← Quay lại trang sách

Phần Thứ Hai (VI)

Mười hai năm trời.

Quân không còn nhớ được suốt mười hai năm trời dài dằng dặc kể từ ngày mình bắt đầu ôm súng đến ngày đất nước thống nhất, anh đã đi qua bao nhiêu nẻo đường, đã trải qua bao nhiêu lần tưởng như không còn sống được trên cuộc đời này nữa.

Hầu như tất cả các làng mạc anh đến đều xơ xác, phủ đầy màu tang tóc của cuộc chiến tranh.

Bom đạn chết chóc, máu, nước mắt, lòng dũng cảm, tính ươn hèn… tất cả diễn ra hằng ngày, vào bất cứ lúc nào, không theo một quy luật nào.

Ở lực lượng của huyện, đơn vị Quân năm một chín sáu ba phải liên tục mở những đợt tiến công vào các đơn vị Bảo an để hỗ trợ cho phong trào Đồng khởi đang nở rộ. Thế của lực lượng giải phóng đang đà chiến thắng. Các đơn vị của địch bị phá tan dễ dàng, tuồn tuột, như thế chẻ tre. Hai phần ba đất trong huyện đã thuộc vùng giải phóng. Các ban tự quản đã được thiết lập từ thôn đến xã.

Dù sốt ruột vô cùng nhưng phải đến giữa năm sáu tư, Quân mới được về thăm nhà lần đầu tiên. Hàng xóm láng giềng vây lấy anh mừng rỡ. Cha mẹ anh ôm anh mà khóc. Anh em du kích và những đồng chí cán bộ trong chính quyền mới đến hỏi han và coi anh như một đứa con ưu tú. Quân cũng chẳng ngần ngại kể về cuộc vượt ngục và những trận đánh mình trải qua, làm cho mọi người càng thêm yêu mến, kính nể.

Ngày đó cuộc sống ở Bến Đá Lu chưa bị chiến tranh vắt cho kiệt quệ. Cha mẹ Quân đã làm thịt một con heo khá to để ăn mừng. Ngôi nhà tranh rộn lên tiếng cười của người già, tiếng reo hò của con trẻ.

Tuy vậy, những ngày về quê trong lần đầu tiên ấy, không nói cho ai biết nhưng lòng Quân đầy phiền muộn khi nghe nhắc đến Tường Vi. Anh không ngờ mọi chuyện lại xảy ra với Tường Vi bi đát đến vậy. Trong làng, trong xã ai cũng nghĩ là cô đã chết. Chỉ có bà Hoài, bà già lụ khụ biết rõ là Tường Vi đi đâu. Song bà không nói ra, và rồi cơn bệnh của người già đã cuốn bà về thế giới bên kia, mang theo cả lời tâm sự của đứa con gái út nhà Hội Bang.

Quân lặng lẽ dừng lại trước ngôi mộ của người phụ nữ chết trôi, ngôi mộ nằm giữa bãi tha ma trơ trọi đầy vết chân bò. Lòng anh tê tái hồi tưởng lại giọng nói của Tường Vi, về tiếng nấc nghẹn ngào và hơi thở hổn hển mà cô đã phà vào má, vào tai anh trong những đêm họ vụng trộm với nhau.

Khi đến khu vườn nhà Hội Bang, bước chân Quân dạo khắp. Dòng sông sau vườn nước vẫn trong xanh. Bên bờ kia là vùng địch đóng còn bên này là vùng giải phóng.

- Mày dày dạn và đen đi! - Một buổi chiều, Hiển khoác súng đến thăm Quân và câu nói trên là câu đầu tiên khi hai người bắt tay nhau.

- Còn mày thì trông cao hơn một chút.

Ngồi trò chuyện một lát, Hiển hỏi:

- Chừng nào đi lại?

- Vài ba ngày nữa.

- Không ở thêm được à?

- Ở vậy cũng nhiều rồi.

Không ai dám nhắc đến Tường Vi. Giữa hai người vẫn còn có một khoảng cách vô hình mặc dù ai cũng muốn tỏ ra thân thiện.

*

* *

Giữa năm 1965, khi Quân được điều về một tiểu đoàn độc lập của tỉnh cũng là lúc quân đội viễn chinh Mỹ ào ạt đổ vào miền Nam.

Những trận chiến đấu khốc liệt diễn ra.

Quân không nhớ hết tổng số trận đánh mà mình tham dự, nhưng không bao giờ quên trận đánh dữ dội mà tiểu đoàn của anh đã làm cho quân Mỹ thất điên bát đảo, đồng thời đó cũng là trận mà đồng đội của anh hy sinh rất nhiều.

Từ đêm hôm trước, tiểu đoàn được lệnh hành quân cấp tốc đến một vùng đất có tên là Gò Ganh. Đây là một xã đồng bằng thuộc một huyện vùng sâu - địa bàn trọng điểm mà Mỹ cần phải truy quét và chiếm đóng để bảo vệ căn cứ của chúng.

- Chuẩn bị chống càn! - Mệnh lệnh truyền xuống các trung đội, tiểu đội. Chỉ có vậy, ngắn gọn nhưng công tác kiểm tra chuẩn bị công sự, chuẩn bị các phương tiện đảm bảo cho một trận đánh lớn đã được tiến hành chặt chẽ.

Tất cả các chiến sĩ của đơn vị Quân được bố trí theo một vòng cung trên các vùng đồi chạy quanh một cánh đồng lớn. Tờ mờ sáng, tất cả các đường dây điện thoại liên lạc giữa các bộ phận đã nối xong. Các ổ súng, các địa điểm cứu thương, tiếp vận thực phẩm cũng được sắp xếp đâu vào đó.

Đại đội của Quân vừa là đại đội bảo vệ Ban chỉ huy tiểu đoàn, đồng thời là đại đội trong trận này đảm nhiệm ở mũi nhọn của cái vòng cung đầy gò đồi, mà theo dự đoán của trên cho biết, đây có thể là nơi xung yếu nhất của trận đánh.

Tất cả các chiến sĩ, người nào người nấy mặt mày nhem nhuốc, áo quần ướt đẫm mồ hôi. Chẳng ai kêu ca điều gì vì tất cả đều quen và hiểu mình phải làm gì trong những lúc như thế này. Quân được giao làm B trưởng chưa đầy năm tháng. Sau khi đi vòng một lượt xem xét chỗ ăn nằm của anh em trong các tiểu đội, anh quay về chỗ công sự của mình cầm cục cơm vắt cứng lạnh ăn một cách ngon lành.

