← Quay lại trang sách

Tản Cư

Thúy ngồi khâu ở trên ổ rơm kê sát vách, vì rét nên Thúy ngồi xếp chân bằng tròn, bên cạnh có một chiếc thúng nhỏ đỏ đựng những kim chỉ lặt vặt. Nàng chăm chú khâu, nhưng thỉnh thoảng lại ngừng tay, kéo lại chăn đắp cho Thanh, đứa con trai năm tuổi nằm bên, mỗi khi nó trở mình.

.

Có tiếng súng, và như cả tiếng bom vọng tới, làm Thúy giật mình; nhìn sang chiếc giường nan kê ở gian giữa, vẫn thấy Phong nằm chùm kín chăn. Thúy gọi gắt:

– Anh Phong, dậy đi không, trưa nửa ngày rồi.

Phong đã thức giấc, nhưng vì rét nên anh cứ nằm yên. Nghe tiếng vợ gọi, anh trả lời ở trong chăn:

– Dậy làm gì cơ chứ, rét bỏ đời đi ấy.

– Thì cũng phải dậy ra ngồi bàn tính làm ăn chứ, sốt ruột lắm!

Phong tung chăn ngồi lên, vươn vai ngáp rồi nói:

– Nào thì dậy, rét chết người, chẳng có việc gì cũng bắt dậy.

Rửa mặt xong, anh quấn lại chiếc khăn len ở cổ, hai tay sát vào nhau, miệng xuýt xoa chạy đến ngồi bên Thúy hỏi:

– Sao mình dậy sớm thế?

– Để khâu cho xong đi, còn nhận cái khác. Chiều bữa qua chị xã Tèo lại đưa thêm hai cái quần nữa. Khiếp! Vải mo nang cả, kim đâm không thủng. Nhận của các bà ấy hai đồng bạc công một cái quần, dũi (may) cả ngày mới xong, chốc một lại gẫy kim, bực cả mình.

– Thế mình đã có nghề rồi, mỗi ngay hai đồng, đủ gạo ăn còn lo gì nữa mà lúc nào cũng kêu! Thôi, bây giờ mình cứ việc ngồi khâu cả ngày, để tôi thổi cơm giặt quần áo cho.

Thúy lườm chồng gắt:

– Tháng này là tháng Tết nên mới có người đưa khâu, chứ ra Giêng ai người ta còn may mặc gì, tôi lại sinh đẻ thì làm thế nào?

Ngừng lại mấy phút, Thúy ngửng lên môi mấp máy định nói, nhưng trông thấy nét mặt Phong nghiêm trang, có vẻ tư lự, nàng lại thôi rồi cúi xuống khâu. Bỗng Phong cất tiếng:

– Thúy này, tôi định vẽ tranh trẻ con chơi Tết, rồi Thúy đem đi các chợ bán, chắc ăn thua.

Vừa nói Phong vừa đi lại bàn thờ, lôi hộp thuốc vẽ ở gầm ra, ngồi xuống soạn bút thuốc, rồi tiếp:

– Nào, bây giờ còn bảo tôi chạy những đồ vô dụng nữa hay thôi? Nay mai tôi mà đi vẽ truyền thần cho cụ Chánh, cụ Bá, lại không vô số tiền à?

Thúy nhại:

– Ừ, vô số tiền. Nào bây giờ anh ngồi vẽ ở đâu?

Phong ngửng lên, thấy Thúy đang khệ nệ mang cái bàn, anh hốt hoảng đứng lên đỡ và gắt:

– Để đấy cho người ta, bụng bằng cái thúng mà còn khuân với vác, định chết à?

Lúc này Thanh cũng đã dậy. Nó đi ra chỗ bố mẹ, ngơ ngác không hiểu hai người làm gì. Nó đến gần Thúy hỏi:

– Mợ ơi, lại chạy nữa hở mợ?

– Không! Kê bàn cho ba vẽ tranh bán đấy.

