← Quay lại trang sách

Phần Thứ Hai (V)

Về Hiển, mỗi lần hồi tưởng những bước đường của đời mình đã đi qua, anh nhận ra rằng, những ngày ấy, trong anh chứa đầy những mâu thuẫn không sao giải quyết được. Cha anh, một cán bộ Việt Minh bị Pháp bắt không thấy trở về. Mẹ anh, người đàn bà đôn hậu, hồi tố cộng năm năm chín đã bị đánh đập quá nhiều, sau một năm về nhà đã nôn ra máu, rồi chết. Ông bà Mừng, ông bà nội của Hiển thuộc diện cần cù, chăm làm nên nhà chẳng đến nỗi nào. Hiển sớm nhận diện được sự thay đổi về tình hình chính trị lại được ông nội giáo dục, giải thích mọi điều nên anh rất ghét bọn lính tráng, bọn ác ôn ác bá trong ban đại diện xã. Nhưng Hiển lại rất yêu Tường Vi con gái Hội Bang, người mà anh biết rõ, có liên quan rất mật thiết với tầng lớp mà anh không ưa.

Những tình cảm yếu mềm đã thắng thế trên đòn cân mâu thuẫn của Hiển, làm anh xóa dần những định kiến của mình đối với gia đình Tường Vi. Tiếc thay, Tường Vi tỏ ra hờ hững với anh, nhiều lúc cô còn khó chịu bỏ đi khi anh hỏi, cô làm như không biết và không thèm trả lời những lá thư tỏ tình của anh.

Hiển còn nhớ, nhiều buổi chiều anh đã đi ngang qua, ngang lại con đường trước nhà Hội Bang để mong nhìn thấy Tường Vi một lần. Có điều anh không sao giải thích được, là Tường Vi càng tỏ ra khó chịu bao nhiêu thì Hiển lại càng nhớ và yêu cô bấy nhiêu. Như thể nỗi nhớ trong đầu anh là của ai chứ không phải của anh. Nó dằng dặc, thúc giục và xô đẩy anh, làm cho anh mất ăn mất ngủ.

Ở Bến Đá Lu thời đó, người ta coi Hiển là mẫu người điển hình của chứng bệnh thất tình. Nếu ai đó có dấu hiệu tỏ ra buồn bã thẫn thờ thì sẽ được hỏi: Làm gì mà như thằng Hiển thất tình vậy hả?

Hiển đã ghen tức lồng lộn đến mức tuyệt giao với Quân khi biết Quân cũng yêu Tường Vi, nhất là từ khi Quân được chọn đến làm vườn cho Hội Bang. Và, đặc biệt khi biết viên thiếu úy Phan đã đi lễ hỏi Tường Vi, Hiển tức lồng lộng lên. Nhưng chỉ có tức, anh chẳng thể làm gì, thui thủi với mối tình đơn phương thầm lặng. Cả tháng liền, ngày nào Hiển cũng viết những lá thư bằng lời lẽ thống thiết, bi đát. Viết xong, anh lại xé đi. Người vốn cao lêu khêu, lại bị căn bệnh si tình hành hạ nên trông Hiển những ngày đó chẳng khác nào con nộm rơm lèo khèo do một người nông dân biếng nhác tạo ra.

Ông bà nội của Hiển sau những câu chửi rủa, khuyên nhủ, chỉ còn biết thở dài và ứa nước mắt. Cô gái tên Ngân - em Hiển - thì đau xót vì thấy anh mình làm trò cười cho thiên hạ. Thậm chí ra đường, Ngân không dám nói chuyện với bất cứ chàng trai nào. Có kẻ còn châm chọc cay độc trước mặt cô:

- Thằng anh đã vậy, con em chắc còn hơn. Đứa nào chọc ghẹo nó, nó sẽ đánh đu lên cổ suốt ngày cho coi!

Khi Tường Vi bất ngờ biệt tăm, biệt tích, không gia nhập vào đoàn người nhà Hội Bang, Hiển đã đơn độc đi tìm. Anh ta xộc vào tất cả bụi bờ ở bờ sông với cái dáng lầm lũi, ai hỏi cũng chẳng trả lời. Sau khi xác cô gái chết trôi được chôn cất, ngày ngày cứ vào lúc hoàng hôn, Hiển lại đến trước mộ đứng nhìn, miệng lẩm bẩm những câu ngớ ngẩn.