- Có lẽ các ông cấp trên tính sai rồi. - Diên, một chiến sĩ cùng hầm với Quân vừa chùi đôi bàn tay dính cơm vào hai bên quần, vừa nói với vẻ mất tự tin. - Nếu càn thì bây giờ chúng đã càn rồi đấy. Bọn Mỹ thì còn lạ gì nữa, trước khi càn bao giờ chúng chẳng rải đầy pháo. Còn ở đây thì cứ tỉnh khô, thậm chí chẳng nghe một tiếng động của súng nhỏ.

- Biết làm sao được. Mình nghĩ cậu nên lăn vào bụi đủng đỉnh kia mà ngủ một giấc có phải hơn không? - Quân vừa sờ vào nòng khẩu trung liên RBĐ băng tròn vừa nhìn ra cánh đồng và nói với Diên. - Nó càn thì đánh, không càn thì ngủ, băn khoăn làm gì.

Bao giờ không khí chờ đợi vào trận đánh cũng là không khí khó chịu nhất đối với người lính. Thà là nhập ngay vào cuộc, chuyện gì đến cứ đến. Đằng này chờ đợi, đầu óc người nào người nấy tưởng như trống rỗng, nhưng ngủ thì chả ai ngủ được, mọi cuộc chuyện trò cũng mờ nhạt, vô vị.

- Anh Quân này, đủng đỉnh lại ra quả buồng trên già hơn buồng dưới, nguyên nhân là sao vậy? - Diên đã đi nằm, nhìn lên lùm cây đầy lá, hỏi Quân.

- Có trời mới giải thích cho cậu hiểu. Mình chỉ biết là năm này nó trổ buồng ở trên năm sau lại ra buồng ở dưới đó một chút. Cứ thế, buồng trên ngọn đã rụng trái đời nào để lại cái cùi khô chơ vơ trong khi dưới gốc lại có một chùm trái non.

- Nó cũng là loại cây lạ đó chứ?

- Ừ thì lạ. Chỗ mình người ta có câu hát về cây đủng đỉnh.

- Hát thế nào? Hát nghe thử!

- Chà, thế này. Câu ca thì đúng hơn. Mình sẽ đọc. - Quân đằng hắng rồi đọc, chủ yếu là để xóa bớt tâm trạng ngột ngạt. - Ba với ba là sáu, sáu với bảy mười ba.

- Câu ca gì mà lạ vậy? Ai mà chẳng biết ba với ba là sáu, sáu với bảy mười ba. Cứ như là làm toán cộng. - Diên cắt ngang, giãy nảy.

- Im thử Diên! - Khá nằm gần đó, lim dim mắt, hóa ra chưa ngủ, lên tiếng.

- Nghe người ta đọc đã chứ. - Quân lại bắt đầu. - Ba với ba là sáu, sáu với bảy mười ba, bạn nói với ta không thật không thà. Như buồng đủng đỉnh trên già dưới non. Bạn nói với ta chưa có vợ con. Vợ con mô đứng khóc ở đầu non tê tề?Bạn nói với ta chưa có hiền thê. Hiền thê mô đứng đó, bạn trả lời thề lại cho ta.

- Hay đấy chứ? - Diên chồm dậy thò tay gãi lưng vì một chú kiến đã lọt vào trong áo. - Mà nè, cái người đàn ông trong câu ca cũng đểu chứ hả?

- Sao lại đểu? - Khá hỏi vặn.

- Thì có vợ có con rồi mà vẫn đi thề thốt với người khác. Anh Quân vừa hát còn gì.

- Thì cậu sau này cũng vậy thôi. Có vợ xong cậu sẽ thèm của lạ và đi thề thốt lung tung. - Khá mở mắt, vừa nói vừa nghiêng về phía Diên.

Khá đã có vợ. Vợ anh đang ở quê. Hình như là đang mang thai. Bao giờ nói đến chuyện quan hệ với phụ nữ anh ta cũng tỏ ra dạn dày.

- Vậy ngoài chị ở nhà ra, anh Khá đã đệm được cô ả nào nữa chưa?

- Tất nhiên là có rồi.

- Láo toét! - Diên bĩu môi. - Le lé như anh mà có được người theo.

- Vậy thì đừng có hỏi. Có đâu như cậu, chưa biết phụ nữ có mùi vị gì.

Diên bị cụt hứng trước cách trả lời của Khá. Cậu ta cười huề rồi quay sang Quân:

- Thế còn anh Quân đã nếm mùi chưa?

- Chưa. - Quân đáp.

- Chỉ có mấy thằng ngu mới không chịu lấy vợ. Cứ thử tưởng tượng đi. Lần đầu tiên nó như cái gì hả? Như thể là được tắm nước ấm, không, như thể là… thật khó diễn tả. Chỉ có lấy vợ rồi mới hiểu nó là thế nào.

Một chiếc máy bay trinh sát loại OV10 xuất hiện và nghiêng nghiêng đôi cánh chao lượn trên bầu trời, tiếng động cơ u u lanh lảnh xóa đi màn u tịch vắng vẻ của buổi sáng.

- Có thể chúng nó bắt đầu rồi đấy. - Quân ôm khẩu trung liên giấu mình vào lùm cây và hét to lên. - Tất cả ngụy trang cho kỹ vào!

Khá nhảy vọt xuống chiếc hầm cá nhân, kéo vòng lá phủ qua đầu. Còn Diên khuôn mặt đang sáng lên bỗng ỉu đi, cậu ta nhào vào bên Quân,lẩm bẩm:

- Có thể chúng càn thật chớ chẳng chơi. Nếu chúng càn xuống đây thật thì phải nói tình báo mình giỏi.

- Chờ thử xem. - Quân vừa đáp vừa nhìn theo vòng lượn của chiếc OV10. Con diều sắt hung hăng với độ bẻ gấp rất căng, chứng tỏ nó đang dò xét biến động ở các gò đồi. Và chỉ mấy phút sau trên bầu trời vang gầm tiếng máy bay phản lực.

- Đánh thật rồi anh ạ! Anh xem kìa, cả hai phi đội phản lực một lúc. - Diên nói và mắt không rời cánh đồng.

Cậu liên lạc của đại đội, vóc người nhỏ thó, che kín bởi vòng lá chà là trên lưng, lúp xúp chạy tới chỗ Quân.

- Lệnh của tiểu đoàn truyền xuống là phải giấu kín. Không được nổ súng vào máy bay, bất cứ trường hợp nào!

- Nghe rồi, còn gì nữa? - Quân nghiêng đầu dưới hầm đủng đỉnh nói với cậu liên lạc. - Cậu báo với đại đội, ở đây mọi thứ đã sẵn sàng và rất nghiêm túc.

