← Quay lại trang sách

Chương 18 Bộ sưu tập những sự kiện và những điều kỳ lạ của Reşat Ekrem Koçu:-Bách khoa toàn thư về Istanbul

Trong phòng khách của bà tôi có một tủ sách; đằng sau những cánh cửa kính khóa chặt, ít khi được mở của nó giữa mớ bụi phủ mờ bộ Bách khoa toàn thư cuộc sống, một dãy những cuốn tiểu thuyết dành cho thiếu nữ đã ố vàng, những cuốn sách y học của chú tôi, là một cuốn sách rộng và dài như một tờ nhật báo mà tôi khám phá được không lâu sau khi biết đọc. Nhan đề của nó là Từ Osman Gazi tới Ataturk: Toàn cảnh sáu trăm năm lịch sử Đế quốc Ottoman. Tôi mê sự lựa chọn đề tài cùng vô số tranh minh họa kỳ bí ở trong đó. Vào những ngày căn hộ của gia đình chúng tôi còn ở cùng một tầng lầu với khu giặt ủi, hoặc bất cứ khi nào tôi bị ốm không thể đi học, hay trốn học chẳng vì một lý do tốt lành nào, tôi lại leo lên phòng của bà tôi, ngồi tại cái bàn viết của ông chú, và đọc. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần từng dòng của cuốn sách; trong nhiều năm sau đó, khi chúng tôi sống trong căn hộ đi mướn, mỗi lần tới thăm bà, là tôi lại lôi cuốn sách ra đọc.

Tôi đặc biệt thích những bức hình đen trắng, vẽ tay, miêu tả lịch sử triều đại Ottoman: Trong những cuốn sách học ở trường, lịch sử này chỉ là một chuỗi những cuộc chiến tranh, những chiến thắng, những thất bại, và những hiệp ước, một lịch sử được kể trong một giọng điệu tự hào quốc gia chủ nghĩa nhưng Từ Osman Gazi tới Ataturk là một chuỗi những điều tò mò, những biến cố lạ kỳ, và những con người lạ lùng hơn: một phòng tranh gây sốc, làm dựng tóc gáy, khiếp đảm, thậm chí đôi khi còn xúi làm loạn. Theo nghĩa này, cuốn sách như mô tả những đám rước trong một Cuốn sách Ottoman về các Nghi lễ, nơi các phường hội diễu hành qua trước mặt sultan, trình diễn những màn kỳ quặc. Giống như là khi chúng ta bước vô các bức tiếu họa trong những cuốn sách bí mật, và ngồi kế bên sultan trong lúc Ngài, từ những khung cửa sổ cung điện giờ đây tên là Ibrahim Pasha, nhìn ra quảng trường Sultanahmet, bao quát những giàu sang, những màu sắc rực rỡ, những quang cảnh, sắc thái của vương quốc của Ngài, với biết bao nghệ nhân khác nhau, trong những bộ trang phục nghề nghiệp của họ. Chúng ta thích thú nói cho nhau nghe, sau khi nền Cộng hòa được thành lập và Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một quốc gia Tây phương, chúng ta cưu mang ẩp ủ ở trong chúng ta niềm kiêu hãnh về nguồn gốc, dòng dõi Ottoman của chúng ta, và trở thành những con người, một dân tộc "thuần lý và khoa học hơn.” Có lẽ vì vậy mà thật sung sướng khi ngồi từ một khung cửa sổ hiện đại mà đưa mắt nhìn về những sự kỳ cục, lạ lùng, về cái tính người bất chợt ở các tiền nhân Ottoman mà chúng ta để lại phía sau.

