← Quay lại trang sách

Chương 9

Peter Bend độc thân, mặc dù có tin đồn ông có vợ và đã ly dị. Ông tới Do thái khoảng mười lăm năm nay và, vào lúc quốc gia nầy được thành lập, ông nhập tịch Do thái và vô làm trong Bộ Ngoại giao.

Tôi không hiểu có phải nhờ sự chỉ vẽ của cái bóng hay do sáng kiến của chính mình tôi đứng lên và tới bên bàn của Peter.

- Chắc ông không nhận ta tôi, tôi nói.

Ông quay lại, ngần ngừ một lúc, sau đó, nở một nụ cười rộng miệng.

- Nhận ra chớ, sao không! Cô là Ariel Ron. Mời cô ngồi. Cô dùng chi?

Chúng tôi ngồi trò chuyện trong một tiếng đồng hồ, hoặc có thể hai tiếng. Những gì tôi nói đều làm cho ông quan tâm, và ông đối đáp luôn miệng với tôi.

- Tôi có làm phiền cô không, Ariel. Nhưng tôi nhận thấy nói chuyện với cô thú vị vô cùng…

Ông là một người cô đơn, bị thu hút bởi công việc, và dịu dàng, gần như có điệu bộ nhút nhát. Ông suy nghĩ kỹ càng trước khi hỏi tôi.

- Tối nay cô có vui lòng dùng bữa ăn tối với tôi không – nếu như cô không có việc gì hay hơn để làm? Hãy thẳng thắn cho biết, Ariel. Có lẽ… có lẽ tôi đi hơi nhanh. Cô được trọn quyền quyết định.

Tôi chận lời ông:

- Tôi rất lấy làm thú vị được dùng bữa với ông. Ông có tiện đưa tôi về qua phòng để tôi có thể thay đồ không?

Vào mùa hạ phòng tôi khá tiện nghi, nhưng nó nằm thấp hơn mực đường và, giờ đây sang mùa đông nó lạnh và tối tăm. Mưa lọt qua cửa sổ thấp và có những vết ẩm ướt to lớn trên trần. Peter ghi nhận không khí lạnh lẽo, ẩm ướt và ông có vẻ ái ngại.

Tôi thay đồ mau lẹ, vừa xác nhận Peter không cần phải thay quần áo.

- Cô có vẻ khác hẳn khi không mặc đồ lính, ông ta nói vừa đi về phía khách sạn Vua David. Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp dùng bữa ăn tối với một cô gái trẻ và xinh xắn và tôi cảm thấy mình cần phải ăn bận khác hơn cho hợp tình hợp cảnh.

- Ồ không. Tôi trông thấy như vậy ông cũng đã rất hợp rồi.

Tôi đặt tay lên cánh tay ông.

- Tôi có được phép gọi ông là Peter không?

- Thực hân hạnh cho tôi, Ariel. Hãy cặp tay tôi và gọi tôi là Peter. Thực thú vị không gì bằng.

Bữa ăn tối ngon miệng. Và nếu bao giờ có hai con người được một tình bạn chân thành kết thân với nhau trong một bữa ăn tối và uống cà phê, thì đó chính là Peter Bend và Ariel Ron.

Sau bữa ăn, Peter mời tôi tới nhà ông để uống một tách cà phê khác. Ông ta gọi một chiếc tắc xi và, cùng tôi trèo lên xong, ông lấy đầu ra hiệu cho tài xế và nói:

- Chở giùm về nhà tôi.

- Dạ, người tôi xế mỉm cười trả lời và có lẽ nhận thấy tôi vẫn cặp tay Peter.

Chiếc tắc xi ngừng trước một biệt thự ở phía nam thành phố. Một con chó to lớn lông màu nâu lợt chào đón chúng tôi.

- Bingo, giới thiệu với mi đây là Ariel.

Bingo tò mò đánh hơi tôi, sau đó dẫn chúng tôi băng qua một khu vườn, bước lên tam cấp và vô nhà. Bingo và tôi trở nên thân thiết với nhau.

Peter đốt lửa trong lò và pha cà phê. Căn phòng liền ấm lại và làm cho mình đẹp ý. Tôi tháo giày và ngồi xuống một bộ ván thấp. Đó là một phòng khách với một lò sưởi, vài ghế dựa an thích, bộ ván tôi đang ngồi trên đó, hai cái bàn nhỏ và, mút trong kia, một bàn viết. Vài bản đồ cũ kỹ và một bức họa mô phỏng khéo léo một bức tranh của Modigliani treo trên tường. Trên bàn, những ngọn đèn nhỏ tỏa ra một ánh sáng dịu dàng tăng thêm thi vị của bầu không khí.