- Nó sẽ đổ quân xuống ngay đây đấy. - Cậu liên lạc nói với giọng kẻ cả, làm như mình là đại đội trưởng không bằng, rồi cong người lúp xúp chạy đi.

Xoăoă ă…ổng…đùng! - Một quả rốc két từ chiếc OV10 phóng xuống nổ tung trên ngọn đồi xiên xiên về phía trái cách trung đội Quân chừng năm trăm mét.

- Bắt đầu ném bom. Tất cả xuống hầm hết. - tiếng của Quân truyền đi và anh nghe sau đó ở các tiểu đội cũng vang lên những câu chữ ấy với các giọng điệu khác nhau.

Mặt đất bắt đầu rung chuyển bởi những loạt bom. Hai phi đội phản lực thi nhau đánh xuống trung tâm của đường vòng cung đầy gò đồi. Khói đen khói đỏ trùm kín. Đất đá bị hất tung lên rồi đổ xuống ào ào.

Tai Quân ù hẳn. Giọng khản đặc vì khói thuốc và bụi cát.

- Không được bắn máy bay. Không được để lộ. - Quân ho lấy giọng rồi lần nữa truyền lại lệnh của đại đội qua bầu không gian xám xịt. Anh không hiểu trong trung đội của mình đã có ai bị thương tích gì chưa. Bụi đủng đỉnh trên miệng hầm bị mảnh bom, một cây đã ngả gục xuống.

- Bịt nòng khẩu trung liên lại, đất vào đấy!

Quân nghe Khá gào to. Và Diên chồm lên trên miệng hầm kéo khẩu súng băng tròn xuống.

Mọi người chỉ còn cách ngồi cong lưng trong lòng căn hầm cá nhân mới đào. Các trận bom liên tục giáng xuống trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Tiếp đó, trong vòng hỗn loạn của không gian sặc mùi lửa đạn, chết chóc, trên bầu trời, những chiếc máy bay lên thẳng hình sâu voi có hai chong chóng xuất hiện thành đàn, đông chẳng khác nào chuồn chuồn vào những lúc gió heo may. Kèm theo đàn sâu voi là những chiếc máy bay tác chiến HU1A, loại cá lẹp, chúi đầu sát các ngọn cây vừa bắnrốc-két vừa nhả những tràng đạn thẳng.

- Chúng nó đổ quân xuống rồi! - Ai đó hô to, giọng khản đặc.

Quân gác khẩu tiểu liên báng xếp lên thành hầm, gần bên nòng khẩu trung liên.

Bọn Mỹ đổ xuống đồng đông vô kể, không ai có thể đếm được, vừa đổ chúng vừa tiến. Chẳng hiểu có cuộc vật lộn nào trong các bộ óc đang chỉ đạo trận đánh này không, nhưng rõ ràng bọn Mỹ cũng chia thành ba mũi tiến vào đội hình thuộc đơn vị của Quân.

Đầu Quân càng lúc càng căng ra, vì bọn Mỹ đang tiến vào trước mặt anh trên những thửa ruộng bậc thang, càng lúc càng gần.

- Nổ súng chứ? - Diên lay vai Quân.

- Khoan đã. Để chúng vào gần thêm. - Tiếng Quân run lên và anh chỉ lo một điều là biết đâu ai đó trong những người đang chờ đợi sẽ không thực hiện nghiêm túc được mệnh lệnh.

Thời gian trôi chậm tưởng như có thể đếm được. Nhưng rồi chẳng ai có thể nghĩ gì khác ngoài việc quan sát và siết cò súng. Khẩu tiểu liên trong tay Quân rung lên. Cả một vùng gò đồi cũng đồng loạt sôi lên trong đợt xung phong dữ dội của tiếng súng, tiếng lựu đạn. Tất cả hỗn tạp và ầm vang chẳng khác nào đang ở giữa cơn động đất.

Quân chỉ nhận thấy những thằng Mỹ đi đầu đã gục nhào từ những loạt súng đầu tiên. Diên đã thò lên khỏi miệng hầm, hai má bạnh ra, cậu ghì lấy khẩu trung liên mà bắn với vẻ hả hê thích thú.

Bọn Mỹ đi sau đã nằm xuống và phản công rất mãnh liệt. Sau đó vừa phản công chúng vừa tràn lên.

- Kìa, anh Khá bị rồi.

Quân nghe tiếng Diên kêu to hoảng hốt. Anh nhìn sang bên trái và thấy Khá đang nằm ngửa người trên miệng hầm, máu đỏ lênh láng ở ngực. Nhưng Quân không thể chạy lại được. Bọn Mỹ đang tràn lên như những con thiêu thân.

- Bắn đi các đồng chí ơi! - Quân ôm khẩu súng ngang hông mà la, mà bắn, không còn đủ thì giờ để ngắm vì chúng đã đến quá gần.

Suốt buổi sáng trận đánh diễn ra càng lúc càng ác liệt. Bị đẩy lùi, bọn Mỹ gọi pháo, gọi bom, sau đó lại tiến lên.

Trong lúc Quân cùng một số người nữa đang lo việc chuyển số anh em thương binh ra phía sau đồi thì cậu liên lạc đến gọi anh:

- Về gấp Ban chỉ huy đại đội. Lệnh khẩn!

- Chuyện gì vậy?

- Rất gấp, đề nghị đồng chí đi nhanh đi.

Trong căn hầm của Ban chỉ huy đại đội, Quân bàng hoàng nhận được tin cả ban chỉ huy của Tiểu đoàn vừa bị bom vùi hết.

- Bây giờ việc chỗ cậu giao lại cho người khác. Cậu hãy giúp Phước chỉ huy đại đội. Mình phải lên lo công tác của tiểu đoàn. Nhận việc ngay bây giờ. Dưới trung đội sẽ có người lo.

Trong cơn mưa bom mù mịt, Quân chưa hiểu phải làm việc gì. Anh định hỏi Phước. Nhưng một tiếng nổ long trời đã đánh bật căn hầm hất tung Quân ra chân một bờ tre. Mắt Quân nảy đom đóm. Mọi thứ quanh anh cứ quay tròn, quay tròn. Anh nghe tiếng súng nổ liên tiếp nhưng ở đâu đó rất xa vọng tới chứ không phải ở quanh mình…

*

* *

Mặc dù không có vết thương nào nhưng Quân đã bị sức ép nặng của bom nên ngất đi. Khi được đưa vào quân y viện của tỉnh đóng trên núi cao phải đến hơn một tháng trời Quân mới khỏi. Khi trở lại đơn vị Quân mới rõ đầy đủ các chi tiết về trận đánh mà mình tham dự và bị thương. Đó là trận đánh mà đồng đội anh rất nhiều người đã hy sinh.

