Chương 17 Thú vẽ tranh
Cắp sách đến trường được ít lâu, tôi khám phá ra cái thú vẽ. Có lẽ khám phá là một từ không đúng; nó có hàm nghĩa một cái gì đó, chẳng hạn như Tân Thế Giới, đang nằm đó đợi được tìm ra. Nếu có một tình yêu bí mật, hay một tài năng hội họa ẩn náu ở trong tôi, thì tôi cùng không hề đế ý đến nó cho tới khi bắt đầu cắp sách đi học. Đúng hơn, có lẽ phải nói tôi vẽ bởi vì tôi nhận ra việc này thật sung sướng. Cái sự phát hiện ra tài năng của tôi đến sau đó; ở lúc thoạt đầu, chẳng có gì.
Có lẽ tôi thực có tài, nhưng đây không phải là vấn đề. Giản dị mà nói, tôi cảm nhận ra, vẽ làm tôi hạnh phúc. Đó mới quan trọng.
Nhiều năm sau, một buổi tối, tôi hỏi cha tôi làm sao mà họ nhận ra tôi có khiếu về nghệ thuật. "Con vẽ một cái cây, cha tôi bảo tôi, "và rồi con vẽ một con quạ ở trên một cái cành cây. Ta và mẹ con nhìn nhau. Bởi vì con quạ của con đậu trên cành cây trông đúng y như một con quạ thực ở bên ngoài đời."
Tuy cha tôi trả lời không thực sự đúng vào câu hỏi, nhưng tôi yêu câu chuyện, và cảm thấy hạnh phúc hơn là tin tưởng câu chuyện. Cái cây, và con quạ mà một đứa bé bảy tuổi là tôi khi đó vẽ, thực sự mà nói, chẳng có ghi là ghê gớm. Nhưng rõ ràng cha tôi, một người luôn luôn lạc quan, và quá tự tin vào chính mình, là một người có tài về chuyện thực sự tin tưởng, từ tận đáy của trái tim của ông, rằng những thằng con của ông làm gì cũng đều khác thường. Cách nhìn nhận này rất dễ lây nhiễm, thành thử tôi cũng đâm ra nghĩ mình là một nghệ sĩ vô đối.
Vì dược khen ngợi nở lỗ mủi như vậy nên tôi tưởng tượng mình dược trao cho một cái máy, nó sẽ lam cho mọi người yêu thương, hôn hít, ngưỡng mộ tôi. Và mỗi lần buồn chán, tôi bật cái máy lên, cho ra vài bức. Mọi người tiếp tục mua giấy, bút chì, bút mực, và tôi tiếp tục vẽ tranh, tiếp tục khoe khoang và cha tôi luôn là người đầu tiên. Và ông luôn luôn ban cho tôi một câu trả lời mà tôi mong đợi: trước hết, ông nhìn bức tranh với vẻ ngỡ ngàng, thán phục, điều này làm tôi sướng đến nghẹn thở, và sau đó, giải thích bức tranh. "Này, nhìn này, đẹp làm sao cách con nắm bắt cái cách, cái dáng đứng của người câu cá. Đó là do ông ta đang không dược vui, và biển thì quá u tối. Chắc hẳn là đứa con trai đứng kế ông ta. Những con chim, cá cũng có vẻ như đang chờ đợi. Con thật là thông minh!"
Và thế là tôi lại chạy vào trong, và vẽ một bức khác. Đứa trẻ đứng cạnh người câu cá đúng ra là bạn của ông, chỉ có điều tôi đã vẽ nhỏ quá. Và tôi khoe bức tranh với mẹ tôi, sau khi đã thưởng thức vị ngọt ngào của lời khen của cha:”Mẹ nhìn này. Đây là người câu cá và con trai của người đó.”
“Thật là dễ thương, con trai cưng của mẹ. Nhưng còn bài làm ở nhà thì sao?”
Một bữa sau khi tôi hoàn thành một tác phẩm ở trường, mọi người xúm lại chiêm ngưỡng. Ông thầy với hàm răng nhô ra thậm chí còn treo bức tranh lên tường. Tôi cảm thấy mình giống như một tay ảo thuật gia, lấy những chú thỏ những con chim bồ câu ra khỏi tay áo – tất cả những chú thỏ, những con chim bồ cầu ra khỏi tay áo – tất cả những gì tôi phải làm là vẽ những bức tranh này, và phô ra cho tất cả mọi người, rồi thu thập lời khen ngợi.