- Thực khác hẳn phòng tôi, tôi nói với Peter. May quá! Mưa không làm sao lọt qua được các cửa sổ của ông!

- Tại sao cô lại sống ở đó nếu cô không thích?

- Tôi không thể tìm đâu hơn. Tôi cũng muốn lắm. Mùa đông ẩm ướt tới mức tôi thức giấc nghe đau khắp mình mẩy. Ở đây có rộng lắm không?

So với Jérusalem thì rộng lắm. Tầng dưới đất gồm có căn phòng nầy, hai phòng ngủ, một phòng ăn, một loại thư-phòng thư viện mà tôi thường hay ở đó và, dĩ nhiên, một nhà bếp và một phòng tắm. Phía dưới… nhưng khoan đã – ông ngừng nói, suy nghĩ, sau đó lên tiếng trở lại.

- Tôi có một ý nghĩ.

Ông cười lắc đầu.

- Nhưng không… đó là một ý nghĩ quái gở.

Ông tiếp tục nói chuyện và uống cà phê đậm và nóng. Đã gần nửa đêm khi tôi gợi ý đã tới lúc tôi phải ra về.

- Đã khá muộn, ông nói. Tôi hy vọng đã không giữ cô lại quá lâu. Tôi không thể nói với cô buổi tối nầy đối với tôi tuyệt diệu tới mức nào. Tôi cứ tưởng trong giấc chiêm bao.

Ông dùng điện thoại gọi một chiếc tắc xi và, khi xe tới, ông hỏi tôi với cùng một vẻ rụt rè như khi mời tôi đi ăn tối vài giờ trước đó:

- Ariel, cô có vui lòng điện thoại cho tôi khi không có gì cần hơn để làm? Có thể nào có một ngày cô trở lại đây để dùng trà hoặc cà phê không?

- Tôi rất hân hạnh. Xin cám ơn buổi tối thơ mộng nầy.

Tôi cúi xuống vuốt ve con chó đã theo gót chúng tôi.

- Về nghe, Bingo. Sẽ gặp lại một ngày không xa.

Peter và tôi đứng phía sau hàng rào sắt và, một cách rất tự nhiên, tôi chìa má cho ông ta hôn, ông ta làm theo tay vịn vai tôi.

- Hẹn gặp lại, ông thì thầm, và Chúa sẽ phò hộ cho cô.

Tôi trở về phòng, pha một tách cà phê và thử phân tách hoàn cảnh. Hình như tối nay có nhiều việc đã xảy ra. Con người lạ lùng đó, Peter Bend… ông ta làm tôi vừa ý, đúng vậy, nhưng tôi nhận thấy thực khó tin rằng lại có một người tốt, dịu dàng, dễ mến, tóm lại hoàn toàn tới mức đó xét theo bề ngoài của ông. Ông có tất cả những tánh tốt mà tôi tự tình nguyện sẽ chứng tỏ rằng chúng không thể có nơi một người nào và chúng có khả năng khêu dậy niềm thù nghịch và tinh thần mâu thuẫn nơi tôi.

Tôi biết rằng ông sẽ yêu tôi, nếu tôi cứ để mặc tình ông, vì tôi tiêu biểu cho một điều mà ông chưa từng biết qua, hay đã đánh mất từ lâu rồi.

« Tại sao có ý chống lại những đức tính đó? »

Một giọng nói từ bên trong tôi đáp lại:

« Mình cần phải chứng tỏ. Chứng tỏ điều gì? »

Chứng tỏ rằng một người không thể hoàn toàn tới mức đó, cho thấy người ta có thể làm cho y đau khổ, hệt như một kẻ khác, người ta còn có thể làm cho y thân bại danh liệt.

Tái diễn những âm mưu phải chăng đó là mục đích của tôi? Nếu người ta muốn gọi đó là những âm mưu, vậy thì chính chúng đã đem lại thi vị cho đời sống. Ông ta sẽ yêu tôi, chỉ có thể yêu tôi vô bờ bến, và như vậy tôi sẽ làm cho ông nhừ tử nếu tôi thích. Tôi muốn trông thấy khuôn mặt trầm tĩnh và lương thiện của ông trở nên cay đắng và giận dữ, tôi muốn trông thấy ánh mắt màu xám dịu dàng của ông bốc lửa và bàn tay ông run rẩy.