Về đơn vị cũ một tháng trời, do nhu cầu công tác, Quân được điều về Khu và được bổ sung qua công tác an ninh. Công việc mới rất phức tạp song do chịu khó học hỏi nên Quân đã đuổi kịp yêu cầu của đơn vị. Năm đó Quân yêu Thu - cô y tá của cơ quan. Đến cuối năm Thu mang thai. Họ sinh ra thằng bé Lân. Ai nấy đều mừng rỡ. Một năm sau dịp Tổng tấn công Mậu Thân, trước bao khó khăn, mẹ con Thu được lệnh cho chuyển ra tuyến sau - hậu phương miền Bắc, còn Quân tiếp tục ở lại miền Nam. Đến năm đất nước thống nhất họ mới gặp lại nhau và do yêu cầu công tác, Quân lại được chuyển thẳng về công tác tại thành phố miền Trung này cùng với vợ con…

… Hóa ra Tường Vi không chết! Thế thì ngôi mộ nằm trên bãi tha ma đầy vết chân bò mà mình đã đến kia là của ai? Trước mắt Quân là tấm màn bí mật chưa được vén lên. Những năm qua Tường Vi sống ở đâu, làm gì? Phải hỏi. Tất nhiên rồi, không thể không đến thăm vợ chồng họ. Sau khi gặp Tường Vi, nhiều ngày liền Quân trăn trở với những câu hỏi và anh nghĩ, nhất định mình phải gặp lại người yêu cũ để hỏi.

*

* *

Hai Tất cố giấu Tường Vi về công việc làm ăn của mình nhưng rồi Tường Vi đã hiểu và cô phát hoảng. Chẳng lẽ Hai Tất lại lao vào con đường bẩn thỉu ấy? Cô không tin nhưng rồi cô phải tin vì chính Hai Tất cũng đã nói thật về điều đó - Hai Tất đã trở thành gái làm tiền.

Cả một tuần liền khi nhận ra mình sống nhờ Hai Tất qua những đồng tiền thu được bằng việc bán đi hương sắc xác thịt, Tường Vi đau khổ, chán ngán, muốn bỏ trốn khỏi nhà. Hai Tất đi suốt đêm, có đêm không về căn nhà nhỏ của mình. Còn ban ngày thì ngủ suốt buổi với dáng mỏi mệt. Chị ta hút thuốc, uống rượu như một gã đàn ông nghiện ngập, có lúc về nhà say khướt, nôn mửa đầy phòng.

Tường Vi ứa nước mắt. Đi đâu bây giờ? Giữa vùng đất đô thành bon chen này mình sẽ sống bằng gì? Tường Vi muốn dứt ra mà không có cách nào dứt được. Hay là đi buôn bán? Vốn đâu? Từ bé đến giờ cô chưa biết buôn bán là gì. Cô gầy rộc đi vì lo lắng. Tường Vi hiểu rõ, cô sống nhờ Hai Tất chẳng qua là bước đường cùng và cô cũng không hình dung được ngày mai chuyện gì sẽ đến với mình.

Đành phải từ từ kiếm đường mà gỡ. Tường Vi vắt óc ra suy tính. Nhưng rồi trong lúc chưa tính toán được gì thì Hai Tất bị đau liệt giường. Đồ đạc trong nhà lần lượt đem đi bán hết để lo thuốc thang, cơm cháo cho chị.

Tường Vi lần lượt bán đi mọi thứ mà trước đó Hai Tất có được. Làm gì bây giờ? Chẳng lẽ chị ấy thương mình, lo cho mình mà bây giờ để chị ấy chết? Chịu ân huệ của Hai Tất quá nhiều nên Tường Vi không bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ mặc chị. Lòng cô quặn đau khi thấy đôi mắt vàng vọt thiếu sinh khí của người bệnh nhìn mình.

Buổi chiều cuối cùng khi trong nhà không còn một đồng bạc để mua gạo nấu cháo, Tường Vi đành hỏi các nhà chung quanh hòng tìm việc gì đó làm kiếm đôi đồng. Song kết quả thật ngao ngán, bế tắc. Tường Vi ôm lấy mặt mà khóc âm thầm trên chiếc ghế đá ở công viên: “Thôi mặc, chuyện gì xảy ra thì cứ xảy ra, đời mình coi như bỏ đi. Số mệnh đã dành cho mình như vậy rồi”. Tường Vi đấu tranh mãi, và để thoát khỏi sự tuyệt vọng, buổi tối hôm ấy, cô miễn cưỡng bước đến ngôi nhà có bức rèm xanh treo trên cửa sổ gần chợ Bến Thành - nơi mà đêm đêm Hai Tất hay lui tới.

Tường Vi đứng trước hàng hiên một lúc lâu, trong tâm trạng vừa muốn bước vào vừa muốn bỏ chạy. Cuối cùng, cô mím môi gõ cửa. Một người đàn bà to béo, xúng xính trong bộ đồ hoa sặc sỡ, mở cửa nhìn ra, thấy Tường Vi, ngạc nhiên:

- Cô muốn hỏi ai?

- Cháu là em chị Hai Tất. - Tường Vi xấu hổ đáp, không dám ngước mặt lên.

- Con bé đó chưa hết ốm à?

- Dạ, chưa.

- Cô định đến đây có việc gì?

- Cháu… muốn kiếm tiền.

Đôi hàng lông mày của người đàn bà hơi nhếch lên, mắt nhìn cô chòng chọc như không tin điều vừa nghe thấy.

- Gái lành hả? - Mụ hỏi tỉnh bơ.

Tường Vi lắc đầu:

- Cháu đã một lần…

- Lỡ làng vì một thằng đểu nào đó chứ gì? Không sao… Vào đây! - Người đàn bà to béo nắm lấy tay Tường Vi dẫn vào phòng sau và gọi với lên lầu. - Chúng mày ơi! Nói với bà là có một tiểu thư xinh đẹp đến đây này.

Cái tiếng “tiểu thư” như muối xát vào lòng Tường Vi? Cô cũng chẳng rõ người đàn bà muốn châm chọc cô hay đó chỉ là cách gọi quen thuộc của bà ta. Thì ra, không như Tường Vi tưởng, người đàn bà to béo ấy không phải là chủ của ngôi nhà mà chỉ là kẻ giúp việc. Chủ nhà là một phụ nữ tuổi trên bốn mươi, người gầy, cằm nhọn, đôi mắt kẻ chì đen thẫm, sắc sảo đến lạnh lùng. Tuy vậy bà ta cũng có một vẻ đẹp riêng, cặp chân thon dài, mình khoác chiếc váy, có dây buộc ngang eo, mái tóc uốn cao trông rất quý phái.

