Chương 59
Tôi biết mọi chuyện nghe có vẻ như một thảm họa khủng khiếp. Tất nhiên là như thế rồi. Bất kỳ tình huống nào liên quan đến bốn cái xác chết đều không thể coi là một kết quả lý tưởng được.
Nhưng có điều mà dường như không ai nhận ra, là nếu không có tôi, lạy Đấng cứu thế toàn năng, thì tất cả chúng tôi có thể vẫn mắc kẹt trong ngôi nhà đấy, như những bộ xương trung niên, và bỏ lỡ cả tuổi thanh xuân của mình. Hoặc có khi chết rồi cũng nên. Đúng vậy, đừng quên là chúng tôi có thể đã chết ở trong căn nhà ấy. Và vâng, đúng vậy, mọi chuyện không đi đúng theo kế hoạch, nhưng ít nhất là chúng tôi cũng đã thoát được ra. Chúng tôi đã thoát được ra. Và cũng có ai có kế hoạch nào khác đâu, đúng không? Đâu có ai xung phong đứng lên làm đầu tàu. Chỉ trích thì dễ thôi. Chỉ huy mới là khó.
Không những tôi phải giải quyết bốn cái xác chết, thêm một đứa trẻ sơ sinh, hai đứa con gái tuổi teen, mà tôi còn phải xử lý cả Phin nữa. Nhưng đầu óc Phin có vẻ không được tỉnh táo, và lúc này cậu ấy chẳng khác gì một cục nợ cả, thế nên để mọi thứ dễ dàng hơn, tôi nhốt cậu ấy vào phòng.
Vâng, tôi biết. Nhưng tôi cần thời gian để suy nghĩ.
Chúng tôi nghe thấy tiếng Phin gào khóc trong phòng cậu ấy ở trên tầng. Mấy đứa con gái muốn lên với cậu ấy, nhưng tôi nói, “Không, ở yên đây. Chúng ta cần phải hợp tác với nhau. Đừng đi đâu cả.”
Việc đầu tiên tôi cần giải quyết là Birdie. Thật kỳ lạ khi được nhìn thấy cô ta như thế này, nhỏ bé và bầm dập, vậy mà đây cũng chính là người đã kiểm soát cuộc đời chúng tôi suốt bao nhiêu lâu nay. Cô ta đang mặc cái áo mà Clemency may tặng nhân dịp sinh nhật, cùng sợi dây chuyền David đưa cho cô ta. Mái tóc dài của cô ta quấn lại thành một búi. Đôi mắt nhợt nhạt của cô ta nhìn chằm chằm vào bức tường. Một bên nhãn cầu của cô ta đỏ rực lên. Chân cô ta để trần và xương xẩu, móng chân dài và hơi vàng. Tôi tháo sợi dây chuyền của cô ta ra và đút vào túi.
Clemency đang khóc. “Thật đáng buồn,” con bé nói. “Thật đáng buồn! Cô ấy là con gái của một ai đó! Và giờ thì cô ấy chết rồi!”
“Chẳng đáng buồn chút nào cả,” tôi buông lời gắt gỏng. “Cô ta chết là đáng.”
Tôi và Clemency vác cô ta lên tầng áp mái và sau đó là lên mái nhà. Cô ta rất nhẹ. Ở phía bên kia mái bằng, nơi tôi đã từng ngồi nắm tay Phin, có một cái máng nước. Ở trong máng có đầy lá khô, và từ đấy dẫn đến một cái ống thoát nước chạy xuống bên hông nhà. Chúng tôi quấn cô ta lại trong khăn tắm và ga trải giường, rồi nhét cô ta xuống đó. Sau đó chúng tôi lấy lá khô phủ lên, cùng mấy miếng giàn giáo cũ chúng tôi tìm thấy được ở trên mái.
Xong xuôi tôi đi xuống bếp và thản nhiên nhìn ba cái xác chết. Tôi không thể để những gì đã xảy ra cứ níu kéo tâm trí mình mãi. Tôi giết chết chính cha mẹ mình. Người mẹ xinh đẹp, ngu ngốc của tôi, và người cha đáng thương, suy nhược của tôi. Tôi phải tự tránh xa sự thật rằng vì tôi mà mẹ sẽ không bao giờ vuốt tóc tôi và gọi tôi là cậu bé đẹp trai của mẹ được nữa, rằng tôi cũng sẽ không bao giờ được ngồi ở trong câu lạc bộ nhìn cha tôi im lặng uống nước chanh. Ngày Giáng sinh tôi sẽ không còn gia đình để mà đoàn tụ, sau này nếu tôi có con thì con tôi cũng sẽ không bao giờ được gặp ông bà, tôi cũng sẽ chẳng có ai để mà săn sóc lúc tuổi già, và cũng sẽ chẳng có ai lo lắng cho tôi khi tôi già đi. Tôi là một đứa trẻ mồ côi. Một đứa trẻ mồ côi, và một kẻ giết người vô ý.