Chính là trong tình trạng như thế mà tôi đã đọc về anh chàng đi dây băng ngang Mũi Vàng trên một sợi dây buộc giữa hai cột buồm của hai con tàu đế ăn mừng lễ cắt bao quy đầu của con trai Sultan Ahmet III, Hoàng tử Mustafa và nghiên cứu bức hình đen trắng vẽ lại sự kiện kể trên. Và tôi cũng khám phá, do "cha ông chúng tôi" nghĩ rằng thật không hay khi chôn những con người bình thường cùng trong một nghĩa địa chôn những kẻ sinh sống bằng cách giết người, một nghĩa địa đặc biệt đã được xây dựng dành riêng cho những tên sát nhân tại Karyagdi Bayiri, Eyup. Tôi đọc thấy, vào thời kỳ vua Osman II, năm 1621, có một mùa đông cực kỳ lạnh giá đến nỗi vùng biển Mũi Vàng và một phần vịnh Bosphorus đóng băng; cũng như ở rất nhiều bức minh họa trong sách, chưa bao giờ tôi nghĩ rằng bức hình ghi lại cảnh tượng những con thuyền bị buộc vào những miếng trượt tuyết, những chiếc tàu dính cứng vào băng lại có thể phản ánh quyền lực trí tưởng tượng của người nghệ sĩ hơn là thực tại lịch sử; tôi chẳng hề mệt mỏi khi nhìn những bức hình như vậy. Những bức vẽ hai người điên khùng nổi tiếng cùa Istanbul sống vào thời kỳ Abdulhamit II cũng rất lôi cuốn. Người thứ nhất, một người đàn ông tên là Osman, có thói quen trần truồng mà đi bộ trên đường phố, và người nghệ sĩ trưởng giả đã sử dụng chính sự tủi hổ như là một mảnh vải khoác lên cơ thể trần trụi. Người điên kia, một người đàn bà có tên là Bà Upola, mặc bất cứ thứ gì bà kiếm thấy. Theo như tác giả bức hình, bất cứ khi nào hai người điên này gặp nhau, là cả hai lăn xả vào nhau đánh lộn cực kỳ hung dữ, vì vậy, họ không bao giờ được phép vượt cây cầu. (Cây cầu: Thời kỳ đó không có cầu nào khác qua vịnh Bosphorus, chỉ có cây cầu bắc qua Mũi Vàng, cầu Galata: được xây nối hai đầu Karakoy và Eminonu vào năm 1845, nó đã được xây cất đi xây cất lại ba lần tính tới cuối thế kỷ hai mươi, nhưng cây cầu đầu tiên, bằng gỗ được giản dị gọi là "cây cầu". Tới lúc này thì mắt tôi sáng rỡ lên khi nhìn thấy bức hình một người đàn ông lưng đeo một cái giỏ, cổ bị tròng một sợ dây, đầu kia buộc vào một thân cây, và tôi đọc tiếp để biết là một trăm năm trước, một người bán bánh rong đã buộc một con ngựa như vậy để vào chơi bài trong tiệm cà phê, và một viên chức thành phố tên là Huseyin Bey đã trừng trị anh ta y như thế, vì đã hành hạ một con vật vô tội.

Làm sao biết những câu chuyện như vậy, trong đó rất nhiều được xếp vào "các nhật báo đương đại," là chuyện thực. Thí dụ, chúng ta được biết, vào thế kỷ mười lăm, Kara Mehmet Pasha đã mất đầu khi cố dẹp một cuộc nổi loạn, va có thể việc nhìn thấy cái đầu đáng kính của chủ đã thuyết phục đám lính tráng dẹp tan cuộc nổi loạn, và cũng có thể, khi nhận được cái đầu của vị tể tướng, đám nổi loạn đã trút hết sự giận dữ của họ lên đó, như nhiều người hẳn sẽ làm khi ở vào cùng hoàn cảnh. Nhưng có thực là đám nổi loạn đã dùng cái đầu của vị pasha làm trái banh để chơi túc cầu như trong hình vẽ? Tôi chưa hề mất quá nhiều thì giờ cho những câu hỏi như vậy, và thay vì nghi ngờ, giở tiếp trang sách tới đoạn nói về Ester Kira, một mụ "thu thuế" của thế kỷ mười sáu, và còn là người nhận hối lộ cho nhà vua Sahye Sultan, theo lời kể lại; bị giết trong một cuộc nổi loạn khác, thân thể mụ bị chặt ra thành nhiều phần, mỗi phần được đóng đinh lên cửa nhà những người từng đút lót tiền cho mụ. Tôi khiếp sợ nhìn bức vẽ đen trắng, một bàn tay bị đóng đinh lên cánh cửa.