- Lần đầu vào nghề hả? - Bà chủ hỏi sau khi chỉ Tường Vi ngồi vào ghế.

- Em của Hai Tất đó cô! - Người đàn bà mập hăm hở đáp lời chủ, như thể việc Tường Vi đến đây là nhờ công lao của bà.

- À… à… à... Em ruột hả? - Hơi nhếch mép, người phụ nữ ngồi đối diện cô hỏi với ý ngờ vực.

- Dạ không, em bà con thôi. - Tường Vi lúng túng trả lời và cô nhận thấy bà chủ nhà chứa có vẻ hài lòng trước sự lúng túng, ngay thật của cô.

- Được rồi. Ngồi xuống đây với chị.

Tường Vi ngồi vào chiếc ghế sa lông đệm bọc da màu đỏ sậm bóng bẩy. Cô nhìn quanh căn phòng và không ngờ nơi làm ăn đáng tởm này cũng chẳng khác những ngôi biệt thự của các nhà quyền quý là mấy. Trên tường treo một bức tranh sơn mài có hai con ngựa đang phi.

- Tối nay em bắt đầu chứ? - Bà chủ nhỏ nhẹ hỏi. - Chị tên Liên. Cứ gọi chị Liên là được rồi.

Khi được đưa tới căn phòng khác, Tường Vi thấy ở đó có tới sáu cô gái trạc tuổi mình, tất cả đang ngồi ở những chiếc ghế nhỏ. Người nào người nấy mặt trát đầy phấn, áo quần bảnh bao. Họ nhìn Tường Vi với vẻ kẻ cả rồi xầm xì với nhau.

Đêm hôm ấy, Tường Vi được người khách đầu tiên đến nhà chứa dẫn đi.

- Thằng cha này giàu lắm nghen! Cố gắng mà móc cho nhiều vào!

Bà chủ nhà chứa dặn nhỏ Tường Vi trước khi cô bước ra cửa.

Tường Vi run lên, không rõ mình được đưa đi đâu song không dám hỏi. Thôi đành nhắm mắt đánh liều. Khi ngồi vào chiếc xe du lịch màu sữa sạch bóng, Tường Vi mới dám quan sát người đàn ông đưa mình đi. Ông ta trạc tuổi dượng Tân nhà cô song cứng cáp hơn. Ông lái xe một cách thành thạo. Hàng ria đen dày chốc chốc lại rung rung.

Chiếc xe du lịch chạy qua những con đường có ánh đèn sáng rực.

- Cưng đi ăn một chút gì với anh chứ? - Người đàn ông hỏi Tường Vi.

Cô ngước mắt nhìn khuôn mặt đang hăm hở của ông và gật đầu.

Họ dừng lại trước một quán hủ tiếu dưới hàng me đông khách. Người đàn ông gọi cho Tường Vi một lon coca cola, còn ông ta uống bia. Họ uống và ăn hủ tiếu, sau đó về một căn phòng sang trọng ở một khách sạn đã được thuê trước.

Giây phút đầu tiên trước bóng đèn điện không tắt, Tường Vi cứ ngồi im ở đầu giường. Cô muốn bật khóc khi thấy người đàn ông đã cởi quần áo, chỉ còn mặc độc một chiếc quần lót ngắn cũn cỡn, bó sát.

- Sao vậy hả cưng? Buồn chuyện gì à?

Tường Vi ngập ngừng chẳng biết nên nói gì và làm gì. Cô cố tỏ ra bình tĩnh nhưng tay chân cứ run lẩy bẩy. Người đàn ông chẳng vội vàng. Ông ta đi đi lại lại trong phòng, rồi kéo tấm drap trải giường cho thẳng. Ông nhìn cô chằm chằm.

Cô gái thấy người nóng ran vì xấu hổ. Nhưng người đàn ông hào hoa như hiểu được tâm trạng ấy, bèn ngồi dang tay ôm lấy cô. Hàm ria mép đen cứng áp chặt vào vành môi làm Tường Vi khó chịu song cô không dám vùng vẫy, chỉ nhắm mắt, mặc cho mọi chuyện trôi đi.

Tuy người đàn ông có vẻ già nhưng ông còn rất khỏe. Ông ta vờn Tường Vi chẳng khác nào mèo vờn chuột.

- Tắt đèn đi! - Tường Vi không chịu được cảnh mọi thứ cứ trần trụi phơi bày trước mặt.

- Tắt làm gì, để vậy mới thích! - Người đàn ông nói rồi như con thú say mồi, ghì chặt lấy cô.

Tường Vi mệt nhoài, chỉ mong mọi chuyện sớm kết thúc. Nhưng mọi chuyện không như cô muốn. Đêm hôm ấy vì quá khuya, không thể về nhà được nữa nên Tường Vi phải ở lại khách sạn… Sáng ra, người đàn ông trả cô về căn nhà có rèm cửa xanh và trao cho cô một ngàn đồng. Tường Vi giao số tiền trên cho người chủ - chị Liên, và được nhận lại một nửa. Cầm mấy tờ giấy bạc mới toanh trong tay, mắt Tường Vi ráo hoảnh. Cô cũng không muốn khóc nữa. Cô biết có khóc cũng chẳng được tích sự gì.

“Chỉ làm một thời gian rồi từ từ bỏ hẳn cái công việc đáng ghê tởm này đi”. Tường Vi tự nhủ với mình song đời cô cứ trôi tuồn tuột từ ngày này sang ngày khác. Mọi thứ không còn rụt rè như buổi ban đầu nữa. Tường Vi luôn luôn uống thuốc, thực hiện cách ngừa thai, và dần dà cô biết cả cách moi tiền của khách làng chơi, biết cách làm cho sớm kết thúc cơn dục thú của các gã đàn ông.

Tường Vi chẳng hiểu sao, bọn trai trẻ tìm đến với cô, đứa nào cũng quan tâm hỏi han về hoàn cảnh, đại loại: “Vì đâu em lại lâm vào cảnh này?”. Cả một duộc như nhau, hỏi thì hỏi mà lao vào hành hạ cô thì chúng vẫn lao vào. Có thằng làm xong chuyện nhục nhã ấy lại tỏ ra ân hận, lo sợ, hỏi cô có mắc chứng bệnh gớm ghiếc nào không. Có tay hào hoa cho thêm tiền nhưng cũng có tay tiền đầy túi mà vẫn cò kè đòi hạ giá.

