vòng. Có lần tôi còn nhìn thấy ông ta cầm một lọn tóc lên và đưa đến gần lỗ mũi, rồi hít một hơi thật sâu.
“Tóc Birdie đẹp quá phải không,” một hôm ông ta nói. Ông nhìn sang em gái tôi và Clemency, cả hai đều cắt tóc ngắn ngang vai. “Hai đứa không muốn để tóc dài như thế này à?”
“Các cháu biết không,” Birdie nói, “nhiều tôn giáo coi việc phụ nữ để tóc dài là một điều rất thiêng liêng.”
Mặc dù cả hai đều không theo một tôn giáo nào, David và Birdie nói rất nhiều về tôn giáo khi họ mới hẹn hò. Họ nói về ý nghĩa của cuộc sống, và thực trạng mọi thứ sản xuất ra chỉ để sử dụng vài lần rồi bỏ đi. Họ nói về chủ nghĩa tối giản và phong thủy. Họ hỏi mẹ tôi liệu bà có thấy được không nếu họ sơn lại phòng ngủ của họ màu trắng, và chuyển cái khung giường cổ bằng kim loại của họ ra phòng khác, để họ có thể bỏ nệm xuống dưới sàn. Họ căm thù các loại bình xịt, thức ăn nhanh, thuốc tây, sợi nhân tạo, túi nylon, ôtô và máy bay. Ở thời điểm đấy họ đã bắt đầu nói về biến đổi khí hậu và lo lắng về lượng khí carbon mà họ sẽ thải ra. Nếu nhìn vào viễn cảnh của một ngày tận thế đang đến gần, điển hình như đợt nắng nóng kỷ lục năm 2018, hay đại dương đầy những sinh vật biển nuốt nhầm rác thải nhựa, và những con gấu Bắc Cực trượt ngã trên mặt băng tan, David và Birdie là những người đi trước thời đại. Nhưng trong bối cảnh của những năm 1990, khi thế giới mới chỉ học cách tiếp nhận tất cả những gì công nghệ hiện đại và nền văn hóa vứt bỏ tạo ra, họ là những kẻ dị biệt.
Và rất có thể tôi đã dành cho nỗ lực bảo vệ môi trường của David và Birdie sự tôn trọng nhất định, nếu David không bắt tất cả mọi người phải sống theo ý của ông ta. Chỉ mỗi mình ông ta và Birdie ngủ dưới sàn thôi là chưa đủ. Tất cả chúng tôi đều phải bỏ nệm xuống dưới sàn. Chỉ mỗi mình ông ta và Birdie từ bỏ việc đi ôtô, tránh dùng aspirin và kiêng ăn cá viên chiên là chưa đủ. Tất cả chúng tôi cũng không được đi ôtô, không được dùng aspirin, không được ăn cá viên chiên. Điều mà trực giác đã mách bảo tôi từ mấy tuần trước, khi tôi nhìn thấy David hôn Birdie, đang xảy ra ngay trước mắt tôi. Cô ta đã mở khóa cho một cái gì đấy kinh khủng bên trong David xổng ra, và giờ cô ta muốn David kiểm soát tất cả mọi thứ.
Có vẻ như chúng tôi đã không còn tự do.