PHẦN II - Chương 34
Mẹ tôi là người Đức, cho nên bà rất biết cách tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh thịnh soạn. Đấy là biệt tài của bà. Căn nhà sẽ được trang hoàng từ đầu tháng Mười Hai với những đồ trang trí tự làm bằng cam bọc đường, vải bông kẻ ca rô đỏ, và những quả thông được sơn đủ loại màu. Trong nhà tràn ngập hương bánh quy gừng, bánh stollen ( Loại bánh mì của Đức có mứt khô và chút rươu thơm thướng dùng vào những ngày giáng sinh) và rượu vang nóng ( vin chaud loại rượu đỏ được nấu lên với vỏ cam quít khô, qué và hoa hồi). Nhưng riêng với mẹ tôi thì không có mấy thứ dây kim tuyến hay vòng hoa giấy rẻ tiền, cũng không có hộp kẹo Quality Street hay Cadbury nào hết.
Đến cả cha tôi cũng thích Giáng sinh. Ông có một bộ quần áo ông già Noel mà ông thường mặc mỗi đêm Giáng sinh khi chúng tôi còn nhỏ, và tôi vẫn không giải thích nổi tại sao chúng tôi có thể cùng lúc vừa biết mà lại vừa không biết đó là cha tôi. Đến giờ nhìn lại, tôi thấy có lẽ đó là sự tự lừa dối bản thân, và cũng chính sự tự lừa dối ấy đã làm chúng tôi có những cảm nhận khác về David Thomsen. Người ta có thể nhìn và chỉ thấy một người đàn ông, nhưng cũng trong cùng cái nhìn ấy, họ lại tìm thấy lời giải cho mọi vấn đề của họ.
Cha tôi không mặc bộ đồ ông già Noel đêm Giáng sinh năm ấy. Ông nói giờ chúng tôi đều lớn hết cả rồi, và có lẽ là ông nói đúng. Nhưng ông cũng nói là ông cảm thấy không được khỏe. Mẹ tôi vẫn tổ chức tiệc mừng vào đêm Giáng sinh như bình thường. Chúng tôi ngồi quanh một cây thông Bắc Âu (nhỏ hơn mọi năm) và bóc quà (cũng ít hơn mọi năm), trên nền nhạc của những bài hát Giáng sinh phát ra từ đài radio, và tiếng lửa cháy lách tách trong lò. Khoảng nửa tiếng trước bữa tối, cha tôi nói là ông cần nằm nghỉ một lát, vì ông đau đầu kinh khủng.
Ba mươi giây sau, ông đột quỵ ở trên sàn phòng khách.
Lúc đó chúng tôi không biết là ông đang bị đột quỵ. Chúng tôi cứ nghĩ là ông bị ngất. Hay bị nhồi máu cơ tim. Bác sĩ Broughton, bác sĩ riêng của cha tôi, đến để thăm khám cho ông, trên người vẫn mặc nguyên trang phục Giáng sinh, áo len đỏ cổ chữ V và đeo nơ in hình lá cây nhựa ruồi. Tôi vẫn nhớ nét mặt ông ta khi cha tôi nói rằng ông không có bảo hiểm y tế tư nhân nữa, và thế là ông ta chạy nhanh ra khỏi cửa, vứt bỏ thái độ ngọt xớt của ông ta như vứt một viên gạch. Ông ta gọi xe cấp cứu của Dịch vụ Y tế Quốc gia chở cha tôi thẳng đến bệnh viện, rồi bỏ đi mà không thèm nói lời từ biệt.
Cha tôi về nhà đúng ngày Lễ Tặng Quà.
Họ nói cha tôi giờ đã ổn, chỉ là trong thời gian tới ông sẽ gặp phải một số trở ngại về mặt nhận thức, một số vấn đề liên quan đến dây thần kinh vận động, nhưng não của ông ấy sẽ tự lành, đợi thêm vài tuần nữa ông ấy sẽ trở lại bình thường. Hoặc có thể sớm hơn.
Nhưng, cũng giống như trận đột quỵ đầu tiên, cha tôi không bao giờ bình phục hoàn toàn. Giờ khoảng trống ở trong đó có lẽ còn lớn hơn. Ông sử dụng sai từ. Hoặc ông chẳng tìm được từ nào cả. Cả ngày ông chỉ ngồi trên ghế bành trong phòng ngủ ăn bánh quy, một cách hết sức chậm rãi. Nhiều khi ông cười vào những lúc không thích hợp. Khi khác ông lại chẳng hiểu những điều chúng tôi bông đùa.
Ông di chuyển chậm, ông tránh đi lên đi xuống cầu thang. Và ông không ra khỏi nhà nữa.
Cha tôi càng yếu thì David Thomsen càng tiến tới gần mục đích.
Đến khi tôi bước sang tuổi mười bốn, tháng Năm năm 1991, chúng tôi bắt đầu có những quy tắc. Không phải là những quy tắc thông thường trong gia đình, như không được gác chân lên đồ đạc, hay làm bài tập về nhà trước khi xem ti-vi. Không phải những quy tắc mà chúng tôi vẫn tuân theo từ tấm bé.
