← Quay lại trang sách

Chương 24 -

Cuneo dọn vào phòng cabin thứ hai và tuyên bố bếp là lãnh địa riêng của ông ta. Người đàn ông vạm vỡ với mái tóc bắt đầu hói lấy ra từ vali và khay nào dầu, nào gia vị và các loại hỗn hợp, rồi xếp chúng dọc theo một hàng các hỗn hợp tự trộn nhiều đến khiếp đảm mà ông ta dùng để nêm nếm đồ ăn, để tăng vị nước xốt hay chỉ đơn giản là “để ngửi và thấy hạnh phúc.”

Để ý cái nhìn hoài nghi của Perdu, ông hỏi lại: “Có vấn đề gì sao?”

“Không, Signor Cuneo ạ. Chỉ là…”

Chỉ là tôi không quen với những thứ mùi dễ chịu như thế. Chúng tuyệt quá. Tuyệt đến mức không thể chịu nổi. Và không “hạnh phúc” gì cả.

“Tôi từng quen một phụ nữ,” Cuneo bắt đầu nói trong khi tiếp tục sắp xếp các thứ và kiểm tra kỹ lưỡng mớ dao của mình, “cô ấy khóc khi ngửi thấy mùi hoa hồng. Một phụ nữ khác lại thấy mùi bánh mì patê trong lò nướng có cái gì đấy khêu gợi. Mùi vị có những ảnh hưởng thật thú vị tới linh hồn.”

Hạnh phúc patê, Perdu nghĩ. Xếp trong mục chữ H. Hay trong mục N, Ngôn ngữ của hương vị. Có thật một ngày nào đó ông sẽ viết tất cả những thứ này vào bộ bách khoa thư cảm xúc của mình?

Hay là bắt đầu từ ngày mai luôn nhỉ? Không - hay là ngay bây giờ luôn?

Ông chỉ cần bút với giấy, và rồi đến một ngày, từng chữ từng chữ một, ông sẽ đạt được giấc mơ của mình. Sẽ, nên, có thể…

Ngay bây giờ. Chỉ có ngay bây giờ mà thôi. Làm đi, đồ hèn. Cuối cùng mi cũng thở được dưới nước.

“Còn với tôi thì là mùi oải hương,” ông ngập ngừng thừa nhận.

“Nó làm cho ông khóc à, hay ngược lại?”

“Cả hai. Đó là mùi hương của thất bại lớn nhất đời tôi - và cũng là hạnh phúc lớn nhất.”

Cuneo dốc túi đổ ra mấy viên sỏi và bày chúng trên kệ.

“Đây là hạnh phúc của tôi và thất bại của tôi,” Cuneo buột miệng nói. “Thời gian. Nó mài nhẵn những cạnh sắc làm đau chúng ta. Vì tôi thường quên điều đó, nên tôi luôn giữ lại một viên sỏi từ mỗi con sông tôi từng đi qua.”

Kênh Loing hòa làm một với kênh Briare tại một trong những khu vực đẹp nhất trên tuyến đường Bourbonnais, thông qua một cây cầu dẫn nước như cái máng dẫn con kênh vượt qua một khúc sông Loire nước chảy xiết không thể đi thuyền. Họ đã thả neo tại bến thuyền ở Briare, một thảm hoa rực rỡ đến mức ở đó có hàng chục họa sĩ ngồi trên bờ, cố gắng khắc họa lại khung cảnh ấy.

Bến thuyền trông như một Saint-Tropez thu nhỏ. Họ trông thấy một loạt những chiếc du thuyền đắt tiền và mọi người đang thả bước trên những con đường đi bộ. Hiệu thuốc văn chương là chiếc thuyền lớn nhất ở đó, một số người chơi thuyền tiến lại ngắm nghía nó, xem xét những cải tạo trên thuyền, và lướt mắt qua đoàn thủy thủ. Perdu biết đứng cạnh nhau trông họ rất khập khiễng. Không chỉ như một hội lính mới, mà còn tệ hơn: một đám amatơ.

Cuneo hiên ngang tiến tới hỏi thăm từng vị khách một liệu trong những chuyến đi họ đã bao giờ trông thấy một con tàu tên Ánh trăng chưa? Một cặp đôi Thụy Sĩ, đã đi quanh châu Âu ba mươi năm nay bằng một chiếc sà lan kiểu Hà Lan cỡ nhỏ, bảo là họ đã từng có lần thấy nó thì phải. Có lẽ là mười năm trước chăng. Hay là mười hai nhỉ?