Rửa mặt cho con xong, Thúy dắt Thanh xuống bếp. Cả hai mẹ con cùng ngồi xuống. Thúy nhặt khoai nàng đã luộc sẵn từ sớm ở trong nồi ra cái rổ, rồi chọn một củ bóc vỏ đưa cho Thanh.

– Ăn đi, củ này ngon.

Thanh cầm lấy đưa lên miệng cắn một miếng nhỏ, xong nó đưa lại cho Thúy và lắc đầu.

– Sao không ăn, Thanh?

– Con không thích ăn, chốc nữa con ăn cơm.

– Chốc nữa cũng không có cơm, con ạ. Chiều mới thổi, bây giờ chỉ ăn mỗi ngày một bữa thôi.

– Sao lại ăn một bữa, hả mợ?

– Tại chiến tranh, chạy tản cư về đây, không có tiền đong gạo.

Thanh không hiểu nghĩa chữ “chiến tranh” là gì, nhưng nó thấy mặt mợ nó rầu rầu, và vẻ lo lắng của những người lớn chung quanh nó, mỗi khi nói đến truyện “chiến tranh” bất giác nó nhớ đến cả truyện ma quỷ, và yêu tinh ngày trước do vú em nuôi nó vẫn thường kể cho nó nghe vào những lúc nó khóc. Tự nhiên nó ôm lấy cổ Thúy, nói:

– Mợ ơi, con sợ chiến tranh lắm.

Thúy không trả lời con, nàng đứng đậy dắt tay Thanh cầm rổ khoai ra chỗ Phong đang ngồi vẽ, gọi:

– Anh Phong ăn khoai đã.

– Ăn khoai à?

Phong đặt bút, nhìn vào rổ khoai ngần ngừ một lát, cầm lấy một củ, bóc vỏ ăn uể oải, rồi hỏi:

– Thúy thích ăn khoai à?

– Ai thích, nhưng cũng phải ăn chứ! Chạy tản cư chẳng làm gì ra tiền mà cứ ngày hai bữa thời lấy đâu?

– Sao lại không làm ra tiền? Tôi đang vẽ tranh bán, mình đang khâu thuê.

Thúy ngắt lời:

– Mình chẳng biết lo xa tí nào. Hôm nay đã mười lăm mười sáu tháng chạp rồi, hết Tết ai còn đưa may quần áo và mua tranh pháo làm gì nữa.

Phong nhìn vợ, anh khe khẽ thở dài. Trong một giây, mọi nỗi lo lắng tràn vào lòng anh. Miếng khoai anh đang nhai trong mồm càng thấy khô bứ. Sau một cái nuốt mạnh, anh gượng cười nói:

– Ối dào, trời sinh voi, trời sinh cỏ, lo gì.

Ăn xong củ khoai, Phong đưa tay định cầm củ nữa, nhưng anh ngừng lại, hỏi Thúy:

– Ăn khoai rẻ bằng bao nhiêu ăn cơm?

– Bằng nửa.

– Thế từ mai Thúy …cứ nấu cơm, nấu rút đi nửa gạo. Mọi khi tôi ăn ba bát, bây giờ chỉ ăn bát rưỡi thôi. Chứ ăn khoai vừa bứ vùa ngọt, cả hai thứ tôi đều ghét cả. Đói thế mà ăn không được no.

Thúy yên lặng, mắt chớp mau mấy cái, cúi xuống. Thanh lúc đó đang ngồi trên lòng, nàng thủ thỉ nói với con:

– Cả chú Thanh cũng không thích nhỉ! Mà mợ cũng có thích đâu.

Thoáng nghe vợ nói, anh se cả lòng. Anh hối hận đã phàn nàn với Thúy vì phải ăn khoai. Anh đăm đăm nhìn Thúy. Chiếc quần đen và chiếc áo cánh nhuộm màu nâu Thúy đang mặc lúc này, càng làm Phong nhận thấy rõ sự gian nan trong đời sống tản cư. Nhưng cái áo len cộc tay màu “ghi” Thúy mạc ra ngoài chiếc áo cánh nâu, vẫn còn giữ được vẻ trang nhã, cũng như làn tóc búi gọn sau gáy, và gương mặt trái soan có nước da xanh mát của Thúy vẫn còn ghi vẻ thanh lịch của tỉnh thành. Phong thấy lòng buồn nao nao, nhớ tiếc ngày chưa xẩy ra chiến tranh. Cùng lúc, Thúy cũng ngửng lên nhìn Phong. Hai cái nhìn đầy thương cảm gặp nhau. Tự nhiên, hai người cùng ngượng.