Bây giờ, tôi có đủ kỹ năng để được coi là một tài năng. Tôi để ý đến từng nét vẽ đơn giản, trong những cuốn hội họa của nhà trường, trong những cuốn sách hí họa, và trong những bức tranh hí họa trên nhật báo, chú ý đến cách họ vẽ nhà cửa, cây cối, người đứng. Tôi không vẽ từ đời sông: Tôi vẽ từ những bức hình tôi nhìn thấy ở đâu đó, rồi ghi vào trí nhớ. Những bức hình mà tôi lưu giữ đủ lâu trong trí nhớ rồi tái sản xuất phải là những bức hình giản dị. Tranh sơn dầu hay ảnh chụp thì quá rắc rối và tôi không quan tâm tới chúng. Tôi thích những cuốn sách màu, và đi với mẹ tôi tới tiệm Alaaddin để mua. Nhưng không phải để tô màu lên những hình vẽ ở trong đó, thay vì vậy, tôi nghiên cứu, và sau đó tự tôi vẽ chúng. Và, một khi tôi vẽ một căn nhà, một cái cây, hay một con phố thì nó được giữ lại ở trong đầu tôi.
Tôi vẽ một cái cây. Đơn độc, với đủ cành lá. Tôi vẽ thật nhanh những cành lá của nó. Rồi tới những ngọn núi mà bạn có thể nhìn thấy, nhấp nhô giữa đám cành lá. Đằng sau chúng, tôi vẽ một, hay hai ngọn núi lớn hơn. Và rồi – được gợi hứng từ tranh Nhật Bản mà tôi từng xem – tôi sẽ để một thái núi cao hơn, thậm chí còn ấn tượng hơn, ở phía sau trái núi thứ nhất. Tới khi đó, bàn tay tôi như có một linh hồn của riêng nó. Những đám mây, những chim chóc của tôi trông y hệt như tôi đã nhìn thấy chúng ở trong những bức tranh khác. Và khi tới công đoạn chót, thì đó là phần đẹp nhất: Trên đỉnh ngọn núi cao nhất, tôi sẽ vẽ một nhúm tuyết.
Ngắm nghía một cách hãnh diện tác phẩm của mình, tôi lắc lư cái đầu, lúc nghiêng phải, lúc nghiêng trái, chăm chú nhìn thật gần một chi tiết nào đó, nhỏ nhặt nhất, trước khi hoàn tất toàn thể bức tranh. Đúng rồi, đây là một tuyệt phẩm, mà tôi là người đã sáng tạo ra. Không, chưa hoàn toàn là một tuyệt phẩm, nó chưa được như vậy, nhưng nó là do tôi vẽ ra, và nó đẹp. Thật thú vị khi làm ra nó, và giờ đây, thật thú vị khi đứng lui lại một chút, giả đò như mình là một người nào khác, say sưa nhìn ngắm nó, qua cửa sổ.
Đôi khi, nhìn bức tranh do mình sáng tạo ra, qua một cặp mắt của một người nào khác đó, tôi nhận ra một khiếm khuyết. Hay là có khi tôi chỉ mong kéo dài thêm niềm hạnh phúc của mình, của niềm vui sáng tạo. Cách nhanh nhất là thêm vào bức tranh một cụm cây, một vài con chim, một cái lá.
Những năm sau này, có những lúc tôi nghĩ, mình đã làm hỏng những bức tranh của mình với những thêm thắt như vậy. Nhưng nói gì thì nói, chính chúng đưa tôi trở lại những ngày đầu của niềm vui sáng tạo, thành thử thật khó mà cưỡng lại chúng.
Nhưng lạc thú gì tôi có được khi vẽ tranh? Ở đây, một người đàn ông năm mươi tuổi nhớ lại, và đặt ra một khoảng cách giữa ông ta và đứa trẻ là mình ngày nào:
1. Tôi coi vẽ tranh là một thú ở đời là vì nó cho phép tôi tạo ra một phép lạ tức thời mà mọi người xung quanh đều đánh giá cao. Ngay cả trước khi vẽ xong tôi đã mong đợi lời ngợi khen và tình yêu mà tranh của tôi làm bật ra. Và khi sự trông chờ này càng thêm sâu thẳm, thì nó trở thành một phần của hành động sáng tạo, và là một phần của niềm vui từ đó.