Không, giờ chúng tôi có những quy tắc điên rồ, bạo ngược, viết bằng bút dạ đen trên tấm áp phích lớn dán trên tường phòng bếp. Tới tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ những quy tắc ấy:
Không cắt tóc NẾU KHÔNG CÓ sự CHO PHÉP của David và/hoặc Birdie
Không ti-vi
Không mời khách đến nhà NẾU KHÔNG CÓ sự CHO PHÉP của David và/hoặc Birdie
Không phù phiếm
Không tham lam
Không ai được ra khỏi nhà nếu không có sự CHO PHÉP CỤ THỂ của David và/hoặc Birdie
Không thịt
Không dùng các sản phẩm từ động vật
Không dùng đồ bằng da/da lộn/lông cừu/lông vũ
Không dùng hộp nhựa
Mỗi người chỉ được thải ra không quá bốn thứ rác thải một ngày, bao gồm đồ ăn thừa
Không mặc quần áo nhuộm bằng thuốc nhuộm nhân tạo
Không thuốc tây
Không hóa chất
MỖI NGƯỜI được tắm một lần MỖI NGÀY
Mỗi tuần gội đầu một lần
MỌI NGƯỜI TRONG NHÀ phải dành ra ít nhất hai tiếng một ngày tập thể dục với David
TẤT CẢ TRẺ CON TRONG NHÀ phải dành ra ít nhất hai tiếng một ngày tập đàn với Birdie
Tất cả thức ăn phải được chế biến ở nhà, chỉ sử dụng nguyên liệu hữu cơ
Không dùng sưởi bằng điện hay khí đốt
Không la hét
Không chửi thề
Không chạy nhảy
Mới đầu cái danh sách này cũng ngắn thôi, nhưng có nhiều quy tắc được thêm vào giữa chừng, khi càng ngày David càng kiểm soát gia đình tôi chặt chẽ hơn.
Sally, tại thời điểm đó, vẫn thường ghé qua nhà tôi mỗi tuần một hoặc hai lần, để đưa Phin và Clemency đi uống trà. Bà ngủ nhờ trên ghế xô-pha nhà một người bạn ở Brixton và đang cố gắng tìm một chỗ đủ lớn để chứa cả ba mẹ con. Mỗi lần đi chơi với mẹ về là Phin lại càng thêm ủ rũ. Cậu ấy tự nhốt mình trong phòng và bỏ ăn vài bữa. Thực tế có nhiều quy tắc là do Phin mà ra. David không chấp nhận nổi tâm tính thất thường của cậu ấy. Ông ta không chấp nhận nổi chỗ đồ ăn thừa mà cậu ấy bỏ đi, hay cảnh ông ta không mở được cửa phòng Phin bất cứ lúc nào ông ta muốn. Ông ta không chấp nhận nổi bất cứ ai làm bất cứ điều gì trái với thế giới quan của ông ta. Ông ta không chấp nhận nổi những đứa trẻ đến tuổi vị thành niên.
Hai quy tắc mới được thêm vào:
Không khóa cửa
TẤT CẢ các thành viên trong gia đình đều phải có mặt trong TẤT CẢ CÁC BỮA ĂN
Một buổi sáng, không lâu sau lần thứ năm Phin đi chơi với mẹ về và phá vỡ quy tắc “Không khóa cửa”, tôi đi lên trên nhà và thấy David tháo ổ khóa ra khỏi cửa phòng Phin, hai hàm răng ông ta nghiến lại, các khớp ngón tay siết chặt cán tua vít.
Phin ngồi trên giường nhìn cha mình, tay khoanh trước ngực.
Đến giờ ăn tối Phin vẫn ngồi khoanh tay trên giường. David, với vẻ mặt đáng sợ, lẳng lặng lôi Phin—lúc này vẫn đang khoanh tay trước ngực—xuống dưới nhà và quẳng cậu lên ghế.
David đẩy cái ghế vào chỗ và lấy cho Phin một bát cơm trộn bí nấu cà ri. Tay Phin vẫn khoanh trước ngực. David đứng dậy, xúc một thìa cà ri và đút vào miệng Phin. Môi Phin mím chặt. Tôi có thể nghe thấy tiếng thìa cụng vào răng cậu. Bầu không khí trong nhà lúc này khiến ai cũng căng thẳng. Phin, khi ấy, mới mười lăm tuổi rưỡi, nhưng nhìn cậu già dặn hơn rất nhiều. Cậu cao và khỏe. Tình huống này rất dễ thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Nhưng Phin vẫn giữ vững lập trường của mình, mắt nhìn như muốn khoét thủng bức tường đối diện, mặt cậu rắn đanh lại vì tức giận, kiên quyết không ăn.
Cuối cùng David cũng chịu thua, từ bỏ việc đút cơm vào miệng con trai mình và ném cái thìa sang một bên, xốt cà ri bắn lên, để lại một vệt vàng hình trăng lưỡi liềm xấu xí trên tường, cái thìa rơi xuống đất choang một tiếng chói tai.
