CHƯƠNG III - (8) Ngày cuối cùng ở Tử Cấm Thành
Thất bại trong lần chỉnh đốn Phủ nội vụ này cũng không làm cho tôi “dừng xe”. Xe không đừng lại song chuyển hướng. Từ khi tôi lên xe, luôn luôn có người “tiếp dầu, bơm hơi” hoặc chỉ phương hướng biển báo hiệu.
Các bậc nguyên lão bí mật trình tôi “kế lớn” phục tích. Sau khi tôi kết hôn, nơi nào cũng có người muốn giúp sức tôi. Ví dụ Khang Hữu Vi và hai cha con Từ Cần, Từ Lượng - học trò ông ta dựng chiêu bài. Đảng hiến chính đế quốc Trung Hoa hoạt động ở trong và ngoài nước. Tình hình hoạt động của họ có lúc qua Johnston truyền đến trong cung. Từ Cần viết sớ tâu nói khoác rằng ở hải ngoại, đảng này có 10 vạn đảng viên và 5 tờ báo. Hai năm trước khi tôi rời cung, Từ Lương đã đến Quảng Tây tìm quân phiệt Lâm Tuấn Đình hoạt động phục tích. Y gửi thư cho Johnston nói: “Quảng Tây có thủ lĩnh đứng đầu ba phái quân nhân: Lâm Tuấn Đình, Lục Vinh Đình và Thẩm Hồng Anh. Ba người đều cùng tôn chỉ với đảng chúng tôi, ngày nào có việc ắt sẽ giúp đỡ đảng đối lập”.
Sau tết năm thứ 13 Dân Quốc, Khang Hữu Vi gửi thư cho Johnston nói: ông ta “mấy năm bôn ba, đêm trừ tịch mới quay về may mà du thuyết đều có người nghe, cũng do các nơi đã chán loạn lạc, có sự đồng lòng”. Theo ông ta: Thiểm Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Quý Châu, Vân Nam đều đã nói xong hoặc khi đến lúc, nói là xong. Ông ta đặt nhiều hy vọng vào Ngô Bội Phu, nói người này có thể xoay chuyển tình thế, “nếu có thể gửi điện; đến ngày sinh nhật, có thể ban thưởng”.
Nay nhìn lại, thư Khang Hữu Vi nói nhiều lời hão huyền, chỉ là hành động gây thanh thế, không có hiệu quả. Tuy nhiên khi đó, tôi và Johnston không những không hoài nghi mà còn rất hân hoan, phấn khởi, đã theo chỉ dẫn của ông ta để gửi lễ mừng thọ Ngô Bội Phu, thưởng chữ phúc cho Khang Hữu Vi.
Dưới sự chỉ dẫn của họ, tôi bắt đầu hiểu rằng phải động dụng của cải cho “lý tưởng” của mình. Ví dụ như “quyên giúp từ thiện”. Khi đó tôi hiểu rõ giá trị của dư luận xã hội. Trong mục xã hội, báo chí Bắc Kinh khi đó hầu như ngày nào cũng có tin về “tiền quyên góp của vua Tuyên Thống”. Hoạt động “quyên giúp” của tôi có hai cách, một là căn cứ vào những tin tức về dân nghèo đăng trên báo chí, tôi gửi tiền tới tờ báo nhờ phát giúp. Hai là cử người trực tiếp mang tới hộ dân nghèo. Dù là cách nào, chỉ một vài ngày sau đều có tin trên báo. Tôi rất vui vì các bán tuyên truyền cho tôi, thậm chí có báo đăng bài ca ngợi.
Món tiền tôi quyên góp lớn nhất là “vụ động đất” ở Nhật Bản tháng 9 năm 12 Dân quốc. Khi đó, thiệt hại về động đất ở Nhật Bản chấn động thế giới. Tôi muốn toàn thế giới biết “lòng từ thiện” của “Vua Tuyên Thống”, quyết định đưa ra món tiền lớn ủng hộ. Thầy Trần Bảo Thám còn nhìn xa hơn. Sau khi ca ngợi “hoàng ân mênh mông, lòng trời nhân từ”, ông nói với tôi: “Ảnh hưởng của việc này không chỉ giới hạn ở đó”. Sau đó, do có khó khăn về tiền mặt tôi đã gửi các loại đồ cổ, tranh vẽ trị giá khoảng 30 vạn đô-la. Công sứ Nhật Bản cùng đi với đoàn đại biểu quốc hội Nhật đến cảm ơn tôi. Trong cung xuất hiện không khí phấn khởi như khi có sứ thần nước ngoài đến dự hôn lễ của tôi.