2. Sau một thời gian, tay tôi cũng thành thục, cũng ngon lành như mắt tôi. Và như vậy, mỗi khi tôi vẽ một cái cây thật là ngon lành, thì như thế tay tôi chuyển động mà không cần tới cái đầu của tôi ra lệnh. Và khi ngắm nghía cây bút chì chạy trên mặt giấy, tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, như thể bức tranh là chứng tích của một hiện hữu khác, như thế một người khác đã chiếm hữu thân thể tôi. Và trong khi tôi thèm công việc của người khác này, thèm được ngang hàng với anh ta, một phần khác trong đầu của tôi bận rộn kiểm tra những đường cong của đám cành lá, vị trí những ngọn núi, cấu trúc toàn thể bức tranh, suy nghĩ về việc từ một tờ giấy trắng mà tôi tạo nên cả một cảnh trí như vậy. Cái đầu của tôi như ở nơi mũi nhọn của cây bút chì, hành động trước khi tôi có thể nghĩ; và cùng lúc, tôi có thể kiểm tra, coi sóc tất cả những gì tôi đã thực hiện. Cái dòng cảm nhận thú nhì này, cái khả năng phân tích diễn tiến của tác phẩm, là niềm lạc thú mà anh chàng nghệ sĩ nhỏ là tôi cảm thấy, khi anh ta nhìn vào sự khám phá, về sự can đảm và sự tự do của anh ta. Để bước ra bên ngoài chính mình, để hiểu về người thứ nhì chiếm hữu bên trong tôi, là lần lại cái đường phân chia khi cây bút chì chạy trên tờ giấy, giống như một đứa trẻ trượt tuyết.
3. Một sự chia cắt xảy ra, giữa đầu và tay tôi, và cảm giác những ngón tay hành động theo một sự ăn ý của riêng chúng, không cần tới cái đầu, có điều gì đó tương tự với cảm giác chạy trốn vào trong thế giới mộng tướng, trong khi cái đầu của tôi thì như bất động. Nhưng – ngược hẳn lại với những thế giới kỳ quặc mà cái đầu của tôi tưởng tượng, bịa đặt ra – ở đây, những gì mà bàn tay của tôi: sáng tạo, tôi không phải giấu giếm, mà thay vì vậy, đem trình chúng ra cho mọi người nhìn thấy, nhận sự khen ngợi của mọi người, và cảm thấy hạnh phúc, vui sướng ở trong đó. Như thế, vẽ tranh là tìm một thế giới thứ nhì với sự hiện hữu không gây phiền hà.
4. Những sự vật mà tôi vẽ ra, cho dù cái nhà chỉ là nhà tướng tượng, như cái cây, như cụm mây, chúng đều có một cái nền cơ bản, ở trong thực tại vật chất. Nếu tôi vẽ ra một căn nhà, tôi sẽ cảm thấy như thể tôi sở hữu căn nhà đó. Tôi cảm thấy tôi sở hữu mọi thứ gì tôi vẽ ra. Để thám hiểm thế giới này, để sống ở bên trong những cái cây, những cảnh vật mà tôi vẽ ra, để làm bật ra một thế giới thực đến nỗi tôi có thể trình ra cho mọi người thấy, là một sự chạy trốn, đào thoát ra khỏi sự buồn chán của khoảnh khắc hiện tại,
5. Tôi mê ngửi mùi, mê mẩn ngắm sự hiện diện của tờ giấy, những cây bút chì, những cuốn sách tập vẽ, những hộp màu, những vật liệu dùng để vẽ. Tôi khoái mân mê những tờ giấy vẽ còn trắng tinh. Tôi thích giữ gìn những bức tranh mình vẽ ra. Tôi thích cái tính sự vật, sự hiện diện mang tính vật chất của chúng
6. Bằng sự khám phá ra những lạc thú nho nhỏ ấy, tôi dám, với sự trợ giúp của bao lời khen ngợi, tin rằng, mình là một con người khác thường, một con người đặc biệt. Tôi chẳng cần phải năn nỉ, hay làm cho mọi người biết điều này, nhưng họ đều biết như vậy. Cái thế giới mà tôi tạo ra khi vẽ đó, giống như thế giới thứ nhì tôi giấu ở trong đầu tôi, chúng làm cuộc sống của tôi giàu có, hơn cả thế, nó ban cho tôi sự trốn chạy hợp pháp ra khỏi cái thế giới bụi bặm, âm u, của cuộc sống thường nhật. Gia đình tôi không chỉ chấp nhận thói quen mới mẻ này của tôi, mà họ còn chấp nhận quyền của tôi đối với nó.