Khi những ý nghĩ của Cuneo quay về với bữa tối, ông phát hiện ra chạn thức ăn đã trống trơn, còn trong tủ lạnh chẳng có gì ngoài thức ăn cho mèo và món đậu trắng lúc trước.

“Bọn tôi không có tiền, Signor Cuneo ạ, cũng không có nguồn cung,” Perdu bắt đầu giải thích. Ông kể lại chuyến khởi hành bốc đồng từ Paris và một loạt những sự cố không may họ gặp phải.

“Hầu hết dân sông nước hào hiệp lắm, và tôi cũng có chút tiền tiết kiệm,” tay người Napoli đáp. “Tôi có thể giúp ông trả tiền phí.”

“Ông tốt bụng quá,” Perdu nói, “nhưng không thể như thế được. Bằng cách nào đó, ta phải kiếm được tiền.”

“Không phải người phụ nữ đó đang đợi ông sao?” Max Jordan ngây thơ hỏi. “Chúng ta không nên lãng phí thời gian.”

“Cô ấy không biết tôi sẽ tới. Thời gian thì ta rộng dài lắm,” Perdu vội vã đáp, gạt câu hỏi kia đi.

Phải, thời gian thì ta rộng dài lắm. Ôi, Manon, em có nhớ cái quán bar dưới hầm ấy, chỉ có Louis Armstrong và hai ta?

“Một chuyến thăm bất ngờ à. Lãng mạn quá… nhưng cũng khá mạo hiểm đấy.”

“Ta không dám mạo hiểm thì cuộc đời sẽ bỏ qua chúng ta,” Cuneo xen vào. “Nhưng giờ ta phải trở lại chuyện tiền bạc cái đã.” Perdu mỉm cười cảm ơn ông ta.

Cuneo với Perdu nghiên cứu hải đồ, tay người Ý đánh dấu vài ngôi làng. “Tôi biết một vài người sống ở đây, Apremont-sur-Allier, mạn bên kia Nevers. Javier thường hay cần người giúp sửa bia mộ. Và từng có một lần ở Fleury tôi làm đầu bếp riêng… cho một họa sĩ ở Digoin… và cả ở Saint-Satur, nếu như cô ấy vẫn chưa vượt qua được sự thật là cô ấy và tôi không… ừm…” Ông đỏ mặt. “Một số nhất định sẽ trợ giúp cho ta chút đồ ăn và nhiên liệu. Hoặc không thì sẽ biết có thể tìm việc ở đâu.”

“Ông có quen ai ở Cuisery không?”

“Cái thị trấn sách trên sông Seille à? Chưa một lần tới đó. Nhưng biết đâu tôi sẽ tìm được người mình muốn tìm ở đó nhỉ.”

“Người phụ nữ ấy ư?”

“Phải, người phụ nữ ấy.” Cuneo hít một hơi thật sâu. “Phụ nữ như cô ấy không thường xuất hiện trên đời đâu. Chắc phải hai trăm năm mới có một người. Cô ấy là tất cả những gì một người đàn ông hằng mơ tưởng. Xinh đẹp, thông minh, khôn ngoan, chu đáo, đầy đam mê - tất tần tật, không trừ thứ gì.”

Thật đáng ngạc nhiên, Perdu nghĩ. Chẳng bao giờ mình có thể nói về Manon theo cách ấy. Kể về Manon tức là chia sẻ cô ấy với mọi người. Tức là thừa nhận lỗi lầm của bản thân, và ông vẫn chưa làm được điều đó.

“Vậy giờ câu hỏi ở đây là,” Max trầm ngâm, “làm sao để kiếm nhanh một khoản. Nói luôn hai ông nghe là tôi làm trai bao kém lắm đấy.”

Cuneo nhìn quanh. “Còn chỗ sách này thì sao?” ông ngập ngừng hỏi. “Ông định giữ lại hết đấy à?”

Sao ông lại chưa nghĩ đến chuyện này nhỉ?

Cuneo vào trong Briare để mua hoa quả, rau thịt, ông tự bỏ tiền túi ra mà mua, và thuyết phục một tay câu cá láu cá để hắn cho ông mẻ cá bắt được ngày hôm ấy. Jean mở cửa thuyền sách, còn Max thì đi rao. Cậu đi khắp bến thuyền rồi đảo quanh làng hô to: “Sách giá rẻ đây! Những cuốn mới nhất luôn! Hấp dẫn, thông minh, lại rẻ nữa - sách đây, sách đây!”

