Chương 8
Đứng bên cạnh Esther, những ý nghĩ dồn dập xô tới trong đầu tôi. Ba tôi, tôi còn nhớ, không sợ một điều gì hết. Về mặt nầy, tôi khác biệt với ông rất nhiều. Nhưng người ta sẽ không có sự can đảm nếu không có nỗi lo sợ nào cần phải vượt qua. Ông không biết được những do dự, hay những thoáng rùng mình của nỗi lo sợ, cũng như trái tim đập mạnh bàn tay run rẩy, hay cơn đau đớn bất chợt làm giá lạnh toàn thân.
Tôi mải mê suy nghĩ không để ý tới Esther, mà khuôn mặt tái nhợt ngước nhìn tôi, đầy vẻ lo lắng.
Tôi nhận ra rằng chính tôi cũng có thể sợ hãi, nhưng tôi không thể thừa nhận, cho dù một cách âm thầm.
Tôi quay phắt sang đứa con gái.
- Esther, cô chỉ có việc không bắn. Nhưng để cứu gỡ thể diện, cô hãy trở về chỗ trong hàng. Chúng ta sẽ lấy đạn ra khỏi súng của cô, cô sẽ tuân lệnh và bấm cò đúng lúc. Như vậy được chớ?
Nó cám ơn và trở về chỗ. Tôi lấy đạn ra khỏi súng nó, nhưng vào phút cuối cùng tôi quyết định để lại một viên trong buồng đạn, sẵn sàng chờ nó bấm cò. Tôi trao cây súng cho Esther cầm nó một cách lỏng lẻo chong về phía bia. Tôi nghiêng xuống và đặt ngón tay tôi lên ngón tay nó đang kê nhẹ lên cò súng.
- Bấm đi, tôi thì thầm nói, chúng ta sẽ thấy rõ những gì xảy ra.
- Bắn!
Esther kêu khẽ lên một tiếng khi tôi ấn lên ngón tay nó và nó nghe tiếng nổ bất ngờ vang lên. Tôi nhìn nó với vẻ cật vấn, và một nụ cười đồng lõa. Giọng nói nó run run, nó ngước nhìn tôi và nói:
- Thực bất ngờ. Nhưng suông sẻ. Chỉ bất ngờ thôi.
- Esther, bắn có thực sự khó chịu đối với cô không?
- Không, không thực sự khó chịu. Không, thực vậy, không.
Nó nhìn cây súng, và, nửa nói với tôi, nửa riêng cho nó:
- Vậy là tôi đã bắn? Tôi không bao giờ tin như vậy. Tôi không bao giờ tin rằng tôi có thể bắn.
Nó lắp đạn trở lại và không làm phiền gì thêm cho tôi trong thời gian còn lại của buổi tập dượt, vì nó đã nhận thấy không có điều gì nghiêm trọng xảy ra và việc đó không đặt thành vấn đề thực sự. Nhưng sau vụ nầy, Esther tránh mặt tôi và chỉ lên tiếng với tôi khi nào tôi ngỏ lời với nó. Một hàng rào đã được dựng lên giữa tôi và nó: tôi đã phá hủy một lời hứa với nó, và mặc dù kết quả có lợi cho nó, nó vẫn có cảm tưởng rằng nó đã bị đùa. Đó là một hoàn cảnh khác thường, vì cũng hiển nhiên là nó mang ơn điều tôi đã làm. Tôi không muốn suy nghĩ về chuyện nầy.
« Hãy cắt nghĩa cho các tân binh của quí vị thế nào là lòng yêu nước. Hãy dạy cho họ hiểu lời tuyên thệ và ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ. Hình thức giảng dạy: thuyết trình hay hội thảo chung. Thời gian: hai giờ ».
Các chỉ thị ban ra phải thi hành ngay trước khi cử hành lễ tuyên thệ.
Lòng yêu nước, tôi thầm nghĩ. Cần phải bắt đầu bằng cách cắt nghĩa cho họ thế nào là tình yêu không thôi, chắc vậy. Nhưng làm thế nào được? Người ta cảm thấy hoặc không cảm thấy tình yêu đó. Và « ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ »? Ý nghĩa sâu xa đó là gì bên cạnh phần tuyên thệ kêu gọi người lính « hy sinh tính mạng nếu cần »?