Koçu một trong bốn nhà văn buồn bã mà tôi đã miêu tả lúc trước – đặt sự chú tâm lớn lao nhất của ông vào những chi tiết kỳ lạ, kinh khiếp của một đề tài khác nữa, và đề tài này cũng gây sự thích thú đối với các nhà du lịch từ Tây phương tới: các phương pháp của những kẻ chuyên tra tấn và hành quyết ở Istanbul. Một nơi chôn tại Eminonu được đặc biệt xây dựng cho điều được gọi là Móc Câu. Những kẻ bị kết án, trần trụi như khi vừa ra khỏi bụng mẹ, bị móc vào cái móc sắc, và bị nhấc lên khỏi mặt đất bằng một sọi dây ròng rọc, va rồi rớt xuống cai bịch, khi sợ dây ròng rọc được nhả ra.

Có một tên lính vệ binh Thổ, yêu say đắm vợ một thầy tế20,bắt cóc cô gái, cắt mớ tóc dài, và dẫn cho đi vòng vòng trên phố trong trang phục một đứa con trai; khi anh ta bị bắt, họ bẻ gãy chân tay anh lính, tống anh ta vào nòng súng ca nông, nhồi thêm giẻ tẩm dầu, thuốc súng, châm ngòi và đùng một phát, bắn anh ta lên trời.

MỘT PHƯƠNG PHÁP HÀNH QUYẾT BẢO ĐẢM LÀM AI CŨNG PHẢI KINH HÃI! đó là cái tiêu đề ở trong cuốn bách khoa toàn thư, để miêu tả một sự trừng phạt ghê tởm khác. Trần trụi và mặt cắm xuống đất, kẻ bị kết án bị buộc vào người một cây thập tự và, dưới ánh sáng của những cây đèn cầy cắm vào vai, vào mông, và cứ thế bị diễu đi trên các đường phố “để làm gương" cho tất cả mọi người. Phản ứng của tôi khi nhìn thấy cảnh đó không chỉ là khiếp sợ mà còn có cả sự rúng động dục tình, và không phải là không thích thú khi nghĩ rằng lịch sử của thành phố Istanbul còn có thể coi như là một phòng tranh cùa sự chết chóc, tra tấn, và ghê rợn, được minh họa bằng những bức hình đen trắng u tối.

Thoát đầu, Reşat Ekrem Koçu không có ý định viết một cuốn sách. Mãi tới năm 1954, các phụ trương bốn trang của tờ Cumhuriyet chứa đựng "Những sự kiện kỳ lạ, gây tò mò từ lịch sử của chúng ta” mới được đóng lại thành một tuyển tập. Đằng sau những câu chuyện lạ lùng, những điều kỳ cục, những chi tiết nhỏ nhặt có tính lịch sử và bách khoa là câu chuyện kỳ lạ và bi thảm của riêng Koçu. Công trình đầy đam mê của ông – được bắt đầu từ mười năm trước đó, năm 1944, và sự nghèo túng đã khiến ông phải bỏ ngang vào năm 1951, ở trang thứ 1000, tập 4, trong khi vẫn ở vần B – là cuốn Bách khoa toàn thư về Istanbul.

Mấy năm sau đó, Koçu bắt tay vào bộ Bách khoa toàn thư về Istanbul thứ hai, mà ông gọi đầy đúng đắn và tự hào là "cuốn bách khoa toàn thư đầu tiên trên thế giới về một thành phố" lại bắt đầu với mẫu tự A. Giờ đây đã năm mươi hai tuổi, sợ lại phải bỏ ngang công trình khổng lồ của mình, ỏng rút nó lại, giản dị chỉ còn mười lăm tập, và cũng quyết định làm sao cho các mục từ trong tác phẩm của ông có tính "phổ thông" hơn. Kể từ lúc này, ông cảm thấy tự tin hơn và tự nhủ tại sao không thám hiểm những quan tâm có tính cá nhân của ông trong cuốn bách khoa toàn thư của minh. Cuốn đầu được ông cho ra lò vào năm 1958; năm 1973, ông đang ở cuốn thứ mười một – nhưng vẫn chỉ tới được mẫu tự G – thì lại bị buộc phải bỏ ngang, đúng như ông từng sợ. Tuy nhiên, bản Bách khoa toàn thư thứ nhì này, với những mục từ lạ lùng, màu sắc rực rỡ, quả là một hướng dẫn vô tiền khoáng hậu, nhập vô linh hồn thành phố Istanbul thế kỷ hai mươi, bởi vì những gì đan dệt nên nó cũng chính là những gì đan dệt nên thành phố. Để hiểu tại sao lại như vậy, chúng ta cần có một cảm quan về chính bản thân Reşat Ekrem Koçu.

