← Quay lại trang sách

Chương 15 Ahmet Rasim và những nhà bỉnh bút khác về thành phố

Vào một buổi sáng sớm cuối thập niên 1880 – không lâu sau khi Abduilhamit II bắt đầu Luật Tuyệt Đối kéo dài 30 năm của ông – có một ký giả hai mươi lăm tuổi đang ngồi tại bàn giấy trong trụ sở tờ Hạnh phúc, một nhật báo nhỏ ở Babiali, thì "bất thình lình" cửa mở toang và một người đàn ông dáng người cao lớn, đội mũ fez19 đỏ, mặc một cái “áo khoác kiểu nhà binh,” tay áo làm bằng một thứ vải pôpơlin đỏ, bước vô phòng. Nhìn thấy anh ký giả trẻ, ông ta la lớn: “Lại đây!” Anh ký giả trẻ sợ sệt, đứng dậy. “Đội mũ vô! Đi!”

Người đàn ông vận cái áo khoắc nhà binh và anh ký giả trẻ leo lên một cỗ xe ngựa đậu trước cửa, và xe chạy. Xe vượt cầu Galata, cả hai đều im lặng. Khi đi được chừng nửa đường thì anh chàng ký giả trẻ có bộ mặt dễ thương mới thu được chút can đảm để hỏi họ đang đi đâu.

"Đến gặp ngài Đổng lý của Đức Sultan. Ngài ra lệnh phải tóm liền mi, mang đến cho ngài ngay tức khắc!"

Sau khi đến Hoàng cung, đợi chừng ít phút, một người đàn ông khó chịu, có bộ râu bạc xám, kêu anh chàng ký giả lại bàn ông ta. “Đến đây!” Một tờ Hạnh phúc mở ra trên bàn. Giơ tay chỉ, ông ta giận dữ nói, “Cái này nghĩa là gì?” Anh chàng ký giả vẫn chưa hiểu cái này là cái gì, ông ta bắt đầu la lên.

"Thằng phản bội! Đồ vô ơn! Phải thẩy một trái đại bác vô đầu mi cho nó nổ banh ra!"

Anh chàng ký giả, tuy vẫn còn sợ đái ra quần, nhưng đã nhận ra bài báo gây nên trận giận dữ đó chỉ là một bài thơ của một thi sĩ đã chết; điệp khúc của nó là "Liệu mùa xuân sẽ chẳng bao giờ tới nữa, liệu mùa xuân sẽ chẳng bao giờ tới nữa?" Hy vọng có thể phân trần, anh chàng ký giả rụt rè lên tiếng, "Thưa Ngài…"

"Nó vẫn còn chưa chịu câm miệng kìa!… Bước ra ngoài ngay! viên đổng lý của sultan ra lệnh. Sau khi đứng run rẩy ở bên ngoài chừng mười lăm phút, anh ta lại bị lôi cổ vô. Nhưng cứ mỗi lần mở miệng tính giải thích anh là tác giả của bài thơ, là anh lại được xơi một cơn giận dữ.

"Đồ khốn kiếp! Đồ chó má! Đồ con hoang! Đồ chết tiệt! Phải treo cổ hết tụi chúng mày lên!”

Khi hiểu ra rằng sẽ chẳng có cơ hội để giải thích, anh chàng ký giả bèn thu hết can đảm, thò tay vô túi móc ra con dấu và đặt nó lên bàn. Viên đổng lý đọc cái tên trên con dấu, và ngay lập tức hiểu ra rằng có một sự lầm lẫn. Ông ta hỏi:

"Tên anh là gì?"

"Ahmet Rasim."

Kể lại giai thoại trên, bốn mươi năm sau, trong cuốn hồi ký Tác giả, Thi sĩ, Nhà văn, Ahmet Rasim nhớ lại, khi viên đổng lý hiểu ra rằng người ta đã bắt lầm và đem đến cho ông ta không đúng cái người mà ông ta cần bắt, thì ông ta bèn thay đổi giọng điệu. "Sao con không ngồi xuống, con của ta" ông ta nói. "Con không phiền khi ta gọi con là con của ta chứ?" Mở một ngăn kéo ra, viên đổng lý kêu Rasim lại gần, và giúi cho năm lira, ông ta nói, "Thế này là chu nhé. Đừng có nói cho ai hay chuyện này đấy!" Rồi thả cho ông đi.

Rasim kể câu chuyện gặp gỡ trên, với cái vẻ hớn hở, và bằng cái giọng hóm hỉnh thường lệ, pha trộn thêm tí mắm muối, các chi tiết của cuộc sống thường nhật, đúng như văn phong của ông.