Trong thời kỳ này, tôi sống càng buông thả làm nhiều việc tự mâu thuẫn. Ví dụ, một mặt tôi quở trách Phủ nội vụ chi tiêu quá nhiều, mặt khác lại vung tiền vô độ. Thấy ảnh chó tây trên hoạ báo nước ngoài, tôi bảo Phủ nội vụ đặt mua từ nước ngoài, ngay thức ăn của chó cũng đặt mua ở nước ngoài. Chó ốm phải mời bác sĩ thú y, tiền chữa bệnh còn nhiều hơn chữa cho người. Một bác sĩ thú y ở trường cảnh sát Bắc Kinh họ Tiền có lẽ nắm được tính cách của tôi đã ra sức móc nối, gửi cho tôi mấy bản chỉ dẫn về nuôi chó đã được tôi ban thưởng luôn mười thứ đồ vật quý như vòng ngọc, nhẫn vàng…
Về số tiền tôi chi tiêu hàng năm, căn cứ tài liệu được rút bớt của Phủ nội vụ gửi tôi trước khi tôi kết hôn một năm, chưa kể số tiền dùng cho ăn mặc, chưa kể sự chi tiêu của các ty của Phủ nội vụ ở các nơi, dự tính số tiền “phụng chỉ” chi “ân thưởng”, “giao tiến” của Phủ nội vụ mỗi năm tổng cộng là 870.587 lạng.
Cuộc sống hoang tàng ấy kéo đến ngày 5 tháng 11 năm thứ 13 Dân quốc, khi quân Dân quốc của Phùng Ngọc Tường đuổi tôi ra khỏi Tử Cấm Thành.
Tháng 9 năm đó, bắt đầu cuộc chiến tranh Trực - Phụng (Trực Lệ và Phụng Thiên) quân Trực Lệ của Ngô Bội Phu đang phát động cuộc tổng cộng kích quân Phụng Thiên của Trương Tác Lâm ở Sơn Hải Quan thì bị Phùng Ngọc Tường phản bội. Phùng Ngọc Tường mang quân vào Bắc Kinh. Với sự hợp tác của Phùng Ngọc Tường và Trương Tác Lâm, quân đội Ngô Bội Phu ở tuyến Sơn Hải Quan hoàn toàn thất bại, Ngô Bội Phu bỏ chạy về Lạc Dương. Sau đó Ngô không đứng vững được ở Hà Nam, lại mang tàn quân chạy về Nhạc Châu. Tin quân Ngô thất bại ở Sơn Hải Quan chưa về tới Bắc Kinh, quân quốc dân của Phùng Ngọc Tường chiếm lĩnh Bắc Kinh đã giam lỏng Tào Côn, tổng thống được bầu gian lận, tiếp đó đã giải tán “quốc hội”. Nội các Nhạn Huệ Khánh tuyên bố từ chức, quân Dân quốc ủng hộ Hoàng Phù tổ chức Nội các nhiếp chính.
Tin đảo chính vừa truyền vào cung, tôi lập tức cảm thấy tình hình rất nguy hiểm. Đội bảo vệ trong Tử Cấm Thành bị tước vũ khí và bị đuổi khỏi Bắc Kinh, quân Dân quốc tiếp quản doanh trại của họ. Cửa Thần Vũ đổi thành vọng gác của quân Dân quốc. Tại Ngự Hoa Viên, tôi dùng kính viễn vọng quan sát Cảnh Sơn (đối diện với cổng sau của Tử Cấm Thanh - ND) nhìn thấy những người lên lên, xuống xuống đều là quân lính trang phục khác nhau. Phủ nội vụ cử người mang trà và thức ăn tới, quân Dân quốc thu nhận, không có thái độ gì khác. Tuy nhiên không có ai trong Tử Cấm Thành có thể yên tâm. Mọi người đều nhớ, lần Trương Huân phục tích, Phục Ngọc Tường tham gia “thảo nghịch quân” (quân đội trừng phạt quân phản nghịch), nếu như Đoàn Kỳ Thụy không kịp thời điều y ra khỏi thành thì y chắc sẽ đánh thẳng vào Tử Cấm Thành.