Đôi lần Tường Vi nhìn thấy chính Đức Cường, người anh trai con của dì mình đến tìm nguồn truy hoan ở nơi cô “làm ăn”. Những lúc ấy Tường Vi như kẻ trộm ù chạy, giấu mặt vào trong nhà tắm.

Ngao ngán, đau đớn, mỗi ngày Tường Vi càng thêm một ê chề. Hai Tất khỏi bệnh cũng đi vào con đường cũ. Những chiều mưa, hai chị em thường ngồi bên chai rượu giải cơn buồn. Ngày ấy, đô thành Sài Gòn ngập đầy lính Mỹ ngụy. Hàng hóa bày bán tràn ngập trên các đường phố. Và nghề kiếm sống bằng việc bán nhan sắc mỗi ngày một phát triển, công khai. Một hôm, Tường Vi vừa về đến nhà thì nhận được tin từ người chạy xe thồ mang tới: Hai Tất bị thương đang nằm trong bệnh viện.

Tường Vi khóa vội cánh cửa, nhờ người chở tới nơi Hai Tất đang cấp cứu.

Trên giường bệnh, Hai Tất nằm bất động, từ bụng tới ngực quấn đầy băng trắng, nhiều chỗthấm máu.

- Chị Hai! Sao lại ra nông nỗi này? - Tường Vi sà sát vào người phụ nữ khốn khổ. - Sao lại ra nông nổi này hả chị?

Nhưng Hai Tất nằm yên như một cái xác. Theo lời của mấy cô bạn cùng làm chỗ Hai Tất thuật lại, chị bị một tên lính say rượu nào đó quỵt tiền, gây gổ rồi dùng dao đâm chị xong bỏ trốn biệt tăm.

Người ta đã không cứu được Hai Tất vì vết thương quá nặng ảnh hưởng đến tim. Từ đó, Tường Vi còn lại một mình. Buồn bã. Trống trải. Nhiều lúc Tường Vi tự hỏi: “Mình sống để làm gì?” nhưng chẳng còn cách nào khác, ngày ngày, cô lại phải đến ngôi nhà có treo tấm mành xanh treo nơi cửa sổ.

Thế rồi một buổi chiều…

*

* *

Quân chính là cha của thằng Lân…? Hiển nằm suy nghĩ và thấy lạnh, kéo tấm chăn để quấn. Anh không sao ngủ được. Vòng đời sao lại chật hẹp đến mức này? Từ lâu Hiển đã nơm nớp lo sợ, nghĩ đến ngày anh sẽ gặp một ai đó trong số những người mình quen biết. Thì ra cái ngày ấy là hôm nay đây, và người trong số ai đó anh lo sợ sẽ gặp, lại chínhlà Quân.

Hiển nghe phía giường của vợ thỉnh thoảng có tiếng cựa mình, không hỏi nhưng Hiển cũng biết Tường Vi chưa ngủ. Anh không rõ cô đang nghĩ gì. Anh tự phỏng đoán mà không tài nào hình dung được những chuyện rồi đây sẽ xảy đến với mình. Ta phải làm gì bây giờ? Thế nào Quân cũng đến đây. Sẽ ăn nói ra làm sao, khi nhìn mặt nhau? Chắc chắn Quân đã rõ mười mươi mọi chuyện. Càng nghĩ tới chuyện gặp Quân, Hiển càng thấy thương mình.

… Hiển vẫn còn nhớ, lúc đó đang giữa chiều, khi ánh nắng trải đầy trên những đám sắn non thì anh cùng Quang, Huy và Chiến, bốn đứa đã ôm súng, lách qua cái gò cây lúp xúp ở sau nhà xã Quảng và lần lượt chui vào bãi sắn non.

- Này, cẩn thận, chúng mày ơi! Dừng lại ở đây thôi! - Quang đi đầu, đứng lại bảo.

- Sợ gì. Chúng ở bên kia góc ruộng. Phải cố xem thử bọn chúng đang làm gì. - Chiến tỏ ra không đồng tình với Quang và lướt tới trước.

Huy cũng tỏ ra chín chắn, dừng lại nhìn qua bên kia hóc ruộng, nơi mà mấy ngày qua một đơn vị biệt động của ngụy đã càn quét và chốt lại.

- Hai đứa chúng mày đứng đây! - Chiến nói với Quang và Huy. - Thằng Hiển với tau sẽ bò tới cuối vườn xem động tĩnh ra sao.

- Đi! - Hiển hưởng ứng và ôm khẩu súng trường lom khom bước theo Chiến, bỏ Huy và Quang ở lại phía sau.

Họ bắt đầu bước chậm. Đó là những bước chân đầy kinh nghiệm đã từng bám sát lưng bọn Mỹ, bọn ngụy đi càn để đánh. Lần này họ không có ý định đánh lớn, nhưng dù sao cũng phải nắm cho sát tình hình và ít ra cũng “quấy” cho bọn biệt động quân này sợ mà rút.

Chẳng mấy chốc Chiến và Hiển đã đến cuối vườn. Một tốp chừng bốn, năm tên lính ngụy mặc đồ rằn ri đang chụm đầu lại nấu nướng gì đó dưới gốc xoài ở khu vườn bên kia hóc ruộng.

- Này, làm cho bọn kia một băng đi! - Chiến vừa giương súng lên kê vào bụi gai quýt vừa nói với Hiển.

- Hai đứa cùng bắn, rồi chạy ngay. - Hiển cũng kê súng trên một cành cây và trả lời bạn.

Nhưng phía sau họ đột ngột vang lên một loạt tiểu liên chát chúa. Tiếp sau đó bao nhiêu loạt súng nữa, kèm theo cả tiếng lựu đạn và tiếng cối M79. Mọi dự tính của Hiển và Chiến bỗng dưng đảo lộn cả.

- Cái gì vậy, Chiến? - Hiển hỏi và quay lại.

- Mình bị phục từ phía sau rồi. - Chiến nói, mặt không còn một chút sắc khí.

Để thoát thân, hai người liền chạy dạt qua phía một bụi gai mây um tùm và chẳng ai còn nghĩ tới Quang và Huy đang ra sao. Bọn lính phục kích la hét ầm ĩ và bắt đầu lùng sục khắp vườn sắn. Để khỏi lọt vào tay bọn biệt động quân, sau khi nổ mấy loạt súng chống trả, Hiển bàn với Chiến phải tìm cách vượt qua cánh đồng.

- Chúng nó nhìn thấy mất. - Chiến tỏ ra do dự.

