Chương 4
Kế đó Perdu tiếp một ông khách người Anh. “Gần đây tôi có thấy một cuốn sách bìa áo có màu xanh lá với trắng. Nó được dịch ra tiếng Pháp chưa?” Perdu luận ra được nó chính là một tác phẩm kinh điển đã được in mười bảy năm trước. Thế nên thay vì vậy, ông bán cho người khách một tuyển tập thơ. Sau đấy, ông Perdu phụ người giao hàng chuyển những thùng sách ông đặt mua từ xe đẩy lên thuyền rồi nhặt ra vài cuốn thiếu nhi mới in cho tay giáo viên có phần hơi hoảng loạn dạy ở trường tiểu học bên bờ kia sông Seine.
Perdu lau mũi cho cô bé con đang say mê đọc Chiếc la bàn vàng. Còn với bà mẹ lao lực của cô bé, ông viết phiếu hoàn thuế cho bộ bách khoa thư ba mươi tập mua trả góp.
Cô phác tay về phía con gái. “Cái con bé kỳ cục này muốn đọc xong trọn bộ trước khi qua tuổi hai mươi mốt. Được thôi, tôi nói, con bé có thể mua cái bộ bách… bách… chậc, toàn bộ đống sách tham khảo ấy, nhưng nó sẽ không được nhận quà sinh nhật nữa. Quà Giáng sinh cũng cắt luôn.”
Perdu gật đầu với cô bé con bảy tuổi. Cô bé nghiêm trang gật đầu đáp lại.
“Ông có nghĩ như vậy là bình thường không?” bà mẹ lo lắng hỏi. “Ở tầm tuổi nó bây giờ?”
“Tôi nghĩ cháu nó là đứa dũng cảm, thông minh và đúng đắn.”
“Miễn là sau này nó đừng thông minh quá so với đám đàn ông.”
“Với những gã ngốc thì đúng là vậy đấy, thưa bà. Nhưng ai lại muốn sống với bọn họ chứ? Một gã ngốc sẽ là tai ương cho bất cứ phụ nữ nào.”
Người mẹ ngước lên từ đôi tay đỏ ửng, run run với vẻ ngạc nhiên.
“Sao chưa ai nói với tôi như thế bao giờ?” cô hỏi, một nụ cười thoáng qua khuôn mặt.
“Cô biết gì không?” Perdu nói. “Hãy chọn một cuốn sách mà cô muốn tặng cho con gái vào dịp sinh nhật. Hôm nay là ngày khuyến mại ở Hiệu thuốc văn chương: mua một bộ bách khoa thư, chúng tôi sẽ tặng bạn một cuốn tiểu thuyết.”
Đáp lại lời nói dối nho nhỏ của ông, người phụ nữ thậm chí cũng không chớp mắt, chỉ thở dài. “Nhưng mẹ tôi đang đợi chúng tôi ở trên kia. Mẹ tôi nói muốn dọn vào sống ở viện dưỡng lão, và tôi không cần phải chăm sóc bà nữa. Nhưng tôi không thể làm vậy. Ông có thể làm được việc đó không?”
“Tôi sẽ lo cho mẹ cô. Cô chỉ việc tìm sách, được chứ?”
Người phụ nữ làm theo với nụ cười biết ơn.
Perdu mang một cốc nước cho bà ngoại của cô bé con ngồi ở trên bờ. Bà không dám mạo hiểm bước xuống ván cầu.
Perdu đã quen với những ngờ vực của người già; ông có cả khối khách hàng tuổi ngoài bảy mươi mà ông phải nói chuyện trên bờ, tại đúng cái băng ghế rèn từ sắt mà người phụ nữ già nua kia đang ngồi. Càng sống, người già lại càng gìn giữ cẩn thận những ngày tươi đẹp: họ sẽ không để thứ gì đe dọa đến khoảng thời gian ít ỏi còn lại của mình. Đó là lý do tại sao họ không còn muốn đi du lịch nữa; tại sao họ cho đốn cây cổ thụ bên ngoài nhà để chúng khỏi đổ đè xuống mái nhà; và tại sao họ nhất định không chịu đi qua một cái ván cầu bằng thép dày năm milimet. Perdu còn mang cho bà cụ một tập catalog to bằng cả cuốn tạp chí để bà cụ quạt cho vơi cái nóng mùa hè. Bà vỗ vỗ xuống bên chỗ ngồi cạnh mình ra ý mời ông.
Bà cụ làm ông nhớ đến mẹ mình, bà Lirabelle. Có lẽ là vì đôi mắt. Hết sức tinh anh. Thế là ông ngồi xuống. Sông Seine lấp lánh nắng, còn bầu trời cong cong một màu xanh mùa hè trên đầu. Tiếng xe cộ inh ỏi dội đến từ phía quảng trường Concorde; chẳng có lấy một giây phút tĩnh lặng. Thành phố sẽ vắng đi đôi chút sau dịp 14 tháng Bảy, khi người Paris tràn đến các bãi biển và các ngọn núi trong suốt kỳ nghỉ hè. Nhưng cả khi đó thành phố này vẫn ồn ĩ và thèm khát vô độ.