Koçu là một trong những linh hổn bị hüzün ám lấy nặng nề đã giúp tạo nên một hình ảnh về Istanbul của đầu thế kỷ hai mươi như một thành phố chưa hoàn toàn bị nhiễm độc nỗi buồn. Hüzün định nghĩa cuộc đời ông, trao cho tác phẩm của ông một thứ logic ẩn giấu, và đẩy ông vào một cuộc lữ thứ cô đơn chính là sự thất bại sau cùng của ông, nhưng – cũng như các nhà văn khác cùng một hệ – ông đã thực tình coi đây là trung tâm điểm của cuộc đời của ông, và chẳng thèm suy nghĩ gì thêm về chuyện này. Sự thực, Reşat Ekrem Koçu không hề coi hüzün của ông như là do chuyện đời, gia đình, hay thành phố, mà là bẩm sinh. Nhưng là một kẻ chưa đi mà đã muốn về, lúc nào cũng nghĩ rằng vào đời có nghĩa là chấp nhận thất bại ngay từ thuở đầu, cho nên ông không hề coi những chuyện buồn, vướng lụy của ông như là di sản của thành phố Istanbul. Trái lại, Istanbul là niềm an ủi của ông.

Reşat Ektem Koçu sinh năm 1905, trong một gia đình công chức và giáo viên. Mẹ ông là con gái của một pasha; cha ông là ký giả trong nhiều năm. Suốt thời thơ ấu của mình ông chứng kiến những cuộc chiến, những thất bại, và những làn sóng di dân đã chấm dứt Đế chế Ottoman, và đây thành phố Istanbul vào sự bần cùng, khốn khó kéo dài nhiều thập niên không làm sao ngóc đầu lên được. Ông thường trở về với các đề tài ấy trong những cuốn sách, những bài viết sau này của ông, như thể ông muốn trở về với những đám cháy lớn lao sau cùng của thành phố Istanbul, những người lính cứu hỏa, những cuộc đánh lộn trên đường phố cuộc sống phố phường, và những meyhane mà ông nhìn thấy khi còn trẻ. Ông có nhắc tới một yah ở Bosphorus nơi ông đã từng sống khi còn là một đứa trẻ, và sau đó bị lửa thiêu rụi. Khi Reşat Ekrem hai mươi tuổi, cha ông mướn một villa Ottoman cổ ở Göztepe. Ở đây, chàng thanh niên Koçu sống cuộc sống tại cái nơi thấm đẫm truyền thống của những cái köşk bằng gỗ của Istanbul, và sống khá lâu trong cảnh trí này, trước khi gia đình lớn của ông bị phân tán. Như rất nhiều gia đình thuộc loại này, việc ngày một nghèo đói mãi thêm, và những thù hận trong nhà khiến gia đình ông phải bán cái köşk bằng gỗ, sau đó Koçu vẫn ở lại Göztepe, nhưng tách lìa hẳn ra khỏi gia đình, và sống trong những căn hộ bê tông khác nhau. Có lẽ không lựa chọn nào diễn đạt đầy đủ linh hồn buồn bã hoài nhớ dĩ vãng của Koçu bằng việc ông quyết định ghi danh học môn sử tại Istanbul – vào thời kỳ đế quốc sụp đổ, ý thức hệ Cộng hòa nổi lên, và thành phố Istanbul hướng về Tây phương đã bắt đầu tống khứ, đàn áp, nhạo báng, và nghi ngờ bất cứ thứ gì dính dấp tới quá khứ Ottoman – và sau khi ra trường, trở thành phụ tá của ông thầy mà ông yêu quý, nhà sử học Ahmet Refik.