Và sau đó? Bấy giờ tôi sẽ ghi điểm thắng kia trên bảng thành tích của tôi.

Trong một ý nghĩa nào đó, đó sẽ là một cách trả thù. Tại sao? Ông không hề làm khổ tôi điều gì hết, đúng vậy, nhưng Ned, Bill và những kẻ khác đã làm. Một khi tôi biết rằng đàn ông, kỳ thực, đều cá mè một lứa, tôi sẽ không cảm nhận sâu xa nỗi đau khổ mà một vài người trong số họ có thể gây ra cho tôi. Đó sẽ là một sự phục thù… nhiều phen thất bại mà tôi đã nhận lãnh một cách bất công.

Và nếu tôi đâm ra yêu ông, nếu tôi si tình ông như tôi chưa từng như vậy? Thì sao?

Không có gì nguy hiểm hết. Tôi sẽ bị thu hút miệt mài trong những kế hoạch nho nhỏ nhằm lấn quyền ông và nêu ra các dẫn chứng.

Một ngày nào đó, Ariel, mi sẽ ý thức rằng mi đã gán một ý nghĩa xấu cho chữ « quyền hành » và mi đã xét đoán sai lầm thế nào là sức mạnh. Không cần bao nhiêu quyền hành và sức mạnh để làm cho một người đàn ông thân bại danh liệt và, một khi y đã như vậy rồi, điều đó sẽ không chứng tỏ rằng mi đã đoạt được quyền hành và sức mạnh. Có thể ông cũng sẽ đoán được những gì tôi cố gắng làm?

Không, ông yêu tôi rất nhiều để có thể nghĩ những điều như vậy.

Tôi sẽ tiếp tục trò chơi. Tôi chơi trò đó cũng khá lâu rồi, nhưng tôi sẽ không thể chơi trò đó suốt đời.

Tôi chấm dứt cuộc độc thoại nội tâm, gắt gỏng chào cái gối nằm và tắt đèn.

Một tuần sau, tôi dọn tới nơi phòng dưới của chung cư Peter Bend đang ở. Tôi điện thoại cho má tôi:

- Con đã dọn tới ở nơi chung cư của Bend, má chắc cũng biết, ông thuộc Bộ Ngoại giao. Dưới mặt đất, hoàn toàn biệt lập, với một ngõ vào riêng và một nhà bếp nhỏ. Một thiên đường thực sự.

- Sao con lại dọn tới đó.

- Ông ta nói đang tìm một người mướn phòng. Những phòng đó không có người ở và ông cứ bỏ trống, do đó ông không muốn nghe nói tới tiền mướn phòng. Chắc má cũng biết, căn phòng trước kia của con lạnh và ẩm ướt kinh khủng.

- Con có tin chắc là mọi sự sẽ tốt đẹp không?

- Dĩ nhiên phải tốt đẹp. Tại sao không?

- Má không biết. Điều nầy làm má hơi khó nghĩ. Con có thường gặp Bend không? Ông ta hoàn toàn chênh lệch về tuổi tác với con.

- Con cũng thỉnh thoảng gặp mặt ông ta, vì ông là chủ nhà. Dù sao, con cũng thích ở đây và có ý định đóng đô luôn.

Câu nói của tôi chấm dứt câu chuyện. Ba má tôi rõ rệt tỏ ra không hứng khởi vì sự thay đổi nầy, nhưng ngay cả thái độ đó cũng giúp ích cho tôi, vì ông bà không thích sự thay đổi nầy cũng như những gì nó có thể đem lại, như vậy tôi sẽ có một cơ hội để chứng tỏ sự độc lập của mình.

Buổi đầu, có những điều phức tạp. Tôi rất mến Peter và trừ khi đi làm tôi nhận thấy ra ngoài cũng không ích gì. Chúng tôi dùng điểm tâm chung nơi tầng trên vừa đọc báo. Sau đó tôi ra đi bằng xe Jeep với Bingo, đã bắt đầu ưa thích những cuộc du ngoạn nầy. Buổi tối, sau khi trở về, chúng tôi uống một ly rượu trước khi dùng bữa ăn tối, tự tay tôi nấu dọn. Sau đó, chúng tôi trò chuyện khoảng một tiếng đồng hồ và tôi trở xuống phòng.