Sau khi Đoàn Kỳ Thụy lên nắm chính quyền, Phùng Ngọc Tường và một số tướng lĩnh đã gửi điện yêu cầu đuổi triều đình nhỏ ra khỏi Tử Cấm Thành. Qua kinh nghiệm đó, chúng tôi đã cảm thấy sự chẳng lành trước cuộc đảo chính và sự thay đội quân bảo vệ lần này. Tiếp đó, nghe nói các chính trị phạm bị giam trong nhà tù đều được thả ra; lại nghe nói các “đảng quá khích” đều nhảy ra hoạt động... Lời dạy bảo của các thầy Johnston và Trần Bảo Thám về điều chủ yếu nhất của các nhóm khủng bố, quá khích là giết mỗi tên quý tộc lúc đó có tác dụng. Tôi gọi Johnston đến, đề nghị ông ta đến Đông Giao Dân cảng (khu vực sứ quán nước ngoài) thăm dò tin tức, nhờ ông thu xếp nơi lánh nạn cho tôi.
Các vương công cũng lo lắng không yên, một số người đã đặt phòng ở “Lục quốc phạn điếm” trong Đông Giao Dân cảng nhưng khi nghe nói tôi muốn ra khỏi thành thì cho rằng lúc này chưa cần thiết. Họ vẫn căn cứ vào điều kiện ưu đãi được các nước công nhận có thể không xảy ra chuyện gì.
Tất nhiên, việc phải xảy ra cuối cùng đã xảy ra.
Sáng hôm đó, khoảng hơn 9 giờ, tôi đang cùng Uyển Dung ăn sáng ở Trữ Tú Cung, các đại thần Phủ nội vụ bỗng nhiên hốt hoảng chạy tới. Đi đầu là Thiệu Anh, tay cầm một công văn, hổn hển nói:
- Hoàng thượng, Hoàng thượng, Phùng Ngọc Tường phái quân tới rồi, nói Dân quốc đòi bãi bỏ điều kiện ưu đãi, đưa tờ giấy này đòi, đòi ký tên...
Tôi giật bắn người, chộp lấy tờ công văn. Công văn viết:
“Đại tổng thống ra lệnh:
Cử Lộc Trung Lân, Trương Bích Giao trao lệnh sửa đổi điều kiện ưu đãi nhà Thanh.
Ngày mồng 5 tháng 11 năm thứ 13 Trung Hoa Dân quốc, Thủ tướng lâm thời quốc vụ Hoàng Phù sửa đổi điều kiện ưu đãi nhà Thanh: do hoàng đế đại Thanh muốn quán triệt tinh thần năm tộc cộng hòa, không muốn chống lại các chế độ của Dân quốc vẫn tồn tại hiện nay, đặc biệt sửa đổi điều kiện ưu đãi nhà Thanh như sau:
Điều 1: Từ hôm nay, bãi bỏ tôn hiệu hoàng đế Tuyên Thống đại Thanh cũng hưởng quyền lợi về mặt luật pháp như mọi công dân Trung Hoa Dân quốc.
Điều 2: Từ sau bản điều kiện sửa đổi này, chính phủ Dân quốc mỗi năm hỗ trợ nhà Thanh 50 vạn đồng, đồng thời đặc biệt chi 200 vạn đồng mở nhà máy cho dân nghèo Bắc Kinh, trước hết thu nhận dân nghèo tộc kỳ (Mãn Thanh).
Điều 3: Nhà Thanh cần theo điều thứ ba của chính sách ưu đãi trước, rời khỏi cung cấm, sau đó được tự do lựa chọn nơi cư trú nhưng chính phủ vẫn chịu trách nhiệm bảo hộ.
Điều 4: Lăng tẩm, tôn miếu của nhà Thanh mãi mãi thờ phụng do Dân quốc cử vệ binh bảo hộ.
Điều 5: Tài sản riêng của nhà Thanh quy về nhà Thanh hoàn toàn hưởng. Chính phủ Dân quốc đặc biệt bảo hộ những tài sản công phải quy về sở hữu chính phủ Dân quốc.
Ngày....tháng 1 năm thứ 13
Trung Hoa Dân quốc
Quả thật là điều kiện mới này cũng không đáng sợ như điều tôi đã tưởng tượng trước đây. Tuy nhiên Thiệu Anh nói một cầu khiến tôi bật dậy: “Họ nói, hạn trong 3 giờ đồng hồ, toàn bộ phải rời đi!”.
Làm thế nào? Tài sản của tôi ư? Thái phi ư? Tôi vội vã quay gọi điện thoại cho thầy Johnston.
- Đường điện thoại bị cắt đứt. Cắt, cắt rồi. - Vinh Nguyên trả lời.
