CHƯƠNG III - (7) Chỉnh đốn Phủ nội vụ
Hành động di tán thái giám của tôi được dư luận xã hội khen ngợi và khuyến khích. Được sự chỉ dẫn của thầy Johnston tiếp đó tôi chuyển sang mục tiêu Phủ nội vụ.
Phần lớn người của Phủ nội vụ mù chữ nhưng chi tiêu hàng năm đến kinh người, dù cho có 4 triệu đồng tiền ưu đãi vẫn thu không đủ chi. Năm Dân quốc thứ 13, sau khi tôi ra khỏi cung, “Uỷ ban xử lý công việc nhà Thanh” tố cáo trên tờ “Kinh báo” năm đó, riêng khoản tiền cầm cố vàng bạc, đồ cổ tới hơn 5 triệu đồng đã bị chi tiêu hết không còn đồng nào. Theo ghi chép của một người trong phủ nội vụ, mấy năm đó hàng năm Phủ này chi trên dưới 360 vạn lạng bạc.
Một ví dụ khác là một lần cầm cố của Vinh Nguyên, bố vợ tôi. Ngày hợp đồng cầm đồ là 31 tháng 5 năm thứ 13 Dân quốc. Những người ký tên là Thiệu Anh, Kỳ Linh, Vinh Nguyên và giám đốc ngân hàng Bắc Kinh Nhạc Càn Trai. Đồ cầm cố là đồng hồ vàng cùng nhiều loại đồ bằng vàng khác, tiền cầm được 80 vạn đồng, trong một năm, tiền lãi 1% một tháng. Hợp đồng quy định: 40 vạn đồng do 46 đồng hồ vàng (nặng 111.439 lạng) làm đồ cầm cố, 40 vạn đồng khác là nhiều đồ trang sức bằng vàng của 8 hoàng thái hậu và 5 hoàng hậu cộng 10.969 lạng, 7 tiền, 9 phân, 6 ly; 36 kim khí vàng kém tuổi nặng 883 lạng, thêm vào đó là 1952 hạt ngọc trai, 184 miếng đá ngọc, 45 chiếc bát mã não. Chỉ mới riêng khoản 40 vạn đồng tiền cầm cố sau đã coi như mang các đồ vật bằng vàng mười biến thành vàng vụn. Mỗi năm có mấy lần cầm cố và đổi giá như vậy, đặc biệt là mỗi lần lễ tết cần chi tiêu. Mỗi lần như thế, trên báo chí lại xuất hiện tin đồn, cũng có tuyên bố của Phủ nội vụ về những tin đồn đó, nói rằng những thứ bán đi đều là thứ loại bỏ, trong đó quyết không có những thứ trang sức của Từ Hy thái hậu v.v..
Con số chi tiêu mỗi năm của Phủ nội vụ của tôi đã vượt kỷ lục cao nhất Phủ nội vụ của Từ Hy thái hậu.Theo thống kê của Phủ nội vụ, trừ tiền phát cho các vương công, đại thần, Phủ nội vụ đã chi:
- Năm thứ tư Dân quốc: 264 vạn lạng
- Năm thứ tám, chín, mười: 238 vạn lạng, 189 vạn lạng, 171 vạn lạng.
Phủ nội vụ thời Từ Hy thái hậu, mới đầu mỗi năm chi không quá 30 vạn lạng, năm mừng thọ Từ Hy bảy mươi tuổi cũng chỉ chi đến 70 vạn lạng.
Các thầy dạy tuy giúp Phủ nội vụ phản đối tôi mua xe ô tô, đặt máy điện thoại song nêu những chuyện đó của Phủ nội vụ thì lại cũng khó chịu. Thầy Yi Ko Tan trước khi chết không lâu đã kết tội thầy Trần Bảo Thám là “tội dối vua” vì thầy Trần, đã không muốn tố cáo tội của Phủ nội vụ. Còn đối với thầy Johnston thì khỏi phải nói: Dưới mắt ông, Phủ nội vụ là hoá thân của “trùng hút máu”. Quan điểm của ông đã thúc đẩy tôi quyết tâm chỉnh đốn Phủ nội vụ. Có lần ông nói: “Phủ nội vụ của cung đình đến những người quản gia của các Vương công là những người nhiều tiền nhất”, chủ nhân không biết gì về tài sản của mình; chỉ có hỏi những quản gia của mình thậm chí không thể không cầu cạnh họ, nếu không, một xu cũng không nhận được. Không nói về khôi phục vật cổ, ngay một ít châu báu trên tay, nếu không chỉnh đốn các quản gia e rằng cũng khó giữ nổi”.