Đôi khi, ông nhìn tôi đắm đuối một hồi lâu, không nói một lời nào, và tới bên tôi choàng tay qua vai tôi vừa thì thầm:

- Cô thực là một ân huệ trời ban!

Chúng tôi sống gần gũi với nhau nhiều hơn là tôi ngỡ. Sau đó không lâu, tôi lấy làm vui thích được giúp đỡ ông, nấu nướng, chạy tới chạy lui khi đi làm về, sai biểu chị ở. Tôi làm tất cả những việc đó mà không nghĩ rằng tôi đã tạo nên những thói quen giăng mắc gắn bó tôi vào ông cũng như gắn bó ông vào tôi.

Một tối, vào giờ ăn, ông kể chuyện cho tôi nghe, ông nói năng dịu dàng, nhưng có thể cho rằng những tiếng nói của ông vọng tới từ xa xôi.

Ông đã có vợ ; vợ ông bị người Đức giết trong thời chiến tranh. Đó là lý do đầu tiên khiến ông định cư tại Do thái: vợ ông bị giết vì bà là người Do thái. Ông thì không, và ông tới sống tại đây.

- Kể từ ngày vợ tôi qua đời tôi sống đơn độc. Không một người đàn bà nào lôi cuốn được tôi, nhưng cô hiện ra và mọi sự đều thay đổi, và tôi không còn sáng suốt nữa.

« Cô thấy không, đó không là một tình yêu đam mê, mà là một tình yêu đặt cơ sở trên lòng kính trọng, cần yếu như bánh mì, nước và khí trời. Cô chỉ cần nhận rằng tình yêu đó là có thực, tôi sẽ làm theo mọi ý muốn của cô. Khi tôi nằm trên kia, tôi biết rằng cô đang ở phía dưới, đôi khi cô trả lời tôi, và tôi phải nhiều cố gắng để không đi xuống ôm cô vô lòng.

« Rất tiếc, Ariel yêu quí, tôi không muốn tán tỉnh cô. Chúng ta hãy nghe tin tức »

Một đêm, một biến cố xảy ra đưa tới nhiều hậu quả. Giông tố kinh hồn. Tôi nằm không tìm được giấc ngủ, nghe sợ hãi phần nào. Những ánh chớp rẻ đôi như xuyên thủng cửa sổ và vô tới giường ngủ. Sấm nổ vang như vào ngày Phán xét cuối cùng. Cả ngôi nhà rung rinh. Tôi thắp lên tất cả các ngọn đèn và chui trốn dưới các tấm ga ; nhưng tôi cảm thấy mình giống như một đứa nhỏ khiếp đảm. Tôi cần phải có người nào bên cạnh.

Tôi tròng vô người cái áo dài mặc trong nhà và trèo các bực tam cấp. Tôi vào nhà qua ngả nhà bếp và vô phòng Peter. Ông đang ngồi trên giường mặc đồ ngủ xanh lục đậm, hút ống vố và lắng nghe bão tố. Ông đứng lên khi tôi bước vô, và ôm siết tôi vào người như thể tôi là một con bé đang trải qua cơn khủng khiếp.

- Tôi sợ, Peter. Tiếng sấm đó, những ánh chớp đó, thực dễ sợ.

- Giờ đây, hãy bạo dạn lên ; có tôi ở đây, cưng à.

Cưng à… tiếng đó có vẻ lạ lùng đối với tôi. Ông lập lại vừa vuốt tóc tôi và giúp tôi cởi cái áo mặc trong nhà. Chúng tôi không ai nói chuyện với ai, tôi lạnh giá và sợ hãi. Ông dẫn tôi vô cái giường rộng lớn của ông và tôi nằm bên cạnh ông, yên lòng vì sự âu yếm mà ông đã nắm lấy tay tôi. Ông thức suốt đêm, nắm tay tôi.

Khi trời sáng, ông mỉm cười và hỏi tôi:

- Ngủ ngon chớ?

- Ngon, cám ơn.

Giông tố đã qua, nhường chỗ cho một bầu trời xanh lơ trôi mau những cụm mây nho nhỏ màu xám.

Buổi sáng hôm đó, tôi dọn đồ đạc lên trên. Ngủ trở lại trên giường tôi có vẻ phi lý đối với tôi. Ngày lại ngày, tôi trông thấy tình yêu của Peter lớn mạnh. Đó là một tình yêu hoàn toàn, tuyệt diệu và khiến tôi không thể hoàn toàn hờ hững. Chúng tôi « chung sống » với nhau, nói theo thành ngữ.