- Kệ mẹ chúng nó, chạy! - Hiển nói dứt khoát và cầm lấy súng, vọt qua lùm cây lúp xúp, vượt qua đồng. Bỗng dưng anh ngã chúi nhũi vì bắp vế trái như bị ai nện cho một thanh gỗ, tê dại.

Hiển thấy Chiến lao vụt qua trước mắt mình. Hình như anh ta không biết Hiển ngã, cố chạy bán sống bán chết trước tiếng la ó và trước tầm đạn xối xả.

Lúc đầu Hiển nghĩ mình bị vấp nên nhào, chân tê dại vì bị đập vào vật gì đó. Anh tin rằng mình sẽ lấy được đà chạy tiếp. Hiển chống tay gượng dậy, nhưng mắt anh tối sầm lại. Chân trái vừa tê, vừa nặng, không chịu sự điều khiển của anh nữa.

- Trời ơi, bị thương rồi… - Hiển kêu lên một mình và bất lực nhìn đùi trái, máu đã lan ra ướt cả mảng quần.

Cánh đồng mới gặt xong đầy những thân rạ. Hiển không còn một chút lạc quan nào để hy vọng rằng mình có khả năng khỏi bị bắt. Tuy vậy, anh cố lê người vào cái bờ ruộng thấp đầy cỏ xanh ở gần đó và một tay kéo theo khẩu súng nặng. Anh thoáng tính đến chuyện mình sẽ nổ vài phát để bọn địch không dám trườn tới. Song súng không còn đạn và tính toán của Hiển đã quá muộn. Hai tên biệt động đã thấy anh, và chúng cùng phóng tới đè lấy anh, tước đi khẩu súng. Một thằng còn ấn cổ Hiển xuống bẻ quặp hai tay anh ra sau để trói.

Khi Hiển bị kéo lê vào, đặt nằm trên nền một ngôi mộ vôi, anh hoảng hốt khi thấy xác của Quang và Huy đã đặt nằm cách mình chỉ mấy mét, thân thể cả hai bê bết máu.

- Chúng mày có mấy đứa, hả? - Một tên lính trạc tuổi Hiển lăm lăm khẩu súng ngắn trong tay, hỏi.

- Bốn. - Hiển đáp và anh thấy chẳng cần giấu giếm.

Một tên khác có lẽ là y tá dùng dao găm rạch toạc chiếc quần của Hiển và băng vết thương cho anh.

- Để em cho nó một băng, thiếu úy! - Tên lính đội mũ sắt có khuôn mặt giận dữ, chĩa súng thẳng vào ngực Hiển và nói với tên cầm súng ngắn.

- Không được, để nó đó cho tau. - Viên thiếu úy nói và gạt mũi súng đang chĩa vào ngực Hiển.

Tra hỏi đủ thứ, cuối cùng bọn lính rút khỏi khu vườn và một tên dìu Hiển qua ngọn đồi bên kia hóc ruộng, nơi chúng đóng chốt. Ở đây, thêm một lần nữa, bọn sĩ quan lại xúm lại tra khảo Hiển, tiếp tục dọa dẫm bắt anh phải trả lời những điều chúng tra hỏi. Rồi chừng tiếng đồng hồ sau, một chiếc trực thăng, hình như là tiếp tế thức ăn, đã hạ cánh trên đồi, nơi bọn lính biệt động đóng quân. Trước vòng quạt đầy bụi đất của động cơ máy bay, hai tên lính khiêng Hiển vứt vào cái sàn sắt. Chiếc máy bay nhấc lên, mang theo Hiển.

*

* *

- Chú mày hãy nghĩ kỹ đi!…

Hiển nhớ là anh đã bị trượt xuống cái dốc bóng nhẫy của cuộc đời không phải vào lúc mới bắt đầu bị bắt mà là lúc anh được chuyển từ sân bay ra nhà thương của quận. Mọi thứ cứ ập đến bất ngờ không có điều nào khớp với dự đoán của Hiển cả. Nhiều tên cán bộ của địch ở Bến Đá Lu đang sống tại khu dồn của quận đã đến thăm anh. Trong số những người ấy, Hiển nhớ tới nhiều nhất là Thiết, người đã thuyết phục anh, và bây giờ khi hình dung lại mọi điều, anh thấy trong lòng vô cùng căm ghét ông ta.

- Chú mày hãy nghĩ kỹ đi! Chú mày chỉ bị Việt Cộng tuyên truyền thôi. Theo anh bây giờ chỉ còn cách chiêu hồi. Chính phủ quốc gia luôn luôn khoan hồng đối với những đứa con lầm lạc.

Giọng của ông Thiết cứ êm êm đều đều làm Hiển khó nghĩ. Anh nằm trên chiếc giường lò xo của nhà thương và lúc đầu không thèm đáp lại. Chiêu hồi. Quả là nhục nhã nếu anh ký vào cái giấy mà ông Thiết đã để trên đầu giường. Thà là chịu làm tù binh. Chứ chiêu hồi thì còn mặt mũi nào nhìn ai?

Hiển quyết định không ký vào tấm giấy đã in sẵn. Nhưng buổi chiều hôm sau vẫn ở nhà thương, viên bác sĩ quân y cầm trên tay một chiếc xi-lanh đầy thuốc cùng với ông Thiết đã vào bên giường Hiển.

- Tao hỏi mày. Mày bị bắt rồi, tau khuyên mày chiêu hồi là để cứu mày, vì là cùng quê, cùng quen biết. Thử hỏi tau được cái gì hả? Đấy, mày xem,xi-lanh thuốc độc này và ký vào giấy chiêu hồi để được tự do, mày chọn đường nào?

Hiển kinh ngạc trước lời lẽ của ông Thiết, người cùng quê ở Bến Đá Lu - một cán bộ ở phòng thông tin chiêu hồi quận. Anh nhìn vẻ mặt lạnh như tiền của viên bác sĩ, với ống thuốc đang cầm trong tay nhẹ nhàng, ung dung.

Lẽ nào như vậy?… Thần kinh Hiển bị dao động. Người ta sẽ chích thuốc độc vào mình sao? Anh thấy cơ thể rã rời, như thể thuốc độc đang lan vào máu.

Hiển nhận ra hoàn cảnh của anh chẳng khác cá nằm trên thớt. Anh ký vào tờ giấy lòng đau đớn khôn nguôi. Nước mắt lặng lẽ chảy vào trong.

- Phải như vậy chứ! - Vị cán bộ vận động chiêu hồi thốt lên với vẻ thỏa mãn. - Ít ra chú mày cũng không phụ công tau.