Sinh năm 1880, lớn hơn trò hai mươi lăm tuổi, Ahmet Refik là tác giả của một chuỗi tác phẩm có tên Cuộc sống Ottoman trong những thế kỷ đã qua; chúng được in (cuốn bách khoa của Koçu cũng sẽ được in ấn như vậy) thành từng tập nhỏ một, dần dần trở nên phổ thông, và sau cùng biến tác giả của nó, Ahmet Retik, thành nhà sử học hiện đại đầu tiên của thành phố Istanbul được nhiều người biết tới. Khi không có giờ tại đại học, ông đắm mình vào mớ hồ sơ lưu trữ bụi bặm lộn xộn về thời kỳ Ottoman (thời đó người ta gọi chúng là “kho tàng hồ sơ”), đào bới những bản thảo viết tay của các nhà chuyên viết ký sự thời Ottoman; từ những chất liệu như vậy, ông gạn lọc ra những gì mà ông cần, và bởi vì – cũng như Koçu – ông có một tài năng đặc biệt trong thể văn xuôi sống động (ông mê thể văn trữ tình và làm thơ những khi rảnh rỗi), những bài viết của ông ở trên nhật báo được nhiều người đọc, đọc rộng rãi, và sau đó được tập hợp thành sách. Kết hợp lịch sử và văn chương, lấy ra được những sự giàu có kỳ lạ nằm trong hồ sơ lưu trữ, và chuyển chúng vào trong những bài viết trên nhật báo, tạp chí, lúc nào cũng la cà tiệm sách này qua tiệm sách khác, biến lịch sử thành một món ăn tinh thần thật dễ nuốt, trải qua những buổi tối dài cùng bạnh bè trong các meyhane, ăn nhậu, trò chuyện – những thú ăn chơi như vậy, Koçu thừa hưởng từ ông thầy của mình. Buồn một nỗi, cuộc hợp tác của thầy trò yểu tử, vì Ahmet Retik bị đẩy ra khỏi chức vị của ông ở đại học vào năm 1933, thời kỳ xảy ra công cuộc cải tổ Đại học Istanbul (Darülfünun). Cảm tình của ông với Đảng Tự do và Đồng lòng đối nghịch với Atatürk, và hơn thế nữa, nỗi mê mải lịch sử và văn hóa Ottoman khiến ông mất cái ghế đại học nổi tiếng (cũng thời kỳ này ông ngoại tôi bị tống ra khỏi đại học Luật khoa). Và khi thầy mất việc, thì trò, Reşat Akrem Koçu, cũng mất việc luôn.

Koçu rầu rĩ chứng kiến ông thầy suy sụp sau khi bị thất sủng trước Atatürk và nhà nước. Không một xu, vô danh, bị đời quên lãng, ông thầy phải bán thư viện của ông, nay một tí, mai một tí, để trả tiền thuốc men, và sau khi chiến đấu trong năm năm, ông chết trong nghèo khổ. Và lúc đó, hầu hết trong số chín chục cuốn ông viết khi còn sống đều tuyệt bản. (Số phận của Koçu cũng vậy, bốn chục năm sau).

Sau khi Ahmet Retik mất, trong một bài viết, trò tưởng niệm thầy, coi thầy bị quên lãng ngay khi còn sống, Koçu nhớ lại chính tuổi thơ của mình: “Trong những năm tuổi thơ không lo nghĩ của mình, tôi chẳng khác gì một chú cá vảy bạc lóng lánh, lên lên xuống xuống mặt nước do mắc phải mồi câu, tại quãng nước phía trước yah ở vịnh Bosphorus của chúng tôi.” Ông nhớ lại, lần đầu đọc ông thầy khi còn là (có ảnh) một đứa bé mười một tuổi, sung sướng, vô tư lự trước khi thành phố làm cho ông trở nên buồn phiền như lịch sử Đế chế Ottoman. Nhưng không phải chỉ thành phố phóng đãng và cùng quẫn bón mớm cho nỗi sầu của Reşat Ekrem Koçu; đó còn là cuộc chiến đấu của chính ông, một người đồng tính luyến ái, để làm sao sống sót tại thành phố vào nửa đầu của thế kỷ hai mươi.