Ông còn nói: “Phủ nội vụ có một câu cách ngôn: duy trì hiện trạng. Dù một câu cách nhỏ cũng là lý tưởng vĩ đại. Gặp câu cách ngôn này đều phải - stop - (dừng xe).
“Xe” của tôi đã do các thầy đổ đầy dầu, nổ máy dẫn lối. Nếu như trước đó do người khác lái xe cho tôi thì nay đã do tôi ngồi vào ghế lái xe, hướng đi đến một mục liệu lý tưởng. Tôi vừa mới lái xe thành công qua đường “di tán thái giám”, dù ai kêu tôi “dừng xe” cũng không được nữa.
Tôi hạ quyết tâm và tôi tìm được “lực lượng”. Sau lễ kết hôn, tôi vận dụng trước hết quyền làm chủ, đó là từ các bậc nguyên lão tham gia hôn lễ, chọn lấy một số người mà tôi cho là trung thành nhất; có tài năng nhất làm người phù tá cho tôi. Tôi chọn được tất cả hơn mười người, đó là: Trịnh Hiếu Tế, La Chấn Ngọc, Cảnh Phương Sưởng, Chu Nhữ Trân, Vương Quốc Duy, Dương Trung Nghĩa, Ôn Tiêu... Tôi phong cho họ chức “hành tẩu”, ngoài ra còn chọn hai người trong họ đó là: Kim Lương, đã từng là thầy dạy Trương Học Lương và Vinh Nguyên, bố vợ tôi làm đại thần Phủ nội vụ. Những lời tâu của họ đều không được ghi lại. Những bản điều trần của họ cũng không thể tìm được. Trong tay tôi chỉ có bản điều trần của Kim Lương đề “tháng giêng năm 16 Tuyên Thống”, viết hai tháng trước khi làm đại thần Phủ nội vụ.
Bản điều trần của Kim Lương nêu các biện pháp nhằm khôi phục nhà Thanh trong đó có biện pháp thống kê và bảo vệ tài sản của nhà Thanh ở cung đình cũng như ở các địa phương. Sau khi làm đại thần, Kim Lương lại tâu trình cái gọi là “Hai cách tự bảo, tự dưỡng” trước hết là phải chỉnh đốn Phủ nội vụ.
Ngoài một số người tích cực “bí mật mưu đồ phục tích”, ngay các vị nguyên lão tiêu cực bi quan cũng không phản đối “thanh lý tài sản, bảo hộ cung đình”. Chỉ có một bộ phận nhỏ mà đại biểu là thầy Trần Bảo Thám của tôi thường lắc đầu khi nói đến các chế độ cải cách Phủ nội vụ. Những người này cho rằng vấn đề của Phủ nội vụ tích tụ từ lâu, bắt đầu từ đời Càn Long, sự sinh hoạt cung đình ngày càng tồi tệ, thời đại Gia Khánh và Đạo Quang cũng đã muốn chỉnh đến nhưng không làm được, hiện nay càng khó. Theo thầy Trần, không chỉnh đốn Phủ nội vụ tốt hơn, nếu chỉnh đốn thì sẽ ngày càng tồi tệ hơn, sẽ làm cho nội bộ triều đình nhỏ không yên, chẳng bằng hãy tạm để đó, đợi khi thời vận thay đổi hãy hay. Tuy nhiên các bậc nguyên lão như thầy Trần, mặc dù không tán thành chỉnh đốn nhưng cũng không nói tốt cho Phủ nội vụ, thậm chí còn có thể giữ trung lập.
Trước ngày hôn lễ không lâu, đã xẩy ra một lần thanh lý tài sản ngu xuẩn. Khi đó theo đề nghị của Johnston tôi quyết định tổ chức một bộ máy chuyên tiến hành công việc này. Tôi mời Lý Kinh Mại, bạn thân của Johnston thuộc phái thân phương tây cũ đến chủ trì. Lý không chịu đến, tiến cử một người thân thuộc họ Lưu đến thay ông ta. Phủ nội vụ cũng không trực tiếp tỏ ý phản đối nhưng đẩy cha tôi ra cản trở. Tôi không nghe lời khuyên của cha tôi. Kiên trì muốn uỷ nhiệm người nhà Lý Kinh Mại tiến hành công việc, họ nhượng bộ mời ông Lâm nhận chức. Tuy nhiên, làm việc chưa được ba tháng, ông ta xin nghỉ dài hạn quay về Thượng Hải.