Buổi chiều trước cuộc lễ tuyên thệ, tôi dẫn Trung đội ra ngoài trại và ra lệnh tất cả ngồi thành vòng tròn trên lớp cỏ úa vàng. Họ có vẻ hờ hững, như thể nghe cắt nghĩa thế nào là lòng yêu nước đối với họ cũng không khác gì nghe dạy cách sử dụng một khẩu trung liên. Tôi không tự tin nơi mình và không biết phải bắt đầu từ đâu.
- Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện, cuối cùng tôi nói. Hãy quên đi trong một lúc các bạn đang ở trong quân đội và đang mặc quân phục. Các bạn hãy ngồi một cách thoải mái và mỗi người hãy tưởng tượng đang ngồi một mình với tôi và nghe tôi nói. Tôi muốn kể cho các bạn nghe câu chuyện nầy.
Những tiếng thì thầm lan rộng trong vòng tròn các đứa con gái. Một thoáng xao động, rồi tất cả đều trở về im lặng. Chỉ còn nghe có nhịp điệu xa xôi của một trạm bơm.
« Cách đây đã lâu, có hai anh em không gia đình và không tổ quốc. Họ không giàu không đẹp, nhưng khỏe mạnh và tài trí, và ngay từ nhỏ họ đã phải làm để sống. Một hôm, họ bắt gặp một cái thùng nhỏ, người ta cho biết là của ba má họ ; họ trông thấy trong đó một bản đồ vẽ một ngôi nhà và bên trong ngôi nhà có ghi hai chữ nầy: « Tổ quốc ».
« Hai anh em không bàn luận dài dòng, nhưng nghiên cứu bản đồ, lấy giấy thông hành và đi tìm ngôi nhà có ghi hai chữ « Tổ quốc ». Đó là một ngôi nhà rất lâu đời nằm trong thung lủng, cách xa thành phố, và họ phải đi lâu ngày mới tới. Con đường thì xấu, và họ đói khát. Một người té đụng một viên đá và bị thương ; người kia bị bịnh, nhưng họ chiến đấu bằng mọi cách để sống sót qua những ngày, những đêm dài và cuối cùng tới được ngôi nhà.
« Có thể họ đã đi suốt đời, dù sao họ cũng có vẻ già nua, tóc ngả màu trắng và tấm bản đồ chỉ đường cho họ đã trở màu vàng vì tháng năm trước khi họ tới được nơi chỉ định. Bàn chân họ bỏng cháy vì những viên đá nóng trên đường và giá lạnh vì băng giá mùa đông. Nhưng cuối cùng họ tới được ngôi nhà trong thung lũng và nó không trống vắng.
« Bên trong có những người chế giễu hai anh em, ném đá và ra lệnh họ đi nơi khác. Nhưng trong khi họ đứng đó, trước ngôi nhà, một chuyện lạ lùng xảy ra. »
Tôi ngừng lại một đỗi và tiếp tục:
« Họ nhận thấy có những người khác tới trong thung lũng, tay cầm những bản đồ trổ màu vàng, mắt nhìn đăm đăm ngôi nhà một cách tuyệt vọng.
« Người anh bước về phía những người tới trong thung lũng, tập hợp họ lại và cùng với họ hoạch định một kế hoạch. Họ đang ở trước nhà họ và cần phải vô nhà. Mặc dầu không võ khí, mặc những áo dài bằng vải bông giản dị, họ tiến tới thành hàng liên tục về phía ngôi nhà trong thung lũng giờ đây có những phát súng bắn ra. Nhiều người trong số những người cùng tiến tới với hai anh em ngã xuống, bàn tay bấu chặt những tấm bản đồ trổ màu vàng. Nhưng đoàn người tiếp tục tiến về phía ngôi nhà, sau đó tiến vô nhà. Khi cuối cùng tiến vô được bên trong, họ trông thấy nó trống vắng vì kẻ thù đã trốn lên các ngọn núi xa xôi.
« Hai anh em đều chết, cũng như những người đi theo họ. Nhưng có những đứa con trai và con gái được sinh ra và mỗi lần có một đứa con trai hay con gái chào đời, người ta đều kể cho họ nghe câu chuyện của hai anh em và những người chất phác đó, đã đi không ngừng nghỉ suốt đời để tới nơi được gọi là « Tổ quốc » trên một tấm bản đồ. Những đứa con trai và con gái tập hợp với nhau lại và thề sẽ hy sinh tánh mạng, nếu cần, để bảo vệ tổ quốc mà ông cha của họ đã đi tìm ở một nơi rất xa xôi, một cách rất đỗi nhục nhằn, và họ đã chiến đấu gian nan vô cùng trong lớp áo dài vải bông.