Thiên hạ không khỏi nói:

- Quí vị có hay biết chưa? Ariel Ron ở chung với ông!

Bạn bè sẽ hỏi.

- Thực không?

Và một giọng nói bên trong thốt lên với tôi:

« Lần nầy mi đã đi đúng đường. Mi cần phải cẩn thận, mi bắt đầu quyến luyến ông ta. Có thể, dù sao, mi cũng sẽ không đánh bại được những gì là lương thiện, cương nghị, liêm khiết nơi ông ta. Tại sao không rút ra từ đó một bài học, nhờ nơi ông ».

Sự xảy ra một loạt các biến cố chứng tỏ sự sai lầm gần như toàn diện của triết lý do tôi chủ trương.

Nhiều cơ hội đưa tới để tôi có được một cách cư xử sẽ làm cho ông khổ tâm, sẽ thỏa mãn niềm khao khát trả thù của tôi và giải thoát tôi khỏi các tình cảm phục tùng và dịu dàng mới mẻ, phiền phức đó mà ông đã khêu dậy nơi tôi.

Cơ hội đầu tiên xảy ra vào một tối thứ bảy. Chúng tôi đã tái ngộ vào một ngày thứ bảy, do đó mỗi tuần chúng tôi đều ăn mừng ngày đó ; chúng tôi ra ngoài để dùng một bữa ăn tối ngon hơn thường lệ, chúng tôi ăn mặc sang trọng hơn, hoặc dùng bữa tại nhà trên một cái mâm nhỏ mà tôi đã nấu dọn các món kỹ lưỡng, với một chai rượu ngon, dưới ánh đèn cầy.

Tôi còn nhớ buổi tối thứ bảy đó, chúng tôi đã dùng xong một bữa ăn tối đơn sơ tại nhà. Bàn đã được dọn dẹp và chúng tôi ngồi chuyện trò giải khuây trước một ngọn lửa ấm áp. Peter nói yêu tôi. Tôi biết rõ điều đó. Ông cho biết rằng ông yêu tôi như ít có một người đàn ông nào đã từng yêu một người đàn bà như vậy.

- Nhưng em đừng thắc mắc gì về tình yêu đó. Ông nói thêm. Em không cần phải đáp lại tình yêu của tôi và không phải cam kết điều gì. Khi nào em muốn dọn đi, em cứ tự tiện. Tôi vẫn tiếp tục yêu em, và sẽ luôn luôn có mặt khi nào em cần tới tôi.

- Nhưng em tệ lắm, Peter, em không xứng đáng hưởng một tình yêu như vậy. Em không biết em đáng tởm, bất xứng, hay có thể đáng tởm, bất xứng tới mức nào. Em có thể hủy hoại tất cả những gì tốt đẹp, và nhứt là về mặt tình yêu.

- Biết, cưng ạ, tôi biết. Em sẽ tiếp tục sắp xếp ngấm ngầm những mưu vặt với niềm khoái trá đậm đà nhứt. Tôi biết em rất rõ, nhưng tôi cũng biết một Ariel với trái tim vàng.

Điện thoại reo và tôi nhảy tới trả lời. Mel. Và Mel là một cơ hội.

A! tôi có « một trái tim vàng ». À, rồi sẽ thấy!

Tôi nói trong điện thoại:

- Mel yêu quí. Em sung sướng vô cùng được nghe giọng nói của anh. Em cần gặp anh. Tối nay anh có rảnh không?

Anh ta rảnh.

- Vậy, chúng ta hãy đi nhảy. Em sẽ tới ngay.

Tôi gác điện thoại và liếc mắt quan sát Peter. Ông ngồi điềm nhiên. Dù vậy, chắc ông cũng phải nghe lọt câu chuyện, ít ra những câu nói của tôi, ông không thể làm gì khác hơn. Bình thản và dửng dưng, ông nhìn tôi vừa hút ống vố.

Tôi hớn hở cho biết:

- Em đi đây. Anh có cảm thấy phiền không?

- Em hãy vui chơi thỏa thích, cưng ạ. Và nhớ đem theo áo măng tô, tối nay trời hơi lạnh.

- Em sẽ về trễ.

- Không sao, đừng gây nhiều tiếng động quá khi lên giường.