Và cũng thật là đáng kể, khi nhìn ông diễn tả những ham muốn nhục dục của mình trong những cuốn tiểu thuyết phổ biến, dữ dằn, khốc liệt, giông bão, và liều lĩnh hơn, ở ngay trong Bách khoa toàn thư về Istanbul của ông. Thực vậy, Reşat Ekrem Koçu thật quá can đảm, liều lĩnh cùng mình, so với bất cứ một người cùng thời nào với ông, về vấn đề đồng tính. Ngay từ những tập nhỏ đầu tiên của cuốn bách khoa toàn thư, và trong những tập sau càng tăng thêm cường độ, ông chẳng bao giờ bỏ qua một cơ hội để ca ngợi vẻ đẹp của mấy chú con trai và mấy cậu thanh niên, ở đây là Mirialem Ahmet Ağa, một trong những cậu con trai được Süleyman Tuyệt vời bảo trợ để dạy dỗ (“mạnh như một con rồng, hai tay giống nhau hai cành cây sồi, lanh lẹ như một con bò đực”) và Cafer Thợ Cạo, được nhắc tới bởi nhà thơ Evliya Ҫelebi của thế kỷ mười sáu, người ca ngợi, trong “Şehrengiz”, vẻ đẹp của những người thợ trẻ Istanbul (“dòng máy trẻ nổi tiếng vì vẻ đẹp của anh ta”). Có một mục viết cề “Yetim Ahmed, người mại bản đẹp trai”: “Một đứa con trai chân trần, với chiếc quần vá ở chừng bốn chục chỗ mà làn da có thể nhìn thấy qua những chỗ rách của chiếc áo sơ mi, nhưng nếu chỉ đánh giá qua vẻ bề ngoài, cậu là một ngụm nước mát, cặp lông mày của cậu, cái đẹp ngự trị trên lông mày và trán cậu như đặc quyền của một vị sultan, mớ tóc bồng bềnh như bờm sư tử, làn da tối của cậu như tẩm vàng ròng, cái nhìn của cậu mới quyến rũ, giọng nói của cậu mới ngọt ngào làm sao, thân hình của cậu rắn chắc, mạnh mẽ giống như một cây gậy thẳng băng.” Mặc dù khen nức nở như thế, nhưng Koçu, như các nhà thơ Đi văng, luôn lo lắng sao cho các họa sĩ minh họa luôn vẽ những người hùng chân trần của ông theo đúng chừng mực quy ước của một xã hội lịch lãm, và luật pháp. Nhưng sự căng thẳng giữa (có hình) quy ước và thực tại thì thật là rõ ràng qua những trang sách. Trong mục “tuyển vệ binh Thổ,” ông vừa viết vừa tô điểm thêm, chuyện “ma mới”, là thanh thiếu niên chưa để râu lần đầu gia nhập quân đội, được ma cũ, “lực lưỡng, bự con, vòng tay như gọng kềm” bảo kê. Trong mục “lưỡi gươm trẻ đẹp trai“ ông đưa ra nhận xét, “vẻ đẹp mà Thơ ca Đi văng thường xuyên ca ngợi là vẻ đẹp nam giới.” Đối tượng của sủng ái “luôn luôn là một bộ mặt tươi mát của một cậu trai” – và ông thật mê xục xạo tìm ý nghĩa nguyên thủy của những từ ngữ này. Trong mấy cuốn đầu, các chàng trai trẻ được cẩn thận gài vô những sự kiện lịch sử, văn hóa, và xã hội mà họ minh họa, nhưng trong những cuốn sau, Koçu chẳng cần nại cớ này cớ nọ mà cứ vô tư ca ngợi vẻ đẹp của mấy đấng nam nhi tuổi đời còn non choẹt – vì những đôi chân tuyệt đẹp của họ – hay bàn về sự biến dạng của họ. Dưới cái tiêu đề “Chàng thủy thủ Dobrilovitch,” chúng ta đọc về một chàng trẻ, “đẹp trai đáng chú ý,” người Croatia, thủy thủ của Hayriye Company, người có cặp chân, vào ngày 18 tháng Chạp năm 1864, bị kẹt ở giữa con tàu và bến tàu, khi tàu của anh ta cập bến Kabataş (đây là nỗi sợ sâu xa mà mọi người trong thành phố đều cảm thấy). Chân của anh và chiếc bốt rớt xuống biển; và tất cả những gì mà anh thanh niên Croatia này nói, là: “Thế là mất cái bốt rồi!”

Trong những cuốn đầu, các chàng thanh thiếu niên đẹp trai, những cậu trai trẻ, và những người đàn ông đẹp trai chân trần của tác giả, từ quá khứ Ottoman, nếu cả đám họ đều không thực, thì ít nhất họ cũng đã được gợi hứng từ những “cuốn sách về thành phố” (şehringiz), những giai thoại phổ biến, và từ các kho tàng mà tác giả kiếm thấy trong những thư viện bị lãng quên của thành phố; chúng bao gồm cả các bản thảo, những tuyển tập thơ, những cuốn sách về cơ may, về vận số, những cuốn sách “bí mật,” và đặc biệt, rất giàu có nếu nói về khả thể, hồ sơ lưu trữ những tờ nhật báo của thế kỷ mười chín (quả thực, trong một tờ báo đó ông kiếm ra sự kiện liên quan tới anh chàng thủy thủ Croatia).