« Các bạn là những con cháu cuối cùng của ngôi nhà đó ».
Họ đứng lên khỏi lớp cỏ héo úa, xếp hàng, và chúng tôi trở về trại.
Tamar tới tìm tôi và nói:
- Ariel, mỗi ngày bồ nói với họ mấy lần.
Nó đề cập tới những lời trò chuyện mà tôi phải nói với các tân bình nhằm xếp hạng họ. Tôi chờ đợi trong một căn phòng nhỏ bé, trang hoàng một cái bàn và hai cái ghế, và một đứa con gái bước vô. Tôi, Ariel, ở đó, đối diện với một con người tâm hồn không che đậy, bước vô, chào và thổ lộ với tôi tất cả các vấn đề, tình yêu, niềm thù hận và nỗi sợ hãi. Trong thời gian làm công việc xếp hạng, tôi bắt đầu ý thức sự hiện hữu của kẻ khác, những vấn đề của họ: tôi không là người duy nhứt có những vấn đề.
Tôi khó lòng tự ngăn đừng quan tâm tới những vấn đề đó mặc dầu có nhiều lúc tất cả chuyện nầy có vẻ ngu xuẩn và kể cả vô ích đối với tôi.
Tôi, kẻ chưa bao giờ biết đói khổ, chưa bao giờ trải qua một hiểm họa thực sự, chưa bao giờ cảm thấy lo lắng ngoài những nỗi lo lắng do tôi tự tạo ra, lại ngồi nơi một cái bàn, lắng nghe, và không chỉ lắng nghe mà còn hiểu rõ những đứa con gái đã từng trải qua bao nhiêu cuộc thử thách, mà cha mẹ đã chết trước mắt họ, những đứa con gái mà người ta đã gởi đi làm những việc cực khổ, nhọc nhằn khi họ còn là những đứa trẻ. Tôi lắng nghe họ, thỉnh thoảng đánh liều đưa ra một nhận xét, gật đầu tán thành câu chuyện thao thao bất tuyệt của họ hoặc chận lại chỉ vẽ. Tôi có trước mặt một tờ giấy và trên tay một cây viết chì, tờ giấy vừa đủ để tôi ghi những gì cần phải ghi lại.
Ở đó có đủ loại con gái, từ những đứa con gái chất phác, lấy làm sung sướng khi được sống thực tế, không mò trăng đáy nước để giải khuây, nhưng họ liêm khiết, tốt và ngay thẳng.
Ngày lại ngày, họ diễn qua trước mắt tôi, những đứa giản dị và những đứa rắc rối, để cá tính thầm kín của họ được ghi lên một tờ giấy, tờ giấy sau thêm vô tờ giấy trước ; tất cả những đứa con gái đã thổ lộ, đã thú nhận mọi sự với tôi, và được người ta gọi chung bằng cái tên Trung đội A.
Tôi bắt đầu cảm thấy như vậy quá nhiều cho tôi. Thay vì tiếp chín mười đứa mỗi ngày, tôi hạ xuống còn ba hoặc bốn. Tôi bị thu hút bởi câu chuyện của mỗi đứa, tôi ở trong nhà của họ, đi với họ ngoài đường, nói với bạn bè của họ. Từ tình trạng là những con số giản dị của trung đoàn, họ trở thành những con người sống động, sống động tới mức tôi gần như cảm thấy sợ hãi. Tôi tập xem họ như những cá nhân, những con người đa cảm giống như tôi và tự đặt cho mình vô số câu hỏi.
Càng quan tâm tới họ chừng nào, tôi càng giận mình chừng nấy. Một tình cảm bất mãn len lỏi vô trong tôi, và, rạng ngày chỉ huy cuối cùng, tôi thức giấc cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng.
Sau lễ duyệt binh mãn khóa, vị Chỉ huy trưởng của Trường gọi tôi vô văn phòng để chuyện trò trong giây lát. Tôi chào – giờ đây đã thành một thói quen – và chúng tôi bắt tay nhau.
- Sao, Ariel?
Bà có một lối mở màn câu chuyện kỳ lạ và bao giờ tôi cũng muốn hỏi lại:
- Sao về chuyện gì?