Qua mấy lần thất bại, tôi vẫn chưa thấy được thủ đoạn của Phủ nội vụ. Tôi quy thất bại là do dùng người chưa đúng và mình “chưa đích thân nắm công việc”… Tôi cho rằng, tình hình đã khác trước, một là tôi đã trưởng thành, không ai có thể ngăn cản tôi. Mặt khác, bên cạnh tôi có một số người, lực lượng đã mạnh. Từ đám người đó, tôi hăng hái chọn ra Trịnh Hiếu Tế để đảm đương trọng trách chỉnh đốn.
Trịnh Hiếu Tế cùng quê với Trần Bảo Thám, triều Thanh đã từng làm lãnh sự ở Nhật Bản và làm quan ở tỉnh Quảng Tây. Trước kia, hai thầy Trần Bảo Thám và Johnston đã tiến cử ông ta, đặc biệt là Johnston rất hăng hái tiến cử nói rằng Trịnh Hiếu Tế là người mà ông ta khâm phục nhất trong 20 năm ở Trung Quốc, về đạo đức, văn chương Trung Quốc không thể chọn được người thứ hai, về sự hiểu biết và tài năng làm việc không có ai tốt hơn ông ta. Thầy Trần còn nói: Trịnh Hiếu Tế đã nhiều lần cự tuyệt lời mời của tổng thống Dân quốc. Không chịu làm quan Dân quốc, không nhận tiền của Dân quốc. Qua báo chí, tôi được biết Trịnh Hiếu Tế được ca ngợi là người văn hay chữ tốt; nghe nói thu nhập nhuận bút viết chữ của ông ta ngày tới nghìn vàng. Ông ta bỏ công danh, lợi lộc tới phục vụ có thể là trung thần hiếm thấy.
Lần thứ nhất tôi gặp Trịnh Hiếu Tế là mùa hè năm thứ 12 Dân quốc. Ông nói từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến trung hưng đại Thanh trong tương lai, nói đến đoạn cao hứng mặt ông rạng rỡ, nói đến đoạn khẳng khái hiên ngang ông nghẹn ngào xúc động khiến tôi hoàn toàn bái phục. Tôi lập tức quyết định gọi ông ta, đề nghị ông triển khai chí hướng của mình.
Sau khi Trịnh Hiếu Tế làm “Hành tẩu điện Mậu lệ”, đã mấy lần nói với tôi rằng muốn thành sự nghiệp lớn phải chính đến Phủ nội vụ. Ông đã đưa ra kế hoạch chỉnh đốn còn cụ thể hơn điều trần của Kim Lương. Theo kế hoạch này, toàn thể Phủ nội vụ chỉ cần 4 khoa là đủ. Cần giảm bớt nhiều người, giảm bớt nhiều khoản chi tiêu không những có thể ngăn chặn mất mát mà còn có cách mở nguồn của cải. Tóm lại nếu kế hoạch chỉnh đốn của ông ta có thể thực hiện, trước hết có sự đảm bảo tài vụ cho việc khôi phục sự nghiệp. Do đó, tôi đã phá lề luật phong vị đại thần sang làm thu tương Phủ nội vụ, đồng thời nắm tay hòm chìa khoá đứng đầu các đại thần Phủ nội vụ.
Tuy nhiên, nếu cho rằng Phủ nội vụ thô tục mà vô học chịu thất bại trong tay Trịnh Hiếu Tế là đánh giá thấp những người quản gia cung đình có hơn 200 năm lịch sử. Mặc dù Trịnh Hiếu Tế “hoa trời lả tả...(42), lại được tôi ủng hộ và tin cậy, số phận ông cũng giống như người nhà Lý Kinh Mại, chỉ làm được 3 tháng. Trong những người thô tục, vô học của Phủ nội vụ, ai là người đã đẩy Trịnh Hiếu Tế đi, trước sau tôi hoàn toàn không làm rõ được.
Sau khi nắm quyền, việc thứ nhất Trịnh Hiếu Tế phải đối phó là các vụ án chồng chất từ năm Tân Hợi. Biện pháp đối phó của ông là trước hết ra oai, loại bỏ quan lang trung đương nhiệm, tự mình nắm lấy vị trí quan trọng này, giao cho người thân tín tiếp nhiệm. Không ngờ, từ đó Phủ nội vụ như người bại liệt, cần tiền không có tiền, cần đồ vật tìm không ra nơi cất...