Lòng yêu đời, sự hóm hỉnh, và thú viết – những điều này khiến Rasim trở thành một trong những nhà văn lớn của thành phố Istanbul. Cái nguồn nghị lực vô bờ, sự lạc quan và tinh thần cứng cỏi của ông dư sức để cân bằng với nỗi buồn hậu đế chế từng nhận chìm tiếu thuyết gia Tanpinar, nhà thơ Yahya Kemal, và hồi ký gia Abdulhak Sinasi Hisar. Như tất cả những nhà văn yêu quý Istanbul, ông quan tâm tới lịch sử của nó vì rất cẩn trọng trong việc kiểm tra nỗi buồn của mình, ông không bao giờ than van về một “ thời đại hoàng kim đã mất.” Thay vì nhìn quá khứ thành phố như là một kho tàng thiêng liêng thay vì nạo vét lịch sử để tìm ra một giọng nói đích thực ngõ hầu cho phép ông sản xuất những tuyệt tác theo kiểu Tây phương, ông chủ trương, như hầu hết các nhà văn trong thành phố, tự kiềm chế mình ở trong hiện tại: Istanbul là một thành phố dễ chịu để sống, và theo sát mọi chuyển biến, dù nhỏ nhoi cỡ nào, cùng với thành phố.

Như hầu hết những độc giả của mình, Rasim không quan tâm nhiều đến vấn đề Đông-Tây, hay "Hãy thay đổi nền văn minh của chúng ta." Theo ông, Tây phương hóa tạo ra cả một lố những trò nhố nhăng, và ông rất thích đem chúng ra làm trò cười. Khi còn trẻ, ông có cảm tình với văn học Tây phương – ông đã từng viết tiểu thuyết, và làm thơ, nhưng đều thất bại cả – và điều này khiến ông tỏ ra nghi ngờ, thích chọc quê, và có chút khinh bạc, trước mọi thứ mang dấu vết của kỹ xảo hay điệu bộ kiểu cách. Khi ông chọc quê nhiều cách thức đọc thơ đầy cảnh vẻ của mấy thi sĩ Istanbul – bắt chước các nhà thơ của Thi Sơn và Suy Đồi, thậm chí chặn đường khách bộ hành bắt phải nghe những vần thơ ứng khẩu của họ – hay khi ông chế giễu thiên tài của các bạn văn cứ chăm chăm hướng cuộc nói chuyện vào chủ đề sự nghiệp của họ, bạn có thể cảm thấy ngay khoảng cách mà ông tạo ra giữa ông và đám tinh anh bị ảnh hưởng Tây phương, hầu hết đám này, cũng như ông, đều sống tại khu vực in ấn xuất bản Babiali.

Nhưng phải ở tư cách một nhà binh bút cho nhật báo – hay là feuilletonniste, một từ tiếng Pháp rất thịnh hành vào thời kỳ đó – Ahmet Rasim mới tìm ra giọng nói của riêng ông. Ngoại trừ những cơn hứng bất tử, hay những sự giận dữ đột xuất, hay một tí ám ảnh, bực bội nào đó, Rasim thực sự không quan tâm tới chính trị; nói cho cùng, sự đàn áp của nhà nước và kiểm duyệt khiến chính trị trở thành một thứ đề tài nguy hiểm, và đôi khi, bất khả. (Ông ưa giải thích cho độc giả, kiểm duyệt gí mũi vào cột báo của ông kỹ mức chẳng còn gì để mà in ra, đành để trắng trang giấy.) Thay vào đó, ông lấy thành phố làm đề tài. ("Nếu những sự cấm đoán chính trị và sự hạn hẹp, tù túng do nó gây khiến chẳng thể nào kiếm ra được một điều gì để nói, thì hãy nói về hội đồng thành phố, về cuộc sống của thành phố bởi vì mọi người luôn thích đọc về những chuyện như vậy!" Lời chỉ bảo trên đây của một tay bỉnh bút tại thành phố Istanbul đã có niên đại hơn một trăm năm).

Vậy là Ahmet Rasim trải qua năm chục năm cuộc đời của ông chỉ để viết về những chuyện thường ngày ở Istanbul, từ đủ thứ hầm bà làng các thế loại bợm nhậu cho đến những người bán hàng rong trên đường phố những khu nghèo khổ, từ các tiệm tạp hóa tới những nghệ sĩ tung hứng, từ những vẻ đẹp của những thành phố dọc theo vịnh Bosphorus cho tới những hầm quán bát nháo và các meyhane, từ các tin tức hằng ngày tới tin tức thương mại, từ những công viên giải trí cho tới những cánh đồng và khu vườn công cộng, từ những ngày chợ cho tới những nét quyến rũ đặc biệt của mỗi mùa, chẳng bỏ qua, thí dụ, vào mùa đông là những cuộc đánh lộn bằng banh tuyết, trượt tuyết, cũng như sự phát triển trong ngành xuất bản, những câu chuyện rỉ tai địa phương, những thực đơn quán ăn. Ông có chút thiên về hệ thống những bảng danh sách, liệt kê, phân loại và có một con mắt thật tốt khi nhìn vào những thói quen, những phong cách riêng của dân chúng. Như một nhà thực vật học trước sự đa dạng của cây mùa hoa trái trong rừng, Rasim cảm thấy cùng một nỗi háo hức như vậy trước các biểu hiện của xung lực Tây phương hóa, làn sóng di dân, những tình cờ của lịch sử, tất cả đem đến cho ông một điều gì thật mới mẻ và kỳ lạ, để mà viết về chúng mỗi ngày. Ông khuyên các nhà văn trẻ 'Tuôn luôn thủ trong người một cuốn sổ tay" khi dạo phố.