Phong cúi xuống cầm bút vẽ loay hoay. Thúy đặt con xuống vào buồng lấy đồ khâu ra ngồi khâu gần chỗ Phong. Thanh chơi tha thẩn một mình. Được một lát, nó chạy lại bên Thúy nắm lấy áo nàng, giật giật và nói khẽ:

– Mợ ơi, con đói.

Thúy ngừng tay khâu, mắt nhìn vào rổ khoai hãy còn nhiều, rồi thở dài đứng lên:

– Nào, để mợ đi thổi cơm.

Phong đặt bút vẽ và cũng nhìn vào rổ khoai, hàm răng trên cắn mạnh lên môi dưới. Anh nhìn ra ánh nắng ở ngoài sân rồi bảo vợ:

– Hãy còn sớm, Thúy ạ.

– Ăn sớm một chút, vì chiều còn phải thổi cơm nắm để mai sang chợ Cống.

– Thế để tôi đi hái rau má.

– Để tôi hái cũng được, anh vẽ cố đi mai còn lấy tranh bán.

Thúy đã cầm rổ ra tới cổng, Phong còn dặn với:

– Ra bờ ao ở cuối làng đó, Thúy ạ. Chỗ ấy có nhiều mà chưa ai biết, chứ bờ đê bọn “Tiến – Thịnh” nó hái nhẵn rồi.

Và anh lẩm bẩm một mình:

– Cái bọn bần tiện, chạy được bao nhiêu tiền bạc mà còn hà tiện đi hái rau bờ đường ăn tranh hết cả phần của những người túi rỗng!

Một giờ sau, Thúy đã nấu chín cơm. Trên mâm gõ đặt một bát rau má luộc, một chén tương và một bát nước “xốt” cà chua chưng lên với muối. Trong lúc Phong rửa tay, Thanh đã ngồi chăm chăm đợi Thúy xới cơm ăn. Thúy xới xong đặt vào chỗ Phong và Thanh.

Lúc cầm đến bát để xới cho mình, Thúy thấy trong nồi chỉ còn độ hai bát nữa, nàng ngần ngừ đặt bát xuống, ra lấy rổ khoai ngồi ăn trước.

Mấy phút sau, Phong vào. Tuy trời đã có nắng, không rét lắm như hồi sớm, nhưng anh cũng xuýt xoa, hai bàn tay xát mạnh vào nhau. Ngồi vào mâm, anh ăn một cách ngon lành. Anh gắp từng gắp rau thật to, đặt vào bát và lẫn với một ít cơm. Vị rau má hơi đăng đáng, vị tương ngọt đậm, và mùi cơm gạo đỏ mới thơm ngọt làm sao! Anh cười, nói đùa:

– Nếu không có chiến tranh, chạy tản cư, thời bao giờ mình được ăn bữa cơm quý thế này.

Anh ngừng ngay lại, lúc này anh mới chợt nhận thấy Thúy vẫn chỉ ăn khoai. Anh và nốt miếng cơm còn lại trong bát xong đặt đũa xuống.

Thuý hỏi chồng:

– Kìa! sao lại thôi, hãy còn cơm.

– No rồi, mà mình đã ăn đâu.

Thúy cười nhưng mắt đã hoe đỏ, nàng cố làm ra vui vẻ bảo Phong:

– Đưa bát xới thêm cơm. Tôi ăn khoai no rồi, anh chẳng phải giữ phần cho tôi.