Nhưng tôi không hoảng loạn. Tôi tự kiểm tra cảm xúc của mình, nhìn ba cái xác nằm dài trên sàn và tôi nghĩ: Trông họ giống như những thành viên của một giáo phái. Tôi nghĩ: Ai bước vào đây lúc này cũng sẽ nhìn những chiếc áo choàng màu đen họ đang mặc và nghĩ là họ đã tự tử.
Và rõ ràng đó là điều tôi cần làm. Tôi cần dàn cảnh một vụ tự tử tập thể. Chúng tôi sắp xếp lại những đồ dùng cá nhân của họ để hiện trường trông giống “một bữa tối cuối cùng” hơn là một “bữa tiệc sinh nhật mừng tuổi ba mươi phù phiếm”. Chúng tôi bỏ mấy cái đĩa thừa đi. Chúng tôi rửa nồi niêu xoong chảo và vứt đống đồ ăn thừa. Chúng tôi đặt lại ba cái xác về cùng một hướng. Tôi ấn dấu vân tay của họ vào những lọ rỗng, đặt từng lọ lên bàn, rồi sắp xếp như thể họ đã uống cả ba chai thuốc độc cùng một lúc.
Chúng tôi không nói gì.
Tôi cảm thấy linh thiêng đến lạ.
Tôi hôn má mẹ tôi. Người bà rất lạnh.
Tôi hôn lên trán cha tôi.
Và rồi tôi nhìn David. Ông ta nằm ở đó, đúng như Phin dự đoán nhiều tháng trước đó, người đàn ông này đã khiến cho cuộc đời tôi trở nên tan nát. Người đàn ông này đã hủy hoại tất cả chúng tôi, đánh chúng tôi, không cho chúng tôi ăn, cướp đi tự do của chúng tôi, lấy hộ chiếu của chúng tôi, làm mẹ tôi và em gái tôi có bầu, và cố chiếm đoạt căn nhà của chúng tôi. Tôi đã kết thúc sự tồn tại đáng khinh của ông ta và tôi cảm thấy hân hoan vì mình đã chiến thắng. Nhưng tôi cũng tự cảm thấy ghê tởm khủng khiếp.
Nhìn ông mà xem, tôi những muốn nói, cứ nhìn ông mà xem, cuối cùng thì trông ông có khác gì một thằng thất bại không.
Tôi muốn đạp chân lên mặt David và nghiền nát nó ra thành một cục bột đầy máu, nhưng tôi cố kháng cự niềm thôi thúc ấy lại và đi lên phòng của David và Birdie.
Chúng tôi dọn tất cả chỗ hộp ở trong phòng. Trong một cái hộp, chúng tôi tìm thấy một chồng túi rút dây ngu ngốc mà Birdie đã làm để mang ra chợ Camden bán, và chúng tôi nhồi nhét vào trong đó nhiều đồ đạc nhất có thể. Chúng tôi tìm thấy gần bảy nghìn bảng Anh tiền mặt và chúng tôi chia ra thành bốn. Chúng tôi cũng tìm thấy trang sức của mẹ tôi, khuy măng sét bằng vàng, lót cổ áo bằng bạch kim và một hộp đựng đầy rượu whiskey của cha tôi. Chúng tôi đổ chỗ rượu whiskey xuống bồn rửa và đặt những cái chai rỗng cạnh những chai rượu sâm-panh rỗng ở trước cửa. Chúng tôi cho trang sức vào trong túi. Rồi chúng tôi cắt những chiếc thùng các-tông ra và xếp chúng thành một chồng.