Hễ đi qua bàn phụ nữ là cậu lại rao lên: “Đọc sách vào đẹp ra, đọc sách vào giàu lên, đọc sách vào để thêm mảnh mai!” Thời gian xen giữa cậu đứng ngoài nhà hàng Le Petit St. Trop hô lên: “Cảm thấy không được yêu thương? Chúng tôi có sách cho bạn đây. Gặp trục trặc với thuyền trưởng? Chúng tôi cũng có luôn! Câu được cá mà không biết làm cá? Sách của chúng tôi cái gì cũng biết.”

Một vài người qua đường nhận ra cậu nhà văn từ những tấm ảnh đăng báo, những người khác thì cáu kỉnh quay gót bỏ đi và một số ít lặn lội ra tận Hiệu thuốc văn chương để xin lời khuyên.

Và vậy là Max, Jean với Salvatore Cuneo kiếm được những đồng bạc đầu tiên. Một ông thầy tu da sẫm màu, dong dỏng cao cũng tặng lại cho họ mấy hũ mật ong với thảo dược để đổi lấy mấy cuốn phi hư cấu viết về thuyết bất khả tri.

“Ông ta định làm cái quái gì với chúng chứ?”

“Chôn đi chăng,” Cuneo phán.

Hỏi thăm xong ông cảng trưởng về con tàu chở hàng Ánh trăng, Cuneo mua thêm từ chỗ ông ta vài cây giống con, rồi chặt vài kệ sách để lấy gỗ rồi mau chóng dựng ra hẳn một khu vườn bếp trên boong sau, làm cho Kafka với Lindgren sung sướng vô ngần, chúng xông ngay vào đám bạc hà. Rồi chẳng mấy bọn mèo đã vờn nhau chạy quanh khắp cái thuyền, đuôi dựng đứng lên trông như những chiếc chổi cọ.

Tối hôm ấy Cuneo, trên người diện tạp dề hoa và tay đeo găng lò nướng, bưng đồ ăn ra.

“Mời hai quý ông xơi một biến thể của món rau củ hầm đã bị ngành công nghiệp du lịch rẻ rúng thậm tệ: món bohémienne de legumes,” Salvatore giải thích, đặt đĩa đồ ăn xuống cái bàn ăn tạm trên boong thuyền. Một món ăn kỳ khu: rau củ được thái hạt lựu, rô ti thật tinh tế, rắc thêm một nhúm hào phóng cỏ xạ hương, cho vào khuôn, úp ra đĩa rồi rưới đẫm bên trên thứ dầu ô liu hảo hạng nhất. Món này ăn kèm với thịt bê cốt lết, được Cuneo đảo ba lần qua ngọn lửa trực tiếp và bánh flan tỏi trắng như tuyết và tan đi trong miệng.

Một thứ kỳ lạ đã diễn ra khi Perdu cắn miếng đầu tiên. Những hình ảnh dường như nổ tung trong đầu ông.

“Thật không thể tin nổi, Salvatore ạ. Ông nấu giỏi như là Marcel Pagnol viết văn vậy.”

“À, Pagnol. Một người hay ho. Ông ấy biết là ta chỉ có thể thấy được bằng lưỡi. Và mũi và bụng,” Cuneo nói, thở dài tán thưởng. Rồi, đương ăn thì ông đế thêm, “Capitano Perduto ạ, tôi hết sức tin rằng ta phải nếm được tâm hồn một đất nước mới hiểu được nó và con người ở đó. ‘Tâm hồn’ ở đây là những gì mọc ra, lớn lên ở đó, những gì mà người dân xứ ấy nhìn, ngửi và chạm vào mỗi ngày, những gì đi qua họ và nhào nặn họ từ bên trong.”

“Như cách món mì pasta làm nên người Ý ấy à?” Max hỏi trong lúc nhai rau ráu.

“Cẩn thận cái mồm anh đấy, Massimo. Pasta biến phụ nữ thành mỹ nhân!” Cuneo đáp, hứng khởi vẽ vào không trung đường nét của một thân hình phụ nữ đầy nóng bỏng.