Tôi thay đồ, lớn tiếng chào Peter và đi tìm Mel. Chúng tôi đi nhảy tại một câu lạc bộ ; nhưng tôi không thể gạt bỏ được hình ảnh của Peter ngồi bên bếp lửa. Giọng nói của ông không cả thay đổi, giống như khi ông cho biết Ariel của ông có một trái tim vàng. Trong khi nhảy với Mel, tôi không thể tự ngăn đừng hối tiếc đã không ở lại nhà. Tuy nhiên, hành động nầy nằm trong một kế hoạch mà tôi nguyện thực hiện và nhứt quyết không nao núng. Mel và tôi nhảy muộn. Khi tôi trở về nhà Peter, người hơi thấm ướt vì cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi, tôi trông thấy ông đang ngủ và tôi lặng lẽ lên giường. Tôi chờ đợi ông biểu một tiếng tôi hãy xuống ngủ nơi tầng dưới, hay ít nhứt, nếu ông còn thức, tôi nghĩ rằng ông sẽ quay lưng lại tôi. Nhưng ông cầm tay tôi thì thầm trong giấc ngủ.

- Thực là vui, em đã trở về. Tôi buồn vì thiếu em. Hãy ngon giấc.

Ông không hề nhắc lại vụ nầy.

Không phải chỉ có tình cảm ngày một đậm đà mà tôi đã dành cho Peter đã làm rắc rối sự việc và xui tôi chống lại ông – mà còn có sự tập thành các thói quen mỗi ngày mà tôi đâm ra ưa thích. Nếu có một điều bao giờ cũng làm tôi sợ hãi thì đó là nỗi sợ hãi phải đánh mất sự tự do và làm chủ hoàn toàn bản thân. Từng giờ từng phút, tôi lo giữ gìn sự tự chủ đó. Tôi không bao giờ uống quá hơn một ly rượu và không hề cho phép tôi vượt quá một giới hạn vạch ra trong đầu. Nỗi sợ hãi phải đánh mất sự tự chủ, như tôi đã nói đưa tôi tới chỗ tìm những cơ hội để chứng tỏ với chính bản thân và với Peter rằng tôi có thể vượt qua và thoát khỏi sự trìu mến đang lớn mạnh giữa hai người. Càng nhận thấy thân thiết với ông chừng nào, tôi càng khao khát chứng tỏ sự ưu thắng của tôi đối với niềm trìu mến đó. Tôi giống như một kẻ ăn đổ ăn tháo một cái bánh ngọt vì biết rằng ăn xong tôi sẽ thèm một cái khác mà không biết có được ăn nữa hay không ; hay giống như một con chó sủa ầm ĩ để đuổi một con mèo vừa biết rằng, trong một cuộc rượt đuổi ngay thẳng, con mèo sẽ chạy thoát.

Trước đó không lâu có xảy tới hai cơ hội khác để tôi bày tỏ sự vô tình mà tôi nghĩ rằng cần phải như vậy. Lần thứ nhứt liên quan tới công việc của tôi. Một trong số các nhiệm vụ tôi cần phải làm là tiếp đón những người di dân mới tới các ngôi làng đã được lập sẵn chờ họ. Tôi có bổn phận coi sóc sao họ được tiếp đón một cách thân mật khi tới chỗ ở mới, và tôi được hai mươi đứa con gái tiếp tay.

đón đông đủ các gia đình từ ngoại quốc tới và xuống xe, họ trông thấy một khung cảnh mới mẻ, hoàn toàn xa lạ: những cái nhìn ngạc nhiên lúc đặt chân xuống đất, sự quýnh quáng của họ, và những đứa trẻ. Kéo lê phía sau, vẻ mặt ngạc nhiên.

Những ngôi làng họ tới ở hoàn toàn vắng bóng người, ngoại trừ những đứa con gái đang chờ đợi họ. Những ngôi nhà trắng toát, trống vắng, mới tinh, vuông vức, lạnh lẽo vì thiếu sự hiện diện của con người ; những ngọn đồi trọc bao quanh và ánh nắng hè làm cỏ và các cây con khô héo. Hành lý đùm đề lạ mắt, họ tới một nơi có vẻ lạ lùng và không thực. Ngay cả ngôn ngữ của những người tiếp đón họ cũng tỏ ra khó hiểu. Họ sẵn lòng tới định cư, nhưng vì phần đông tới bằng phi cơ, sự thay đổi đã quá đột ngột. Hôm qua, những con đường náo nhiệt của Téhéran, hay Casablanca, hôm nay phần đất khô xấu nầy, không bóng mát, với những ngôi nhà vô hồn.