Nhưng ngày cuối cùng nầy, tôi cảm thấy dễ chịu và nói bằng giọng lửng lơ:
- Tôi có ý nghĩ rời trại ngày hôm nay, nghỉ phép một đôi ngày và sau đó nhận một chức vụ mới.
- Hẳn là vậy, bà đáp, trừ khi cô không thích ở đây.
- Chúa ơi, không đâu! Bắt đầu lại tất cả chuyện nầy à?
Bà mỉm cười với vẻ bí mật và nói tiếp:
- Cô biết không, Ariel, theo ý tôi đây là nơi duy nhứt trong quân đội mà cô cảm thấy mình phục vụ thực sự cho một điều gì đó, với uy quyền, trách nhiệm và những kết quả tương xứng với công khó của mình…
Nhưng tôi không thể làm việc giữa một đám đông người!
- Cô vẫn còn sợ, phải không? Đám người đó, như cô vừa nói, bắt đầu quan tâm tới cô và điều đó làm cho cô sợ hãi. Và dù vậy, Ariel, người ta không thể tự ngăn mình đừng quan tâm sâu xa tới những người mà mình điều khiển hay làm việc chung với họ. Sao?
Chữ « Sao? » của bà bao giờ cũng giục tôi phải lên tiếng.
- Tôi không muốn ở đây. Đó không phải là một cuộc thử thách khó chịu, nhưng tôi đã chán lắm rồi. Có lẽ tôi không thể tiếp tục vì tôi quá quyến luyến công việc.
- Quá quyến luyến! Cô ngỡ rằng bao giờ cô cũng có thể chọn lựa, ngay cả khi đó là bổn phận của cô sao? Có bao nhiêu việc nếu ích kỷ xét theo quyền lợi riêng người ta sẽ thấy nặng lòng quyến luyến, nhưng điều đó không ngăn mình đừng làm. Dù sao, tôi cũng chúc cô may mắn. Ở đây cô đã làm được những công việc đặc sắc. Nhớ cho tôi biết cô sẽ xoay trở bằng cách nào với chức vụ mới của cô.
Tôi chào, bước ra và, vài phút sau, đeo túi lên lưng, tôi rời khỏi trại. Tôi cảm thấy tôi « quá quyến luyến » để có thể từ giã một người nào khác.
Trạm xe buýt cách xa, và tôi cảm thấy vui sướng đi tới đó, trèo lên ngồi và để nó chở tôi trên con đường ngoằn ngoèo dẫn lên các ngọn núi Judée. Nhìn từ thung lũng ngọn đồi, những ánh đèn của thành phố trông giống như những cặp mắt sợ hãi.
- Hãy trình diện văn phòng thiếu tá Galan, cánh cửa thứ hai phía bên trái.
Đó không còn là một trò chơi kiểu cách. Lần nầy, chính là quân đội với công việc mỗi ngày, vất vả và lạnh lùng, không phải một bầy con gái ngoan ngoãn và đầy dẫy những vấn đề, mà là những người đàn ông lành nghề có trách nhiệm và nghiêm khắc.
Tôi gõ cửa vị chỉ huy tương lai của tôi, thiếu tá Galan, bước vô và chào xong, tôi ngồi xuống ghế ông đã chỉ cho tôi. Ông không rời mắt khỏi mớ giấy má của ông, đó là một người cao lớn, tóc màu xám, đầu hơi sói, trông có vẻ là người không mảy may quan tâm tới bề ngoài căn cứ theo bộ quân phục phất phơ trên người ông.
Ông ngẩng đầu lên, chìa tay cho tôi, siết mạnh và tức khắc bắt đầu giải thích các bổn phận tôi phải làm. Ông nói mau, và sau mỗi câu đều hỏi thêm. « Hiểu chưa? » Không chờ đợi xem tôi đã hiểu hay không.
- Cô sẽ có những công tác đặc biệt. Cô chỉ báo cáo cho tôi mà thôi. Hiểu chưa? Đây là khu vực trách nhiệm của chúng ta.
Ông dùng đầu roi để chỉ cho tôi một vùng được khoanh đỏ trên bản đồ.