“Ông có hay làm việc này giống tôi không?” bà cụ đột nhiên hỏi. “Giở lại đống ảnh cũ để xem liệu khuôn mặt một người đã khuất có cho thấy dấu hiệu nào họ sẽ sớm qua đời?”
Ông Perdu lắc đầu. “Không thưa bà.”
Bằng những ngón tay run rẩy lấm tấm đồi mồi, bà cụ mở cái mặt trái tim trên dây đeo cổ ra.
“Đây là chồng tôi. Chụp hai tuần trước khi bị đột quỵ. Và rồi, bỗng đâu, chỉ còn lại một người phụ nữ trẻ là ta trong căn phòng trống.”
Bà lướt ngón trỏ trên bức ảnh, vỗ nhẹ lên mũi chồng.
“Trông ông ấy đến là thoải mái. Như thể mọi thứ ông ấy hoạch định đều có thể thành sự thật. Hai bọn tôi nhìn vào máy ảnh, nghĩ rằng đời sẽ cứ thế cứ thế trôi đi, nhưng rồi: Xin chào, giấc ngủ vĩnh hằng.”
Bà ngừng lại. “Thế là từ bấy đến giờ tôi không chịu để cho người khác chụp ảnh nữa,” bà nói. Bà ngửa mặt lên hướng về phía mặt trời. “Ông có cuốn nào viết về cái chết không?”
“Tôi có nhiều là đằng khác,” Perdu nói. “Những cuốn về việc ta già đi, mắc bệnh nan y, về cái chết từ từ, cái chết mau lẹ, cái chết cô độc ở đâu đó dưới sàn bệnh viện.”
“Tôi thường tự hỏi sao người ta không viết thêm sách về sống. Ai cũng có thể chết. Nhưng còn sống thì sao?”
“Phải đấy, thưa bà. Có quá nhiều điều để nói về việc sống. Sống với sách, sống với bọn trẻ, sống cho người mới bắt đầu.”
“Thế sao ông không viết một cuốn.”
Như thể tôi có thể đưa ra lời khuyên cho người khác vậy.
“Tôi lại muốn viết một bộ bách khoa thư về những cảm xúc quen thuộc,” ông nói. “Vần L sẽ có ‘Lo lắng khi cho người khác đi nhờ xe’, vần C là ‘Cảm giác tự mãn của những người dậy sớm’, vần S thì có ‘Sốt sắng giấu ngón chân, hay nỗi sợ người kia sẽ không yêu ta nữa nếu nhìn thấy bàn chân ta’.”
Perdu tự hỏi tại sao ông lại đi kể tất cả những thứ ấy với một người lạ.
Giá mà ông không mở cửa phòng ra.
Bà ngoại cô bé con vỗ vỗ đầu gối ông. Ông thoáng rùng mình: tiếp xúc thân thể thật nguy hiểm.
“Một bách khoa thư về cảm xúc,” bà mỉm cười nhắc lại. “Tôi cũng biết cái cảm giác ấy về những ngón chân. Một cuốn almanac về những cảm xúc quen thuộc. Ông biết nhà văn người Đức Erich Kӓstner chứ?”
Perdu gật đầu. Năm 1936, một thời gian ngắn trước khi châu Âu chìm trong cuộc chiến thảm khốc, Kӓstner đã cho xuất bản cuốn Hòm thuốc trữ tình trích từ tủ thuốc thơ mà ông viết ra. “Tập sách này dành để chữa trị cho đời sống riêng tư,” người thi sĩ ấy đã viết như vậy trong lời nói đầu. “Nó chữa cho - chủ yếu bằng những liều vi lượng đồng căn - tất tật những căn bệnh lớn nhỏ của sự hiện tồn và sử dụng ‘liệu trình cho một đời sống nội tâm điển hình’.”
“Kӓstner là một trong những lý do khiến tôi đặt tên thuyền sách này là Hiệu thuốc văn chương,” Perdu nói. “Tôi muốn điều trị cho những cảm xúc không được xem là đau đớn, mà các bác sĩ sẽ không bao giờ chẩn đoán được. Tất cả những cảm xúc, cảm giác nhỏ bé mà bác sĩ tâm lý không mấy hứng thú, vì hiển nhiên là chúng quá vụn vặt và mơ hồ. Cái cảm giác bám lấy ta khi lại một mùa hè nữa chuẩn bị qua đi. Hay khi ta nhận ra ta chẳng còn cả đời người để đi tìm nơi ta thuộc về. Hay nỗi buồn thoáng qua khi một tình cảm chẳng đi đến đâu, và ta vẫn phải tiếp tục tìm kiếm người bạn đời của mình. Hay những nỗi buồn buổi sáng ngày sinh nhật. Nỗi hoài niệm bầu không khí tuổi thơ. Những thứ kiểu vậy.” Ông nhớ mẹ đã từng giãi bày là bà phải chịu đựng một nỗi đau chẳng thứ thuốc nào có thể hóa giải. “Có những phụ nữ chỉ nhìn giày chứ không nhìn mặt một phụ nữ khác. Kiểu còn lại thì luôn nhìn thẳng vào mặt, thỉnh thoảng mới nhìn xuống giày.” Mẹ ông thích kiểu người thứ hai hơn; Lirabelle thấy bẽ bàng và bất công khi đứng trước kiểu người thứ nhất.