Càng lớn tuổi thêm Koçu càng nhận ra, với sự buồn rầu và giận dữ, rằng ông không thể nào hạn chế cuốn sách của mình vào con số mười lăm cuốn, và thật là bi đát nếu để cho nó dở dang, ông không còn tự buộc mình phải đi tìm những cậu bé đẹp trai từ trong quá khứ được ghi chép lại nữa. Ông bắt đầu tìm cách đưa các mục về nhiều cậu bé mà ông, dưới cớ này cớ nọ, đã gặp trên đường phố tại các meyhane, tiệm cà phê, gazino, trên những cây cầu của thành phố, đây là chưa kể những cậu bán báo trên hè đường với mỗi cậu ông lại có một mối quan tâm đặc biệt, và thậm chí cả những cậu học trò thật trong trắng, thật xinh xắn bán huy hiệu cho Hiệp hội Hàng không Thổ Nhĩ Kỹ dịp lễ Ramadan. Thí dụ, vào năm thứ mười của bộ bách khoa toàn thư, ở trang 4767 của cuốn thứ chín, xuất bản vào năm tác giả sáu mươi ba tuổi, Koçu cho vào một mục về “một cậu bé nhào lộn thật điêu luyện, tuổi chừng 14 hay 15, gặp giữa năm 1955 và 1956.” Koçu nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy cậu bé vào một buổi tối tại And, một rạp xi nê mùa hè ở Göztepe, khu phố mà ông trải qua hầu hết cuộc đời của mình: “Cậu bé đi giày trắng, mặc quần dài trắng, áo flanen với ngôi sao và hình bán nguyệt ở phía trước, và trong khi biểu diễn tài năng đã trút bỏ quần áo, chỉ giữ lại chiếc quần sọc trắng, với bộ mặt thật trong trắng thật đáng yêu, với dáng vẻ thật phong nhã, lịch sự, và những ứng xử rất lịch thiệp, cậu chẳng thua gì những người như cậu bên Tây phương. ”Tác giả tiếp tục miêu tả mình đã cảm thấy buồn rầu như thế nào khi màn biểu diễn chấm dứt, cậu bé cầm một chiếc khay đi vòng vòng, nhưng ông lại mừng rỡ, bởi vì cậu bé không nhận tiền, và cũng không tỏ ra quấy rầy, hay nịnh bợ khán giả. Ông kể tiếp, cậu bé sau đó có trao cho một vài người trong số khán giả tấm danh thiếp của cậu, và nhà văn năm mươi tuổi cùng cậu bé đã trở thành chỗ quen biết. Dù cho tác giả đã viết rất nhiều thư cho cậu bé và gia đình, mối quan hệ giữa hai bên bị cắt đứt đâu đó trong khoảng thời gian mười hai năm giữa lần đầu gặp tại rạp xi nê và sự xuất hiện của bài viết trong cuốn bách khoa; ông tiếp tục than van về cái chuyện thư có gửi đi mà không có trả lời, và không biết số phận của cậu bé sau đó ra sao.

Trong thập niên 1960, khi tác phẩm của Koçu tiếp tục xuất bản từng tập nhỏ, độc giả kiên nhẫn của ông không coi Bách khoa toàn thư về Istanbul chỉ như là một tham chiếu đơn giản có tính sự kiện về thành phố mà thật ra họ đọc nó như là một tạp chí hòa trộn trong đó sự kỳ quái, khác thường, với cuộc sống thường nhật trong thành phố. Tôi nhớ những lần thăm viếng các gia đình lối xóm, họ để những tập sách ấy chung với các tạp chí hằng tuần. Tuy nhiên, Koçu vẫn thật khó mà trở thành một cái tên quen thuộc của mọi gia đình. Thành phố trong bách khoa buồn thỉu buôn thiu của ông thật kỳ so với lôi sông của Istanbul thập niên 1960, và đâu có (có hình) nhiều độc giả chịu nổi, chứ chưa nói đến chuyện đánh giá cao sở thích giới tính của ông. Nhưng năm chục năm cứ thế qua đi, bộ Bách khoa toàn thư về Istanbul đầu tiên và những tập đầu tiên của bộ thứ nhì có được một lượng độc giả trung thành, đặc biệt là các nhà văn và giới học giả, những người hăm hở tìm hiểu cơn hối hả Tây phương hóa Istanbul và sự thiêu rụi, phá hủy, triệt hạ và bôi xóa quá khứ của nó, và tuyên bố những cuốn đầu có tính cách “nghiêm túc” và “khoa học.” Về phần tôi, chỉ tới khi lướt qua những trang sách của những cuốn về sau, được tạo ra từ một số lượng nhà văn nhỏ hơn và dành rất nhiều chỗ cho những ám ảnh cá nhân của Koçu, thì tâm trí tôi mới bắt đầu cất cánh, bay bổng một cách thật là hạnh phúc giữa hiện tại và quá khứ.