Hai vợ chồng còn đang nhường nhau thì Thanh đưa bát đòi ăn nữa làm hai người nhìn nhau và cùng bật cười. Thúy cười to nhưng không biết có phải vì cười mà đến chảy nước mắt không. Nàng vừa đưa tay lên gạt nước mắt, vừa nói với Phong:

– Nó đã ăn gần hết bát rồi đấy. Chỉ độc có nước “xốt” cà chua mà cậu ta xơi tợn thế. Chả bù với những lúc cơm giò, chả, thời chẳng buồn ăn.

Phong không trả lời vợ, anh im lặng đứng lên ra ngồi ở bực cửa nhìn ra sân. Trời tuy nắng nhưng thỉnh thoảng vẫn có những con gió lạnh, làm xao động khóm tre phía đầu nhà. Đằng trước sân có một bức tường đất, mái lợp rạ, đó là nhà bếp bên cụ Bá. Từ đó vọng lại tiếng giã gạo thình thịch, chậm và đều, như càng làm tăng thêm vẻ buồn và yên tĩnh của trưa mùa rét ở đồng quê. Phong khẽ nhắm mắt lại. Tất cả hình ảnh yên ổn ấm áp ở trong cảnh nhà xinh xắn dưới ánh đèn điện anh đã sống với Thúy và Thanh, hiện rõ trong trí, cùng sự lo lắng cho cảnh sống hiện tại. Bụng Thúy đã to lắm rồi, tháng sau đã đẻ. Làm thế nào? Phong thở dài, tặc lưỡi:

– Ối dào, trời sinh voi, trời sinh cỏ. Lo gì, mình đi vẽ truyền thần kia mà.

Suốt từ tối, Thúy nằm nhưng không dám ngủ say: nàng thao thức chỉ sợ lỡ mất buổi chợ Cống, mặc dầu Thúy đã hẹn cô Vượng lúc nào đi chợ thì gọi Thúy cùng đi. Mấy lần Thúy đã chợp ngủ, nhưng chỉ một lát lại giật mình choàng dậy, tưởng như đã ngủ một giấc dài lắm. Mắt nhắm, mắt mở nhìn vào chiếc đồng hồ để bên ngọn đèn dầu hạt đỗ, thấy hãy còn sớm, nàng đi nằm lại. Cứ như vậy cho tới lúc nghe ở ngoài ngõ có tiếng chó sủa và tiếng Vượng gọi nheo nhéo. Thúy bật ngồi dậy, tuy mắt hãy còn cay đến nỗi chưa thể mở ngay ra được, nàng vội đáp:

– Đây rồi! Đợi một lát cô Vượng nhé.

Vừa nói Thúy vừa xỏ chân vào đôi guốc, ra vặn to ngọn đèn dầu, với chiếc áo dài bông vắt sẵn trên thành ghế mặc vội vàng, bới qua loa mớ tóc, rồi khoác cái bị trong có một nắm cơm, một gói muối vừng và mấy thứ lặt vặt khác. Cố nhiên là Thúy không quên cuốn tranh mà Phong đã công phu vẽ hôm trước. Lúc này Phong cũng đã thức giấc, anh trông đồng hồ mới có hai giờ đêm, anh nói sau một cái thở dài:

– Khổ! Phải đi sớm quá! Từ đây sang chợ Cống dễ đến hai mươi cây số đấy nhỉ?

– Không biết, tôi chưa đi bao giờ.

– Hay để tôi đi, Thúy ạ! Đêm nay trời trở gió bấc rét lắm.

– Anh thì biết bán thế nào! Thôi, đừng nghĩ vớ vẩn.

Vừa nói Thúy vừa đá đôi guốc vào gầm bàn. Nàng đi chân không ra ngõ. Mặt đất ẩm và lạnh làm Thúy rùng mình. Nhưng nàng gắng bước thật nhanh. Tới ngõ, trong làn sương đêm nhẹ, lẫn trong ánh trăng nhạt, Thúy thấy Vượng cùng bẩy tám người nữa đương chờ nàng. Người nào cũng nhai trầu tỏm tẻm, khoác bị trên vai, chít khăn vuông tùm hụp. Thúy cố nhìn nhưng không rõ là ai. Nàng hỏi Vượng:

– Những chị nào đây, cô Vượng? Tôi chẳng trông rõ ai cả.