Họ ăn và cười ha hả. Mặt trời lặn xuống bên tay phải, mặt trăng nhô lên bên tay trái, họ bọc mình trong thứ mùi thơm xa xỉ của hoa cỏ nơi cảng này. Bọn mèo thăm thú đó đây rồi chễm chệ ngồi trên một cái thùng sách úp ngược để bầu bạn với ba người đàn ông.

Trong Jean Perdu trào lên một cảm giác bình yên hết sức lạ lẫm.

Liệu ăn có chữa lành cho ta không?

Với mỗi miếng đồ ăn xức đẫm những thứ rau thơm và dầu ăn của Provence dường như ông lại ngấm vào mình đôi chút cái mảnh đất phía trước; cảm giác như thể là ông đang ăn vào cái vùng quê xung quanh mình. Chưa gì ông đã nếm được vị hai bên bờ sông hoang dại của Loire phủ toàn rừng và ruộng nho.

Đêm đó giấc ngủ đến với ông thật êm ái. Kafka với Lindgren canh cho ông ngủ, Kafka nằm duỗi dài bên cửa còn Lindgren thì nằm ngay cạnh vai ông. Thỉnh thoảng Jean lại cảm nhận được đôi chân nó vỗ vỗ vào mặt mình như kiểm tra xem ông có còn sống hay không.

Buổi sáng kế tiếp họ quyết định lưu lại Briare thêm chút nữa. Đó là một thắng cảnh và là điểm gặp gỡ nổi tiếng và mùa chơi thuyền đã bắt đầu. Cứ cách độ một tiếng là lại có thuyền mới cập cảng, đem theo các độc giả tiềm năng.

Max đề nghị Jean dùng chung quần áo với mình, bởi lúc đi ông chỉ có mỗi áo sơ mi, quần tây xám, áo khoác với áo len đang mặc trên người. Tạm thời lúc này, quần áo chưa phải thứ cần kíp.

Perdu cảm tưởng như cả mấy thế kỷ rồi ông mới lại tròng lên người một chiếc quần jean với áo thun bạc màu. Ông hầu như không thể nhận ra người mình thấy trong gương. Bộ râu ba ngày chưa cạo, nước da đã rám nắng sau chừng ấy thời gian ông đứng lái, rồi bộ quần áo rộng lùng thùng… Nhìn ông không còn cái vẻ bồn chồn căng thẳng và già trước tuổi nữa, dù cũng không hẳn là đã trẻ lại nhiều.

Max bắt đầu vẽ một bộ ria giả lố bịch bằng bút chì lên môi trên, tóc cậu thì được chải ra sau buộc túm lại thành cái đuôi ngựa đen bóng của dân cướp biển. Sáng nào cậu cũng tập kung fu với thái cực quyền trên boong sau, trên người mặc độc cái quần mỏng. Lúc ăn trưa với buổi tối, cậu đọc sách cho Cuneo nghe trong lúc ông ta chuẩn bị bữa ăn. Ông thường yêu cầu Max đọc truyện do các tác giả nữ viết.

“Phụ nữ mới kể với ta về thế giới. Đàn ông chỉ kể về bản thân thôi.”

Giờ Hiệu thuốc văn chương mở cửa đến tận tối. Thời tiết mỗi ngày một ấm lên.

Bọn trẻ con các làng quanh đây cũng như của các thuyền khác thường tha thẩn hàng giờ trong khoang của Lulu, mê mẩn đọc những cuộc phiêu lưu của Harry Potter, Kalle Blomquist, Bộ Năm Lừng danh và Mèo Chiến binh, hay nhật ký của Greg. Perdu thường phải nén một nụ cười khi trông thấy cái cảnh Max ngồi dưới sàn, ngồi thành vòng tròn xung quanh là bọn trẻ, đôi chân cò hương của cậu xếp lại, trong lòng đặt cuốn sách. Giọng đọc của cậu mỗi lúc một hấp dẫn hơn và các câu chuyện nghe chẳng kém kịch trên đài. Perdu ngờ rằng đám trẻ nhỏ lúc này đang lắng nghe với một vẻ say sưa và đôi mắt tròn xoe, một ngày nào đó sẽ lớn lên thành những cô những cậu cần đọc sách, cần những điều kỳ diệu trong những cuốn sách, cần cái cảm giác có một bộ phim đang chiếu trong đầu ta cũng như cần không khí để hít thở.

Với bọn trẻ dưới mười bốn tuổi, ông bán sách theo cân: hai cân giá mười euro.

“Thế này thì lỗ chết à?” Max hỏi.