Cũng chính vì muốn hóa giải những nỗi đau nhức nhối vô phương lý giải nhưng lại rất chân thực ấy mà ông đã mua con thuyền này, vốn là một sà lan chở hàng tên là Lulu; ông đã tự mình sửa sang lại con thuyền và chất sách lên, sách - phương thuốc duy nhất cho vô vàn những nỗi đau chưa được gọi tên của tâm hồn.
“Ông nên viết cuốn sách ấy. Một bộ bách khoa thư về cảm xúc cho các dược sĩ văn chương.” Người phụ nữ già nua lúc này đã ngồi thẳng lên và trở nên hoạt bát, sống động hơn. “Hãy thêm ‘Tâm sự với người lạ’ vào vần T. Cái cảm giác kỳ cục ta gặp phải trên tàu khi tự dưng ta lại đi bộc bạch với một người chưa từng gặp mặt còn nhiều hơn với chính gia đình ta. Và hãy bổ sung ‘Niềm an ủi Cháu chắt’ ở vần N. Cái cảm giác cuộc sống vẫn sẽ tiếp diễn…” Bà dừng lời, chìm vào suy nghĩ miên man.
“Một người sốt sắng giấu ngón chân - tôi đã từng là một người như thế. Nhưng ông ấy… hóa ra ông ấy lại thích bàn chân tôi.”
Khi ba người nhà họ chào tạm biệt ông rồi ra về, Perdu đi đến kết luận: người ta thường quan niệm sai lầm rằng người bán sách chăm lo cho những cuốn sách.
Họ chăm lo cho con người.
Khi dòng khách khứa vãn bớt vào buổi trưa - với người Pháp, ăn uống là chuyện thiêng liêng hơn cả nhà nước, tôn giáo và đồng tiền gộp lại - Perdu dùng chổi quét ván cầu, làm xáo động một ổ nhện gầm cầu. Rồi ông trông thấy Kafka với Lingdren tiến về phía con thuyền sách bên dưới đại lộ cây xanh chạy men bờ sông. Đó là tên ông đặt cho hai con mèo hoang ngày nào cũng ghé qua chơi với ông bởi chúng đã hình thành một niềm thích thú đặc biệt với nơi này. Con mèo đực lông xám với đường viền trắng quanh cổ như cổ áo mục sư thích mài vuốt bằng cuốn Những cuộc điều tra của một con chó của Franz Kafka, một ngụ ngôn phân tích thế giới con người từ góc nhìn một chú chó. Trong khi đó, con mèo Lindgren tai dài, lông hai màu cam-trắng lại thích nằm gần chồng sách viết về nhân vật Pippi Tất dài; đó là một cô mèo xinh đẹp vẫn thường thò đầu ra từ sau tủ sách và săm soi từng vị khách một. Lindgren với Kafka vẫn thường giúp ông bằng cách thình lình, từ một trong những giá sách ở tít trên cao, nhảy bổ vào một vị khách thuộc nhóm thứ ba, những người có ngón tay dây đầy dầu mỡ.
Hai con mèo hoang với gu sách hơn người sẽ đợi đến khi chúng có thể lên thuyền mà không phải né những đôi chân to cộ, vụng về. Một khi đã tót xuống thuyền, chúng sẽ cọ mình vào ống quần ông chủ tiệm sách mà khe khẽ kêu meo meo.
Ông Perdu đứng nghệt ra. Trong thoáng chốc, một thoáng chốc ngắn ngủi, ông thôi không đề phòng nữa. Ông tận hưởng hơi ấm và sự mềm mại của lũ mèo. Trong vài giây ông nhắm nghiền mắt và phó mặc bản thân cho cái cảm giác êm ái đến khó tin nơi cẳng chân mình.
Những cử chỉ gần như vuốt ve này là những tiếp xúc thân thể duy nhất trong cuộc sống hằng ngày của Perdu.
Những tiếp xúc duy nhất ông cho phép.
Khúc đệm quý báu ấy kết thúc khi, từ đằng sau cái kệ mà Perdu xếp các sách kê cho năm loại khốn khổ của cuộc sống đô thị (nhịp sống điên cuồng, sự lãnh đạm, cái nóng, tiếng ồn và những tay tài xế xe bus ác dâm đâu cũng thấy mặt), ai đó bật ra một tràng ho dài dằng dặc ghê hồn.