- Cử người mời Vương gia tới! Tôi đã sớm nói sẽ xảy chuyện nhưng lại không cho tôi ra đi. Tìm Vương gia, tìm Vương gia!.
- Không ra được, Bảo Hy nói: bên ngoài có người gác, không cho ai ra!
- Để tôi đi giao thiệp!
Khi đó, thái phi Đoan Khang mới chết. Trong cung chỉ còn lại hai thái phi Kinh Từ và Vinh Huệ. Nói thế nào hai cụ già cũng không chịu đi. Thiệu Anh lấy cớ đó làm lý do đi thương lượng với Lộc Trung Lân. Kết quả cho phép kéo dài đến 3 giờ chiều. Quá trưa, qua giao thiệp, cha tôi được vào cung. Hai thầy Chu, Trần được thả ra đã tới, chỉ có Johnston bị chặn ở bên ngoài.
Nghe nói cha tôi tới, tôi vội ra khỏi phòng đón ông; vừa thấy ông bước vào cửa cung, tôi lập tức kêu:
- Vương gia! Làm thế nào?
Nghe tiếng tôi gọi, ông như người bị phép định thân, đứng sững ở đó, đã không tiến lại gần cũng không trả lời, miệng lắp bắp hồi lâu mới bật ra câu nói chẳng có nghĩa gì:
- Nghe, xin nghe chỉ ý, xin nghe chỉ ý…
Tôi vừa giận lại vừa bực, quay mình vào phòng. Sau đó, theo thái giám nói với tôi, ông nghe nói tôi ký tên vào bản sửa đổi điều kiện nói trên đã lập tức ném mũ lông công xuống sàn lẩm bẩm: Hết rồi! Hết rồi! Ta không cần cái này nữa!
Tôi quay về phòng không lâu thì Thiệu Anh quay trở về, nét mặt càng khổ sở, hổn ha hổn hển nói: “Lộc Trung Lân thúc giục nói lại gia hạn 20 phút, nếu không... Cảnh Sơn sẽ nã pháo…”.
Thực ra, Lộc Trung Lân chỉ mang một đội 20 tay súng tuy nhiên câu nói đó rất có hiệu quả. Trước tiên là Vinh Nguyên, bố vợ tôi chạy đến Ngự Hoa Viên, ngó đông ngó tây, tìm nơi trú ẩn tránh đạn pháo, không chịu ra nữa. Thấy các vương công đại thần đều sợ hãi như vậy, tôi nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của Lộc Trung Lân, quyết định trước hết đến nhà cha tôi.
Lúc đó, quân Dân quốc đã chuẩn bị sẵn xe ô tô tất cả có 5 chiếc, Lộc Trung Lân ngồi xe đầu, tôi ngồi xe thứ hai, Uyển Dung, Văn Tú, Trương Bích, Thiệu Anh và những người khác ngồi những xe sau.
Xe tới cửa Bắc Phủ, khi tôi xuống xe, Lộc Trung Lân bước tới, khi đó tôi mới gặp ông ta. Lộc Trung Lân bắt tay tôi hỏi:
- Phổ Nghi tiên sinh, từ nay về sau ông vẫn tính làm hoàng đế hay làm người dân thường?
- Tôi vui lòng từ hôm nay làm người dân thường.
- Tốt - Lộc Trung Lân cười nói: - Thế thì tôi bảo hộ ông. Hiện nay đã là Trung Hoa Dân quốc mà lại có xưng hiệu hoàng đế là không hợp lý. Từ nay về sau, cần lấy tư cách công dân góp sức cho đất nước.
Lộc Trung Lân lại nói:
- Đã là một công dân, có quyền bầu cử và ứng cử! Tương lai càng có thể được bầu làm đại tổng thống!
Nghe ba tiếng đại tổng thống, tôi rất khó chịu bèn nói:
- Từ lâu tôi đã không cần điều kiện ưu đãi ấy, nay phá bỏ chính hợp ý tới nên tôi hoàn toàn tán thành lời các ông. Làm hoàng đế cũng không tự do, hiện nay tôi đã được tự do rồi.
Nghe câu nói của tôi, lính Dân quốc đều vỗ tay.
Câu nói cuối cùng của tôi cũng không phải hoàn toàn giả dối. Tôi thật sự chán ghét sự hạn chế và ngăn cấm của các vương công, đại thần. Tôi muốn “tự do”, tự do thực hiện lý tưởng và cách nghĩ của mình - ngồi lại cái ngai vàng đã mất.