“Đi về phòng!” David hét lên. “Ngay lập tức!” Mạch máu trên thái dương ông ta giần giật. Cổ ông ta căng ra, tím ngắt lại. Tôi chưa từng thấy một ai sôi máu lên vì giận như David lúc này.
“Rất sẵn lòng,” Phin rít lên.
Và rồi bàn tay của David xuất hiện; sau đó, gần như một thước phim quay chậm, khi Phin bước ngang qua, tay ông ta đập thẳng vào đầu cậu ấy. Phin quay lại; mắt cậu nhìn thẳng vào mắt cha mình, và tôi thấy sự thù hằn hiện rõ giữa cha con họ.
Phin vẫn tiếp tục bước đi. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân của cậu ấy bước lên cầu thang, đều đều, từng bước một. Có ai đó hắng giọng. Tôi thấy Birdie và David liếc mắt nhìn nhau. Ánh mắt của Birdie, dằn vặt và bất bình, như thể muốn nói, Anh đang mất bình tĩnh. Làm gì đó đi chứ. Ánh mắt của David, tối tăm và giận dữ, như thể muốn nói, Anh đã tính hết cả rồi.
Khi bữa ăn tối hôm đó kết thúc, tôi lên phòng Phin.
Cậu ấy ngồi trên giường, đầu gối co lên sát cằm. Cậu liếc lên nhìn tôi. “Gì thế?”
“Cậu ổn không?”
“Thế cậu nghĩ sao?”
Tôi nhích vào trong phòng thêm mấy bước. Tôi đợi cậu ấy đuổi tôi đi nhưng cậu ấy không làm thế.
“Lúc ông ta đánh cậu, cậu có đau không?” tôi hỏi.
Dù không được bình thường cho lắm, nhưng cha mẹ tôi chưa bao giờ đánh tôi. Tôi còn không thể tưởng tượng ra nổi điều ấy.
“Cũng không đau lắm.”
Tôi tiến lại gần hơn.
Rồi đột nhiên Phin ngước lên nhìn tôi, ánh nhìn ấy. Cậu ấy đã nhìn tôi. Đúng nghĩa.
“Tớ không thể ở đây được nữa,” cậu vừa nói vừa lắc đầu. “Tớ phải thoát ra khỏi đây.”
Trái tim tôi lỡ một nhịp. Phin là điều duy nhất khiến tôi cảm thấy sự tồn tại của tôi có ý nghĩa.
“Cậu định đi đâu?”
“Tớ không biết. Sang ở với mẹ tớ.”
“Nhưng…”
Tôi định nói là mẹ của cậu ấy còn đang ngủ nhờ trên ghế xô-pha ở Brixton. Nhưng cậu ấy cắt ngang. “Tớ không biết, được chưa? Tớ chỉ biết là tớ cần phải thoát ra khỏi nơi này. Tớ không thể ở đây thêm được nữa.”
“Vậy khi nào?”
“Ngay bây giờ.”
Cậu ấy nhìn tôi qua hàng mi dài đến phi lý của mình. Tôi cố đọc những biểu cảm trên khuôn mặt cậu. Tôi cảm nhận được sự thách thức.
“Vậy cậu… Liệu tớ… có nên đi với cậu không?”
“Không! Mẹ kiếp. Không.”
Tôi thu mình lại. Không. Tất nhiên là không rồi.
“Vậy tớ nên nói gì? Nếu người lớn hỏi.”
“Không gì cả,” cậu rít lên. “Không gì cả. Đừng nói gì.”
Tôi gật đầu, mắt mở to. Tôi nhìn cậu ném đồ vào trong cái túi có dây rút: quần và tất, một cái áo phông, một quyển sách, bàn chải đánh răng. Cậu ấy quay lại và thấy tôi đang nhìn cậu.
“Đi đi mà,” cậu nói. “Làm ơn.”
Tôi rời khỏi phòng Phin và từ từ đi ra cầu thang phía sau, rồi tôi ngồi ở bậc thứ ba từ trên xuống, đóng hờ cánh cửa phía trên cầu thang lại, và qua đấy tôi nhìn Phin biến mất qua cửa sập trên tầng gác mái với cái túi của cậu. Tôi không hình dung nổi cậu đang làm gì hay cậu đang đi đâu. Trong giây lát tôi đã nghĩ có thể cậu ấy định sống trên mái nhà. Nhưng dù giờ đã là tháng Năm, trời vẫn còn lạnh, và chắc kế hoạch ấy không khả thi. Rồi tôi nghe thấy tiếng ai đó vật lộn ở bên ngoài, và thế là tôi lao ngay vào phòng ngủ của Phin, khum tay đặt lên tấm kính cửa sổ mái nhà, và nhìn ra phía sau vườn. Cậu ấy kia rồi: băng qua khu vườn vào trong những bóng cây tối đen như mực. Và bỗng nhiên cậu ấy biến mất.
Tôi quay mặt về phía căn phòng trống. Tôi lấy gối của cậu rồi áp vào mặt. Tôi hít hà mùi hương của cậu.