Để lôi kéo nhân viên cấp dưới, Trịnh Hiếu Tế tỏ ra khoan dung rộng rãi, lắng nghe tình hình cấp dưới, quy định mỗi tuần lễ cùng nhân viên cấp dưới toạ đàm một lần, mời họ góp ý kiến về cải cách. Có một vị tư viên đề nghị giảm bớt đồ tế lễ trong cung cho đỡ tốn kém. Trịnh Hiếu Tế rất tán thưởng đề nghị đó, nâng một cấp cho người đó. Tuy nhiên đồ tế lễ vốn là thu nhập hợp pháp của bản thân các thái giám (sau khi bị di tán vẫn còn khoảng 100 người) nên họ căm thù Trịnh Hiếu Tế đến xương tủy, Trịnh Hiếu Tế trở thành người bị căm ghét nhất trong Tử Cấm Thành.
Trịnh không chịu lùi lập tức nhận được thư đe doạ. Thư viết: nhà ngươi đang ở bước đường cùng, hãy lưu ý cái đầu của mình. Cùng lúc đó, Johnston được cử đi Di Hoà Viên cũng nhận được thư đe doạ. Thư viết: nếu nhà ngươi đến đó, trên đường đi sẽ có người đợi giết chết.
Cuối cùng, người dẹp đám vẫn là tôi.
Tôi vừa bổ nhiệm Trịnh Hiếu Tế làm việc liền nhận được một tin rất đau đầu: trong quốc hội Dân quốc, một số nghị viên đưa ra nghị án cần bãi bỏ điều kiện ưu đãi, do Dân quốc tiếp thu Tử Cấm Thành. Từ hai năm trước, trong quốc hội đã có nghị án này. Lý do là: trong 6 năm Dân quốc, nhà Thanh gây chuyện phục hồi hiện nay không ngừng ban quan tước cho quan. lại Dân quốc, ngang nhiên vượt lên trên Dân quốc, rõ ràng mưu đồ phục hồi nhà Thanh. Hiện nay lại nhắc lại án cũ, nói rằng tôi không những phạm pháp trong vụ Trương Huân, càng trái phép là ban thưởng người Hán Trịnh Hiếu Tế được cưỡi ngựa trong Tử Cấm Thành và làm đại thần phủ nội vụ. Báo chí đưa tin “tin này như một tín hiệu, những hành động công kích phủ nội vụ; liên tiếp xuất hiện như phủ nội vụ bán đồ cổ cho thương nhân Nhật Bản; Vinh Nguyên, đại thần Phủ nội vụ mang của báu các triều đại cầm cố vào bốn ngân hàng lớn…
Không lâu, “cách mở nguồn của cải” của Trịnh Hiếu Tế - định đưa toàn bộ sách của bốn kho đến Thương vụ ấn thư quán Thượng Hải xuất bản đã bị nhà đương cục ngăn chặn, thu giữ toàn bộ số sách.
Khi đó, cha tôi tìm tôi nói: Cần xem xét lại biện pháp của Trịnh Hiếu Tế, nếu như đến nhà đương cục Dân quốc cũng không hài lòng, sau này càng khó thực hiện.
Thiệu Anh, Kỳ Linh, Bảo Hy, những đại thần Phủ nội vụ vẫn là những người hiếu thuận, không nói một lời xấu về Trịnh, Kim, Vinh. Tuy nhiên, do bán của báu lộ chuyện, Vinh Nguyên lánh mặt. Điều trần nói trên của Kim Lương có khuyên tôi để Thuần Thân Vương (cha Phổ Nghi) nghỉ hưu, bị cha tôi mắng cho một trận, cũng không biết Kim Lương bỏ đi đâu.
Một hôm Thiệu Anh vẻ sợ hãi xuất hiện trước tôi nói rằng: Vương Hoài Khánh, thống lĩnh quân bộ hiện nay rất không bằng lòng cách làm của Trịnh Hiếu Tế. Vương Hoài Khánh nói: cứ để Trịnh Hiếu Tế gây rối, nếu Dân quốc có hành động gì ông ta không có cách nào giúp tôi.
Nghe câu nói đó, tôi thấy thật sự sợ hãi. Kết quả là Trịnh Hiếu Tế quay về “Mậu lệ điện hành tẩu”. Thiệu Anh lại nắm tay hòm chìa khoá Phủ nội vụ.
Chú thích:
(42) Theo truyền thuyết, Pháp sư Vân Quang thời Lương Vũ Đế giảng kinh, cảm động trời, hoa trời lả tả rơi xuống. - ND