Sau khi căn nhà đã chẳng còn bất cứ thứ gì để khiến ai đó nghi ngờ rằng đây không phải một giáo phái, chúng tôi lẳng lặng bỏ đi, từ cửa trước, ra đến dòng sông. Giờ cũng đã tờ mờ sáng rồi. Khoảng ba giờ gì đó. Có vài chiếc xe chạy qua, nhưng không có ai chạy chậm lại hay để ý gì đến chúng tôi. Chúng tôi đứng trước sông, ngay ở chỗ mà cuộc ẩu đả giữa tôi và Phin đã xảy ra mấy năm trước, để cuối cùng tôi bị rơi xuống và nhìn thấy ma quỷ dưới làn nước tối om. Tôi cảm thấy đủ bình tĩnh để trân trọng sự tự do của mình sau hai năm. Sau khi nhét những chiếc chai rỗng, cái quần lót lụa, mấy chai nước hoa, và những bộ váy dạ hội của mẹ tôi vào trong một cái túi đựng thêm đá và vứt xuống sông, chúng tôi đứng ở đó một lúc. Tôi nghe thấy tiếng lũ chúng tôi đang hít thở, trong chốc lát, vẻ đẹp cùng sự bình yên của giây phút này đang làm lu mờ đi những nỗi kinh hoàng đã xảy ra. Làn không khí bốc lên từ dòng sông đen kịt đặc quánh mùi dầu, tràn đầy sinh lực. Nó có mùi như tất cả những gì chúng tôi đã bỏ lỡ kể từ thời điểm David Thomsen bước chân vào nhà chúng tôi, từ ngày ông ta và gia đình ông ta chuyển đến sống ở lầu trên.
“Ngửi đi,” tôi nói, quay sang hai đứa con gái. “Cảm nhận đi. Chúng ta làm được rồi. Chúng ta thực sự làm được rồi.”
Clemency thầm khóc. Con bé sụt sịt, lau đầu mũi bằng mu bàn tay. Nhưng tôi có thể thấy là cả Lucy cũng cảm nhận được điều đó, cảm nhận được sức mạnh của những gì chúng tôi vừa làm.
Và nếu không phải vì cháu, Serenity, thì mẹ cháu đã yếu đuối hơn rất nhiều. Con bé sẽ ngồi khóc thương cho mẹ mình, xì mũi vào lòng bàn tay như Clemency. Nhưng vì Lucy có cháu, con bé hiểu là còn có nhiều điều quan trọng hơn cái danh nghĩa là đứa con yêu quý của cha và mẹ. Cằm mẹ cháu hất lên, dũng cảm, gần như nổi loạn. Tôi rất tự hào về mẹ cháu.
“Chúng ta sẽ ổn thôi,” tôi nói với con bé. “Em biết điều đó, phải không?”
Con bé gật đầu và chúng tôi đứng ở đấy thêm một hai phút nữa, cho đến khi chúng tôi nhìn thấy ánh đèn của một con tàu lai dắt đang hướng về phía chúng tôi. Chúng tôi lao đi, phóng qua đường và trở về nhà.
Và đó là khi điều ấy xảy ra.
Clemency chạy mất.
Con bé không đi giày. Chỉ có mỗi tất mà thôi. Chân nó to nên không đi vừa những đôi giày cũ của mẹ tôi mà Birdie đã giữ lại, còn giày của David thì lại to quá.
Trong giây lát, tôi đã nhìn con bé chạy. Tôi để một hai phút do dự không biết nên làm gì trôi qua, sau đó tôi rít lên với Lucy: “Chạy ngay vào trong nhà, chạy ngay vào trong nhà.” Và sau đó tôi quay gót đuổi theo Clemency.
Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra những gì tôi đang làm chỉ gây thêm sự chú ý. Có vài cái bóng đang lang thang trên phố: hôm đó là tối thứ Năm, những người trẻ đang đi về nhà từ những chuyến xe buýt đêm trên phố King’s Road. Tôi biết giải thích thế nào cơ chứ, khi tôi đang mặc áo chùng đen, đuổi theo một cô gái trẻ cũng mặc áo chùng đen nốt, đang trong trạng thái sợ hãi, chân lại không mang giày?
Tôi dừng lại ở góc phố Beaufort. Tim tôi, vốn đã không quen với việc chạy từ rất lâu rồi, đập thình thịch dưới lồng ngực của tôi như một quả pít tông, đến nỗi tôi nghĩ là tôi sắp nôn ra đến nơi. Tôi đổ sụp xuống, nghe tiếng không khí đi ra rồi đi vào cơ thể mình như một con vật nuôi bị bóp cổ. Tôi quay lại và từ từ đi về nhà.
Lucy đang đợi tôi ở hành lang. Cháu đang ngồi trong lòng con bé, bú sữa mẹ. “Bạn ấy đâu rồi?” con bé hỏi. “Clemency ấy?”
“Đi rồi,” tôi nói. vẫn thở hổn hển. “Nó đi mất rồi…”