Còn viên bác sĩ thì nhìn Hiển với ánh mắt khinh thị, lạnh lùng. Ông ta đẩy cho nước từ ống chích bắn ra cửa sổ rồi vứt xi-lanh vào sọt rác, im lặng quay đi.

Mấy hôm sau, Hiển được đưa về nằm tại bệnh xá thuộc trung tâm chiêu hồi tỉnh. Vết thương lành hẳn, tuy không bị gãy xương, nhưng một đường gân chính của chân trái bị cắt đứt làm cho Hiển đi lại không được bình thường.

Tiếp tục học tập tại trung tâm chiêu hồi một tháng nữa, Hiển được phóng thích. Những người khác bị động viên vào lính, còn anh, may mà bị thương thành tật ở chân nên không bị bắt vàodiện trên.

Đối với Hiển, những ngày ấy là những ngày buồn thảm nhất của cuộc đời. Anh đi lang thang, chẳng biết phải về đâu, mọi ước mơ như đã mất hết, anh muốn đâm đầu vào một cái bốt Mỹ nào đó để bọn chúng bắn chết anh, song anh không đủ can đảm. Anh trở về thị trấn của quận và sống nhờ nhà một người quen. Ông bà nội và Ngân, đứa em gái của Hiển, lúc này đang còn sống ở Bến Đá Lu. Hiển nhớ họ nhưng anh hiểu rằng dù mình có vượt sông trở về với con đường cũ cũng không được nữa rồi. Những người dân Bến Đá Lu có thiện cảm với cách mạng, sống ở thị trấn của quận đều biết rõ anh là kẻ chiêu hồi. Nhiều người thấy anh, quay mặt, không thèm hỏi.

Hiển buồn chán và quyết định phải bỏ đi thật xa, đừng để gặp một ai quen biết. Anh lặng lẽ ra Đà Nẵng và nhảy lên xe đi Sài Gòn, mong rằng sẽ tìm được nơi nào đó nương náu, lẩn trốn mọi người, lẩn trốn chính mình.

Nhưng đặt chân đến đô thành xa lạ, Hiển mới thấy mình điên rồ. Anh không quen biết ai ở nơi đô hội này cả. Anh chẳng khác nào một con kiến bò giữa bãi cát ban trưa. Ai thuê việc gì anh cũng làm và có được đồng nào anh tiêu hết đồng đó. Anh đi lang thang, đêm ngủ các gốc cây bên đường, như một gã ăn mày.

*

* *

… Thế rồi một buổi chiều.

Bụng đói cồn cào, người xộc xệch bẩn thỉu, Hiển bước từng bước chân chậm chạp qua xóm phố nghèo nàn. Anh dừng lại trước một ngôi nhà và không còn thấy xấu hổ là gì, quyết định xin một miếng gì đó ăn cho đỡ đói.

Nhưng Hiển lạnh toát cả người khi thấy chủ nhà - một người phụ nữ đã bước ra bục cửa nhìn anh. Hiển quên cả cơn đói, cổ anh tắt nghẹn, ú ớ:

- Tường… Tường Vi phải không?

- Ơ..ơ… Hiển. Anh đi đâu trong này?

Tường Vi mời Hiển vào nhà, hỏi han mọi điều. Hiển chẳng hề giấu giếm chuyện ở quê. Tường Vi cũng tường thuật lại những năm tháng mình ra đi, nhưng cô giấu biệt việc đi "làm tiền". Đuổi đi thì không nỡ, để ở thì chẳng xong. Tường Vi lúng lúng, song tiếng gọi sâu thẳm của lương tâm thôi thúc cô mời Hiển ở lại. Và rồi sau những đêm mệt nhoài vì bị bóp nghẹt trong vòng tay của những gã đàn ông, Tường Vi tự hỏi: Mình sẽ sống mãi trong cảnh này ư? Mà sống mãi thế này cũng chẳng được nữa. Người ta chẳng cần đến những phụ nữ đã sắc tàn hương lạnh. Hay là lấy Hiển? Khuyên Hiển nên ở lại đây, và tại sao lại không có thể…?

Sự dạn dày từng trải qua cuộc sống đã làm mất đi tính rụt rè trong Tường Vi.

Một buổi tối, Tường Vi quyết định không đi làm. Cô ngồi thừ ở ghế và chẳng biết nên nói gì với Hiển. Một thoáng ân hận về cách xử sự của mình với Hiển ngày nào xuất hiện trong Tường Vi. Song đã vượt qua. Cô thấy Hiển chẳng đến nỗi nào. Ở hoàn cảnh thế này tại sao lại không có thể… Tường Vi gạt bỏ tất cả những mặc cảm, những quy ước về đạo đức của người phụ nữ, bước tới ngồi bên Hiển.

- Anh không cần phải đi nữa. - Cô nắm chặttay anh.

Họ sống với nhau từ đó. Không hôn thú. Chẳng cưới xin. Tường Vi biết mình lấy Hiển chỉ để ổn định cuộc đời, để giải thoát cảnh sống xô bồ, không lối thoát của mình. Tuy vậy, dần dà cô quý Hiển và chăm sóc anh như một người chồng. Được một số vốn đã dành dụm, Tường Vi bỏ việc đi đón khách và mở cái quán nho nhỏ trong nhà thuê được để bán các thứ tạp hóa. Hiển mua một chiếc xích lô ngày ngày đạp thuê để kiếm tiền.

Năm sau họ sinh bé Kiều Vân. Cả hai vợ chồng vui mừng khôn xiết và cuộc sống cứ thế trôi đi đều đều. Cho đến lúc Kiều Vân tròn bảy tuổi, có một người bạn cùng nghề xích lô với Hiển mách bảo rằng ở tại thành phố miền Trung có điều kiện sinh sống dễ hơn, Tường Vi liền đề nghị chồng đi xem thử. Họ chuyển đến thành phố biển miền Trung này, thuê nhà và với số tiền dành dụm, Tường Vi xin mở một quầy bán hàng ngoài chợ.

Ngày đất nước giải phóng, mọi người reo hò, mừng vui, còn Hiển thì buồn rười rượi. Anh ít ra đường, trừ khi phải ngồi ở quầy hàng thay vợ. Lòng anh như ướp trong đá mỗi lúc nhớ đến ông bà nội và Ngân, đứa em gái của mình. Song anh không dám về thăm, coi như họ đã mất. Suốt ngày hễ rảnh rỗi, anh liền vùi đầu đọc bất cứ quyển sách nào, chỉ mong thời gian chóng trôi.

Vậy mà bây giờ…