Tôi đi vô các làng để cố lấp bằng hố ngăn cách, thường khi tôi cảm thấy không đủ sức giúp đỡ họ một điều gì hết, và tôi cũng thường được tiếp đón bằng một nụ cười cảm tạ hay một cái hôn của một người mẹ lo lắng: không chừng ít lo lắng và ít lạ nước lạ non hơn tôi.

Một hôm tôi yêu cầu Peter theo tôi. Tôi muốn ông chia sẻ với tôi những cảm xúc lẫn lộn mà tôi đã trải qua ; tôi biết rằng ông quan tâm tới chuyện ấy và vì thường khi ở đó có rất nhiều quan sát viên khác hiện diện – ký giả, những nhà tổ chức các sở Do Thái, vân vân – tôi nghĩ rằng cũng là điều thú vị khi có mặt ông ở đó, chỉ cốt làm đẹp lòng tôi.

Hai tiếng đồng hồ trước khi những người di dân tới, chúng tôi có phận sự sắp xếp đồ đạc trong các ngôi nhà, đặt các bình hoa lên bàn, chuẩn bị những gói kẹo nho nhỏ cho trẻ em và bình sữa cho con nít còn bú ; và cả dự liệu một chai bia cho những người nào muốn dùng.

Ngay khi các người di dân đặt chân xuống đất, một vài đứa con gái trong số dưới quyền tôi đưa mỗi gia đình tới ngôi nhà được dành cho họ, giúp họ tháo gỡ hành lý, chăm sóc trẻ con nếu cần, sau đó tới báo cáo với tôi.

- Chúng tôi làm sao để tiếp chuyện với họ? Lần nầy những người di dân từ Ba tư tới, họ hỏi tôi.

- Tova (một trong số những đứa con gái dưới quyền tôi) biết nói tiếng Ba tư. Cô ta đi gần khắp xứ. Những người khác, hãy nói bằng tai và mắt. Có nước tại các vòi, hãy trông chừng coi nước chảy đều đặn. Khi họ có mặt tại đó. Hãy gây cho họ một ấn tượng tốt, thân mật, đó là điều quan trọng nhứt.

Ngôi làng bắt đầu náo nhiệt. Có sự hoạt động, những giọng nói và tiếng hát của các cô gái lau sàn nhà và chưng hoa. Tôi đi từ nhà nầy tới nhà khác, giúp đỡ, nhận xét và khuyên bảo. Những ngôi nhà vuông, sơn trắng khoác vẻ niềm nở nhờ các cửa sổ và sàn nhà sạch sẽ, những đóa hoa trên bàn, kẹo trong hũ và tấm thảm nhỏ trước cửa.

Người ta thấy rõ là họ yêu mến công việc đó. Vì đó là một điều mới mẻ đối với họ vì bao giờ tôi cũng đòi hỏi mỗi nhóm di dân mới phải được giao phó cho một nhóm con gái mới.

Peter tới với nhiều người thăm viếng khác. Lúc đó tôi đang bận, và rời khỏi ông sau một cái chào ngắn ngủi. Sau đó, tôi nhận thấy trong số các ký giả và các chuyên viên có một người tôi quen biết sơ, một ký giả tên Gédéon mà tôi cảm thấy khá dễ mến. Một ý nghĩ bất chợt thoáng qua đầu: hôm nay tôi sẽ bỏ rơi Peter. Vì tôi đã yêu cầu ông tới chắc ông đã nghĩ rằng tôi sẽ cùng với ông đi dạo các ngọn đồi để hái hoa rừng khi nào tôi rỗi rảnh, tôi sẽ làm cho ông ghen với Gédéon! Họ đứng cạnh nhau. Tôi đi về phía họ, và, giả đò bỏ quên Peter, tôi mỉm cười với Gédéon và hỏi anh ta có muốn đi thăm viếng ngôi làng với tôi không.

- Tôi hài lòng thấy anh tới đây, tôi nói với anh ta. Công việc chuẩn bị giờ đây đã xong một phần lớn và tôi không có gì đáng làm trước khi xe tới.

Peter quay sang tôi. Tôi chờ đợi ông đề nghị tháp tùng theo chúng tôi, nhưng ông không nói gì hết.