Perdu nhún vai. “Về tiền mà nói thì đúng là lỗ thật đấy. Nhưng có một sự thật rành rành là đọc sách khiến con người ta dạn dĩ hơn và thế giới này đang cần đến những con người không ngại nói ra cái họ nghĩ, cậu không thấy thế sao?”

Các cô bé cậu bé mới lớn khúc khích cười thì lại tụ tập trong cái góc huê tình rồi chuyển sang im lặng một cách đáng ngờ. Mỗi lần lại gần Perdu đều cố gây ra tiếng động để cho chúng có thời gian rời môi nhau và giấu khuôn mặt đỏ ửng sau một cuốn sách vô hại.

Max thường chơi đàn piano để kéo khách hàng lên thuyền.

Perdu bắt đầu có thói quen gửi thiệp cho Catherine mỗi ngày và tập hợp các mục từ cho bộ bách khoa thư những thứ cảm xúc nhỏ bé nhẹ nhàng trong một cuốn sổ tay, vì thế hệ những dược sĩ văn chương kế tiếp.

Tối nào ông cũng ngồi xuống chỗ đuôi tàu nhìn lên bầu trời. Dải Ngân hà vẫn luôn ở đó và lâu lâu lại có một ngôi sao băng vụt qua. Bọn ếch tổ chức một buổi hòa nhạc acappella, đám dế cũng líu ríu góp giọng, và tất cả diễn ra trên cái nền tiếng dây thừng vỗ nhẹ vào cột buồm và hồi chuông của một con thuyền thỉnh thoảng lại gióng lên.

Những cảm xúc mới mẻ trào lên trong cơ thể ông. Kể với Catherine về chúng cũng chẳng có gì sai, bởi chính cô đã bắt đầu tất cả những chuyện này. Ông vẫn đang chờ xem những điều này sẽ biến ông thành một người đàn ông như thế nào.

Catherine ạ, hôm nay Max đã hiểu ra một điều rằng tiểu thuyết giống như một mảnh vườn mà độc giả phải dành nhiều thời gian thì nó mới nở hoa. Mỗi khi nhìn Max, một thứ tình phụ tử lạ lùng lại bừng lên trong tôi. Thân mến, Perduto.

Catherine à, sáng nay khi tỉnh dậy, trong ba giây tôi chợt hiểu ra em chính là một người điêu khắc tâm hồn, một người phụ nữ thuần hóa nỗi sợ. Đôi bàn tay em đang tạc một tảng đá thành một người đàn ông. John Lost, cột đá.

Catherine, sông không giống như biển. Biển thì đòi hỏi còn sông lại cho đi. Và bọn tôi ở đây, chẳng có gì ngoài sự mãn nguyện, cảm giác bình an, nỗi u hoài và cái buổi tối bình lặng mướt như mặt kính khép lại một ngày bằng những tông màu xanh-xám. Tôi đã giữ lại con cá ngựa em nặn từ ruột bánh mì và gắn hai hột tiêu lên làm mắt. Nó tha thiết muốn có người bầu bạn. Theo thiển ý của Jeanno P.

Catherine, dân sông nước chỉ thực sự đến được bến bờ của mình khi lênh đênh. Họ yêu những cuốn sách kể về các hòn đảo quạnh vắng. Dân sông nước sẽ buồn nôn khi biết họ sẽ phải thả neo vào ngày kế tiếp. Người hiểu được họ ấy chính là J.P. từ P., lúc này chưa có địa chỉ cố định.

Perdu đã khám phá ra một thứ khác trên những dòng sông - những vì sao biết thở. Một ngày chúng tỏa sáng rực rỡ, ngày kế tiếp chúng sáng hiu hắt để rồi lại tỏa sáng lần nữa. Và nguyên nhân không phải là do sương mù hay tại kính đọc sách của ông mà bởi giờ đây ông không còn chăm chăm nhìn xuống chân mình nữa.

Cứ như thể chúng đang hít thở theo một nhịp thật sâu, thật chậm và mãi mãi không dừng. Chúng hít thở và quan sát khi thế giới đến rồi đi. Vài vì sao đã tận mắt thấy khủng long và người Neanderthal; chúng đã chứng kiến khi kim tự tháp mọc lên và Columbus phát hiện ra châu Mỹ. Với chúng, trái đất này chỉ là một hòn đảo nữa trong đại dương vũ trụ vô tận với những cư dân nhỏ li ti li ti.