- Cô làm việc một mình, và vào những giờ nào cô thích. Đối với tôi chỉ có kết quả là đáng kể. Hiểu chưa? Cô phải bỏ ra một ngày hay năm ngày, điều đó không sao hết. Nhưng sau mỗi công tác đặc biệt hãy gởi cho tôi một tờ phúc trình. Hiểu chưa? Tôi không khó tánh đâu. Tôi thích sự ngay thẳng và công việc. Đừng cãi lại tôi. Khi nào ở trại, hãy nhớ canh sao mỗi hai hoặc ba giờ tôi có cà phê để uống và cô hãy uống với tôi một tách. Cô sẽ được cấp cho một chiếc xe. Cô biết lái chớ?
- Thưa Thiếu tá, biết.
- Hãy gọi tôi là Dov. Và chỉ chào tôi khi nào có sự hiện diện của thượng cấp. Và khi nào đi công tác, cô không cần phải bới tóc. Nếu có gặp những điều trở ngại, hãy báo cho tôi biết. Đại úy Shoul Manor, phụ tá của tôi, sẽ tìm cách nịnh bợ cô. Đừng để anh ta làm chuyện đó. Hãy tránh lộn xộn. Và bây giờ cô hãy xuống làm quen với anh chuyên viên ẩm thực và biểu anh trưởng toán ẩm thực đem cà phê lên cho tôi. Hiểu chưa?
Ông nheo mắt và lấy ra những cái bánh ngọt từ trong một ngăn kéo của bàn viết. Sau đó tôi được cho biết bao giờ ông cũng thủ sẵn bánh ngọt trong đó. Tại trại người ta cho rằng « có thể mua chuộc Thiếu tá Galan bằng bánh kem ».
Chức vụ mới của tôi, mà tôi nhận thấy vô cùng quan trọng được mở màn như vậy. Nó đưa tôi đi khắp xứ và dành cho tôi nhiều sự tự do hơn là tôi có thể hy vọng. Thiếu tá Galan biết rằng giữ tôi lại văn phòng không ích lợi bao nhiêu. Một nhân viên thuộc bộ tham mưu của ông kể cho tôi nghe ông đã nói:
- Ariel? Cột cô ta vô ghế và cô ta sẽ trở nên vô tích sự. Hãy để cô ta tự do, cô ta sẽ đạt được những kết quả mau lẹ và tốt đẹp hơn bọn đàn ông các anh.
Đó là những gì tôi đã cố gắng làm, và thường có kết quả.
Tôi đâm ra yêu mến « khu vực trách nhiệm » của mình: vùng được khoanh đỏ trên bản đồ. Tôi thuộc từng ngọn đồi, từng con đường bị bỏ hoang, gần như từng cái cây. Xe Jeep của tôi lăn bánh khắp mọi nẻo đường mòn mà tôi đã trải qua, và các ngọn đồi Judée hình tròn với đỉnh trơ trụi và nhiều đá, những thung lũng hẻo lánh đầy cây ăn trái không bàn tay người chăm sóc và những hang đá tối tăm trở thành những yếu tố trong đời sống mỗi ngày của tôi.
Công việc của tôi vui thú, lành mạnh, và khiến tôi mãn nguyện vô cùng. Trại tân binh, những nỗi phiền muộn của Esther và Judith ; những cuộc tập thể dục đáng tởm vào buổi sáng và những lần hội kiến phiền phức bay bổng khỏi ký ức tôi trong khi tôi phóng xe jeep mui trần theo sườn núi, hay nói những chuyện quan trọng, hoặc canh gác trong một tháp canh trên núi, thỉnh thoảng nhảy tới máy điện thoại để báo một động tĩnh nào đó. Bao giờ cũng có một chuyện hấp dẫn để làm.
Thời gian trôi qua mau chóng, những ngày nóng bức sắp tàn và mùa đông sẽ về với những đêm dài âm u.
Đại úy Manor cố gắng bằng mọi cách để trổ mòi tán tỉnh, đúng như vị Thiếu tá tiên đoán, nhưng không kết quả. Tôi làm việc ráo riết, học tập khi nhàn rỗi, chỉ về phép một đôi ngày để thăm ba má tôi và cố gắng càng ít nghĩ tới các vấn đề riêng tư của tôi càng hay.
Jérusalem ở sát bên cạnh là một thành phố nhỏ không cống hiến bao nhiêu trò tiêu khiển. Nó có giá trị tuyệt vời của sự trường cửu ; người ta cảm thấy nó thuộc về mình cũng bằng như thuộc về các thế hệ trước mình. Tôi chỉ tham gia một cách thụ động và bất chợt vô đời sống thời lưu êm đềm của nó. Tôi có một căn phòng tại thành phố, và khi không phải trực tôi được phép tới ngủ tại đó.