Một loạt cười nổi lên, tiếng Vượng giới thiệu:

– Chị cả Hoan, cô Thêm, cô Nhu…

Một người hỏi Thúy:

– Chị Phong cũng đi chợ bán sợi?

– Không, tôi bán tranh Tết.

– Tranh Tết! Tết năm nay chiến tranh, ai mua tranh pháo làm gì?

– Không, tranh nhà tôi vẽ theo lối mới kia mà.

Cả bọn cười ồ.

– Vẽ thế nào là vẽ theo lối mới?

Tiếng Vượng nói đỡ Thúy:

– Không, tranh anh ấy vẽ theo lối mới thật đấy. Thôi tới chợ rồi các chị xem. Bây giờ hãy đi đã, chẳng có muộn.

Vượng nói xong, cả bọn kéo nhau đi.

Từ nãy, Phong vẫn ngồi xổm, bó gối trên ghế. Anh lắng tai nghe tiếng chó sủa inh ỏi, cùng tiếng chân và tiếng cười nói của bọn người đi chợ mỗi lúc một xa dần. Bây giờ chỉ còn tiếng gầm gừ của một vài con chó dữ, chốc một lại sủa ăng-ẳng vớt vát vài tiếng. Một cơn gió mạnh làm bật tung cánh cửa từ lúc Thúy đi vẫn chỉ khép hờ. Phong rùng mình, hai hàm răng cắn chặt cho khỏi run. Anh lập cập ra gài cửa, xong vội vàng chạy tới bên giường Thanh leo lên kéo chăn đắp kín mít.

Một lát nằm đã ấm chỗ, Phong nghĩ càng thương Thúy, phải đi hàng mấy cánh đồng mới tới chợ, mà lại đi chân không và chẳng biết có bán được tranh hay không? Anh thở dài:

– Rét ghê!….Khổ cho Thúy!…Không biết bao giờ cho hết chiến tranh?

Một loạt súng từ xa nổi lên như để trả lời anh, Phong vùng ngồi dậy, tay chống xuống giường. Nhưng khi tiếng súng ngừng, âm vang không làm chuyển đất nữa, thì lòng Phong cũng dịu.

…Phong lại nằm xuống, anh xích vào gần Thanh cho ấm.

Anh ôm lấy Thanh, hôn vào mặt con, mặc dầu lúc ấy nó đang ngủ.

Phong bàng hoàng, từ đấy anh không ngủ được nữa, nằm để chờ sáng.

o O o

Đã quá trưa, Phong ngồi ở hè, cặm cụi vẽ những bức tranh Tết. Thúy ngồi khâu ở bên, lòng vui vẻ vì buổi chợ sáng nàng mang tranh đi bán được rất chạy. Thỉnh thoảng nàng ngửng nhìn chồng. Hôm nay Phong có vẻ trầm lặng quá. Nàng cảm động cho rằng Phong đương lo tính công việc làm ăn, rồi nàng tự nhủ:

– Chiều nay sẽ thổi nhiều cơm để anh ấy ăn no một bữa.

Còn Phong, giấc mơ đêm qua vẫn ám ảnh anh. Mấy lần anh định nói chuyện với vợ, lại thôi. Nhưng lần này anh không ngừng được, gọi:

– Thúy này..

Thúy ngửng lên, mắt long lanh. Phong tặc lưỡi…anh không nói đến chuyện anh định nói nữa, và chỉ bảo:

– Tết ra, anh vẽ truyền thần.

– Đến lúc đó sẽ hay.

Phong lẩm bẩm nhắc:

– Đến lúc đó sẽ hay.

Anh buông bút vươn vai, bẻ đốt ngón tay, rồi đứng lên, vào giuờng…

Ở ngoài, Thúy đưa mắt nhìn vào khẽ lắc đầu, mỉm cười nói:

– Đến là lười!