Theo lời ông Hội Bang kể lại thì có lần ông bắt gặp Hiển đang nằm sấp mặt xuống mộ mà cười. Cho tới lúc trên mộ phủ một lớp cỏ xanh rờn thì vẻ sầu não trên mặt Hiển cũng mất dần, và chẳng bao lâu sau, mọi sinh hoạt của anh đã trở lại bình thường. Anh làm ruộng làm vườn với gia đình. Người vui mừng nhất trong việc này là Ngân. Dù sao mọi người cũng không còn nhìn cô với ánh mắt kỳ thị như trước nữa.

Cuối năm 1963, một cơn bão dữ dội của phong trào Đồng khởi đã nổi lên ở Bến Đá Lu. Các bờ rào ấp chiến lược được phá tan, người ta giành và chia nhau những cây chông dài để mang về làm củinấu ăn.

Hiển lúc này là một trong những thanh niên xông xáo được gia nhập vào đội du kích xã. Không ai nhắc với anh về chuyện không hay ngày nào. Sông có khúc, người có lúc. Họ chỉ nhắc đến Hiển về cái tính liều mạng đánh địch rất hăng.

Nhà Hội Bang lúc này đã chạy tản qua bên kia sông, bỏ lại khu vườn đầy cây trái. Nhưng chỉ một thời gian ngắn khu vườn bị phá tan tành dưới bàn tay bọn trẻ chăn trâu và những người tham lam. Thật chẳng may cho Phan, tại khu vườn này, anh ta đã gặp Hiển.

Đó là một buổi sáng mà đại đội Bảo an của Phan từ phía bên kia sông tập kích sang phía Bến Đá Lu. Đến trưa, không gặp được đối phương, cả đại đội quay về bằng thuyền. Chính lúc ấy lực lượng du kích của Bến Đá Lu âm thầm mai phục và nổ súng.

Cả đoàn thuyền chạy tứ tung trên nước. Nhiều chiếc lật úp. Tiếng súng và tiếng lựu đạn nổ rền trời. Bọn lính Bảo an một số chết, một số vứt súng mà bơi. Riêng viên thiếu úy trẻ, vốn là người quen thuộc Hiển, chưa kịp xuống thuyền đã bị bắt sống ngay phía sau vườn Hội Bang.

Hiển đang ôm khẩu ra-găng. Anh ta ra lệnh cho viên thiếu úy vào trong vườn. Đang lúc bận rộn của trận chiến, chẳng ai để ý làm gì đến chuyện Hiển dẫn một tù binh đi.

Khi đến bên khóm hoa tường vi trước sân nhà Hội Bang, Hiển ra lệnh cho Phan:

- Quay lại!

Khuôn mặt Phan tái mét, hai vai hơi nhô lên phía trước vì tay đã bị trói quặp ra sau.

- Mày có biết chính mày đã giết chết Tường Vi không? - Hiển hỏi và phớt lờ trước sự lo sợ của Phan.

- Sao? Anh muốn nói gì? - Mắt Phan mở to ra chiều chưa hiểu. - Anh định giết tôi sao?

Hiển cười gằn:

- Mày là tù binh, tau mà thèm giết mày! Tau

chỉ muốn hỏi, Tường Vi không yêu mày, nhưng mày với ông Hội cố ép làm cho cô ta nhảy sông có đúng không?

- Không, không! - Phan vừa run vừa đáp. - Trong chuyện này tôi chẳng hiểu sự thể ra làm sao hết. Tôi cũng rất điên đầu, không rõ tại sao...

Nhìn dáng vẻ của Phan, Hiển nghĩ anh ta nói thật. Hiển muốn hỏi thêm nhưng đang lúc mọi thứ gấp gáp, súng vẫn còn nổ ở phía bờ sông nên khi giao Phan cho một đội viên du kích dẫn đi, Hiển nói với theo:

- Tau sẽ hỏi mày sau!

Nhưng Hiển không còn cơ hội để gặp và hỏi thêm Phan nữa. Khi đám tù binh bị đưa đi chưa xa thì địch bắt đầu bắn pháo. Một quả pháo 105 nổ quá gần đã cướp đi sinh mạng của một đội viên du kích và ba tù binh vừa bị bắt đang trên đường đưa lên núi, trong đó có Phan…