Tôi dạo khắp làng với Gédéon, cắt nghĩa mọi điều với niềm hào hứng. Khi liếc nhìn đằng sau, về phía Peter, tôi trông thấy ông đứng hút ống vố nhìn chúng tôi, mái tóc bạc trắng sáng lên dưới ánh mặt trời và nét mặt thản nhiên.

Tôi chở Gédéon trên xe Jeep của tôi và đề nghị đưa anh ta tới làng bên cạnh để mua bánh bích qui cho toán của tôi. Anh ta nhận lời, và chúng tôi rồ máy. Khi chạy qua Peter, tôi vẫy tay chào ông, người ta có thể cho rằng ông cố nói một điều gì đó, nhưng bụi xe Jeep đã che khuất ông, và, trong khoảng một giây, chúng tôi mất hút ông ở một khúc quanh.

- Sự thực, tôi không dành cho Gédéon nhiều sự quan tâm. Tôi không tin rằng anh ta hiểu được ngôi làng mới đó có ý nghĩa gì cũng như nguyên nhân những điều tôi cố làm tại đó. Anh ta xem tất cả việc ấy như bao nhiêu việc khác, như thể đó là một bài phóng sự về một chuyện lặt vặt hoặc về một cuộc hội họp. Nhưng tôi lấy làm thích thú để nói với anh ta.

Chúng tôi mua bánh bích qui và, khi vội vã trở về, chúng tôi trông thấy từ xa đám bụi của những chiếc xe to lớn chở các di dân tới.

Các chiếc xe ngừng lại. Mệt mỏi, nét mặt bơ phờ và đôi mắt đầy ngạc nhiên, những người mới tới xuống xe. Đó là « ngôi làng mới » thứ ba của tôi nhưng giống như những lần đầu trước, tôi cảm thấy nôn nao. Đó là những người trung hậu. Phần đông trong số họ thuộc lứa tuổi trung niên. Không có người nào từng sống gần gũi với đất như họ sẽ sống tại đây. Là những tiểu thương gia tại Téhéran, Ispahan hay Tabriz, giờ đây, họ đang ở trên phần đất mới và gây go nầy mà phần đông người dân Do Thái nhận thấy không có gì ái ngại để làm chủ, như được Thượng đế ban cho.

Họ có nhiều con cái và nhiều đống hành lý. Tôi đỡ một đứa nhỏ còn bú khỏi tay một người mẹ và ôm nó vô lòng. Đôi mắt đen to lớn của nó nhìn quanh với vẻ tò mò nhưng, khác với đôi mắt của ba má nó, nó không để lộ một ánh mắt sợ hãi hoặc bối rối.

Chiếc xe đầu tiên đổ xuống các hành khách và hành lý, kế một chiếc thứ hai chạy tới. Chúng tôi giúp khiêng rương và những gói đồ và bọc các đứa trẻ. Đột nhiên, ngôi làng rực rỡ các tà áo dài và khăn quàng tươi màu nổi bật lên màu tường trắng và màu quân phục ka ki tẻ nhạt. Những người nầy có nước da và màu tóc đậm hơn phần đông người Do Thái, và tất nhiên, họ không nói tiếng Hébreu ; tuy nhiên, hai nhóm người trà trộn với nhau một cách thân mật.

Lúc ấy, Peter ở cách đó một quãng, ngồi trên một tảng đá và đùa giỡn với các đóa hoa rừng, ông sững sờ ngắm cảnh người ta dọn vô nhà mới. Ông có vẻ rất cô đơn, nhưng dửng dưng, và trông trẻ hơn tuổi thực, có lẽ nhờ áo sơ mi mở cổ và nước da sạm nắng.

Tôi muốn tìm tới ông và nói:

- Hãy nhìn đồng bào chúng ta, hãy nhìn họ.

Tôi muốn hỏi ông có tin rằng họ sẽ quen với nơi hẻo lánh nầy và dần dần sẽ cảm thấy Do thái là nơi chốn của họ. Nhưng tôi quay sang Gédéon đã không để tôi bỏ quên sự hiện diện của anh ta và nhận thấy tôi có quan tâm tới các hành vi và cử chỉ của anh ta cũng là điều tự nhiên. Anh ta không rời tôi, cố giúp tôi làm việc, nói luôn miệng và bàn luận tất cả những gì anh ta trông thấy. Tôi chỉ nghe anh ta qua loa và tránh nhìn Peter.