Vào cuối chiều, khi từ trại trở về phòng tôi tại Jérusalem trong ánh mặt trời xuống thấp, tôi trông thấy cái bóng của tôi bít lối mòn chật hẹp trước cửa. Tiềm thức của tôi chắc đã bị khêu động bởi những nỗi niềm xưa cũ, và cuộc nói chuyện sau cùng của tôi với cái bóng trở lại trong đầu tôi. Giờ đây nó trải dài trước mặt tôi như thể nó lại muốn nói chuyện với tôi.
- Vài lời thôi, nó nói. Mi sẵn lòng chớ?
Tôi gật đầu.
Nó tựa trên bức tường đá, trông nó dài và mảnh khảnh, với những viền nét hơi lờ mờ.
- Chúng ta thờ cùng một thần linh, nó nói. Mi nhớ không?
- Nhớ, tôi thì thầm, vị thần của những cái bóng.
- Mi không nhận thấy mi đang sống một cuộc đời rất buồn tẻ sao? Đó là không phải loại đời sống mà mi quen thuộc. Sự thực, mi không sung sướng gì cho lắm. Tại sao mi không làm một điều gì?
- Làm gì chớ? Hãy để ta vào.
- Vội làm chi, Ariel. Trong phòng mi không còn trông thấy được ta nữa. Mi biết không, hiện tại mi không sống thực sự. Ngày tháng trôi qua, và mi biết cách lấp đầy, đúng như vậy, nhưng bao giờ cũng trầm trầm, và không có điều gì hứng khởi. Mi không cảm thấy lạc hướng sao?
- Hoàn toàn không. Đó là một cách giải khuây cố ý?
- Hãy để ta vào. Trời sắp sửa tối và mi thì cứ lải nhải.
- Vô đi nếu mi muốn. Nhưng mi biết không, vị thần của chúng ta không phải lúc nào cũng rảnh. Hiện tại, người đang chờ đợi – với lòng nôn nóng phần nào – mi tìm lại được chính con người mi và mi hãy tập tin vào nó. Mi cần phải hành động.
Tôi vô phòng…
Tôi không thể phân biệt đích xác đó là bóng tôi hay vị thần chung của cái bóng và tôi, hay đó là kết quả của một kế hoạch được tôi vạch ra rõ ràng, đem Peter Bend vô đời tôi như là phương tiện để « làm một cái gì », hoặc như mục đích của một sự cố gắng tôi cần phải bỏ ra để trở lại là Ariel trước kia.
Vào thời kỳ đó, tôi sắp mười chín tuổi và Peter Bend năm mươi hai. Ông ta giữ chức cố vấn chánh trị tại Bộ Ngoại giao. Tôi vẫn còn ở trong quân đội và tám tháng nữa mới mãn hạn.
Peter đã từng vuốt tóc tôi lúc tôi còn nhỏ: sau nầy, tôi gặp lại ông tại các cuộc tiếp tân mà ba má tôi đã dẫn tôi theo. Và giờ đây, sắp lên mười chín tuổi, tôi ngồi nơi Café Gil, trên con đường huyết mạch của Jérusalem, khi ông bước vô và ngồi cách bàn tôi không xa.
Đã nhiều ngày trôi qua kể từ khi tôi nói chuyện với bóng mình ; cuộc trò chuyện đó trở về trong ký ức tôi trong khi tôi uống cà phê và đọc báo. Từ chỗ ngồi của tôi, tôi có thể mặc tình quan sát Peter Bend, nhưng ông thì không thể thấy rõ tôi. Ông cao lớn và mảnh khảnh, thời trai trẻ chắc thân hình ông rất liền lạc cân đối ; với lại ông vẫn còn sót lại rất nhiều sự liền lạc cân đối đó. Mái tóc bạc của ông dợn sóng. Khuôn mặt sạm nắng, cũng như hai bàn tay với những ngón dài. Đôi mắt ông, rất sâu, màu xám và dịu dàng núp dưới đám lông mày rậm rạp ; mũi thẳng và khá dài, môi khéo léo nhưng có hơi mỏng quá. Hôm đó ông mặc một cái áo vết bằng vải tweed (vải Tô Cách Lan) và hút ống vố.