Những bài tạp ghi nhất của Rasim, viết trong thời kỳ 1895-1903, sau được gom lại, in dưới nhan đề Thư từ thành phố. Ông không bao giờ ban cho mình cái danh hiệu “nhà bỉnh bút của thành phố”, ngoại trừ khi theo một cách chế nhạo; khi phàn nàn về hội đồng thành phố, đưa ra những nhận xét về cuộc sống thường nhật, đo nhịp đập của thành phố, ông đã mượn thao tác của người Pháp, được phát triển vào những năm 1860. Vào năm 1867, Namik Kemal, người có cái tên sau này trở thành một thứ kinh điển thuộc hàng quan trọng nhất của Thổ Nhĩ Kỳ thời hiện đại, một người ngưỡng mộ Victor Hugo, không chỉ về kịch và thơ mà còn về tinh thần chiến đấu đượm màu lãnh mạn, đã viết một chuỗi những bức thư đăng trên nhật báo Tasvir-i-Efkar về cuộc sống thường nhật của Istanbul trong những ngày Ramadan. Những thư của ông, hay “cột báo thành phố”như được gọi, đã tạo ra một giọng điệu cho tất cả những ai muốn nối gót ông trong việc tạo ra một giọng điệu tâm sự, rủ rỉ chuyện riêng tư, đồng lõa của một lá thư bình thường. Và như thế, bằng cách gửi cho người nhận, tất cả cư dân của thành phố Istanbul, như là gửi cho những bà con, những bạn bè, những người yêu, những lá thư này đã thành công trong việc biến thành phố từ một chuỗi làng xóm thành trọn một cõi tưởng tượng.

Một trong những ký giả như thếlà Ali Efendi Thấu suốt, chủ nhân của một nhật báo có tên Thấu suốt (ông xuất bản tờ báo dưới cái dù của hoàng cung, và khi tờ báo bị đóng cửa, do in một bài viết sau đó bị coi là bất nhã, trong một thời gian ông có cái biệt hiệu tiếu lâm là Ali Etendi Không thấu suốt). Ông đã thực hiện những cú đột kích đầy quyết tâm và không ngưng nghỉ vào cuộc sống thường nhật, khi thì cố vấn, khi thì phê phán quở trách độc giả của mình, và mặc dù chẳng có tí hài hước, ông được rất nhiều tưởng nhớ như là một trong những nhà văn viết thư thật tỉ mỉ của thời ông, nếu không phải là người viết hóm hỉnh nhất.

Như là những nhà bình luận đầu tiên của cuộc sống hằng ngày của thành phố những người giữ mục ấy, từ Ahmet Hasim tới Hurhan Felek, đã tóm bắt được những màu sắc, mùi vị, âm thanh của thành phố, và đẩy chúng vào trong những giai thoại thú vị, những suy tưởng hài hước, và họ cũng còn có công việc trong việc tạo thành cái gọi là tấm bảng hiệu cho những phố phường, công viên, cửa tiệm, con tàu, cây cầu, quảng trường, xe điện của Istanbul. Bởi vì thật thiếu thận trọng nếu chỉ trích nhà vua, nhà nước, cảnh sát, quân đội, các lãnh tụ tôn giáo, và ngay cả những ông nghị nhiều quyền lực, tầng lớp tinh anh của văn học chỉ còn có một mục tiêu khả hữu để mà nhắm vào, và đó là những đám đông không trông cậy vào ai, không mặt mũi, những con người nhỏ bé hằng ngày lầm lũi đi trên đường phố, lo những âu lo của riêng họ, như kiếm tiền nuôi sống gia đình ngày này qua tháng nọ. Tất cả những gì chúng ta biết về những cư dân Istanbul bất hạnh, không được ăn học giống như các nhà binh bút và độc giả của họ – những gì họ làm trên đường phố trong vòng 130 năm qua, họ ăn uống những thứ gì, nói năng những chuyện gì, họ gây ra những tiếng ồn ào gì – chúng ta biết được, là nhờ cái giọng nhiều khi cục cằn, nhiều khi tình cảm, rất thường xuyên mang vẻ hạ cố, mà những nhà bỉnh bút đã viết ra, và coi đó là công việc của mình.

Bốn mươi lăm năm sau khi biết đọc, mỗi khi chạm mắt vào một cột báo, hoặc nó khuyên nhủ tôi hãy về nguồn, hoặc nó ra lệnh phải tăng nỗ lực Tây phương hóa lên gấp đôi, tôi lập tức nghĩ ngay đến mẹ tôi, và câu nói của bà: "Không được chỉ trỏ."