Và khi gấp lại cuốn sách, tôi có cảm tưởng nỗi buồn của Koçu là hậu quả từ sự sụp đổ của Đế quôc Ottoman sự suy sụp của thành phố Istanbul ít hơn nhiều so với là từ tuổi thơ u ám của ông trong những yah và köşk ấy. Chúng ta có thể coi nhà bách khoa toàn thư của chúng ta như là người sưu tầm điển hình người sau nỗi đau cá nhân của mình, bèn rút ra khỏi thế giới để sống giữa các đồ vật. Nhưng Koçu thiếu cái chủ nghĩa duy vật của một người sưu tầm cổ điển; sự quan tâm của ông không phải là về đồ vật, mà là sự kiện khác thường. Cũng chẳng khác rất nhiều nhà sưu tầm Tây phương không hề biết liệu những sưu tập của họ chấm dứt tại một viện bảo tàng hay bị tản mát đi, Koçu không hề có một kế hoạch lớn một khi sự thúc đẩy đầu tiên tóm lấy ông; ông bắt đầu sưu tầm vì một mối quan hoài đối với bất kỳ sự kiện gì ngõ hầu nói được cho ông điều gì đó mới về thành phố.

Chỉ tới khi nhận ra rằng cứ sưu tầm mãi như thế thì chẳng bao giờ biết giới hạn sau cùng là ở đâu, ông mới nghĩ tới một cuốn bách khoa toàn thư, và kể từ khi đó, ông mới luôn có ý thức về “tính sự vật” của bộ sưu tập của ông. Khi giáo sư Semavi Eyice, một sử gia về nghệ thuật Byzance và Ottoman, quen biết Koçu từ năm 1944 và viết nhiều mục cho cuốn bách khoa ngay khi vừa bắt đầu, viết về Koçu sau khi Koçu mất, ông đã miêu tả cái thư viện rộng lớn của Koçu, chất thành từng chồng thật cao các “vật liệu” mà ông để vô những chiếc phong bì – những kẹp báo, những xấp hình ảnh, hồ sơ, và ghi chú (giờ đây đã mất), tích tụ của bao nhiêu năm trời ông đọc những tờ nhật báo của thế kỷ mười chín.

Khi Koçu nhận ra rằng ông không còn sống bao lâu để hoàn thành bộ bách khoa, ông nói với Semavi Eyice là ông sẽ thu gom toàn bộ sưu tập của mình, một đời cặm cụi làm việc và đem đốt chúng tại vườn nhà ông. Chỉ một nhà sưu tầm thực thụ mới có thể làm được một hành động như vậy, chuyện này làm ta nhớ tới tiểu thuyết gia Bruce Chatwin, người một phần cuộc đời làm việc tại Sotheby's và một nhân vật của ông, Utz, kẻ trong một cơn điên khùng đã hủy diệt bộ sưu tầm đồ sành sứ của mình. Koçu, sau cùng, đã không để cho sự giận dữ lấn át, vả chăng, giả như ông làm như vậy thì sự tình cũng chẳng có chi khác biệt cho lắm; mức sản xuất của Bách khoa toàn thư về Istanbul ngày một chậm đi, và ngưng luôn vào năm 1973. Hai năm trước đó, đối tác giàu có của ông đã chỉ trích Koçu vì chuyện ông đưa vào trong cuốn bách khoa nhiều đoạn dài quá mức và không cần thiết, chỉ nhằm thỏa mãn những sở thích trái khoáy của ông; Koçu đã quạt lại ông bạn, chuyển toàn bộ sưu tập – bản thảo, báo chí, tranh ảnh – từ văn phòng tại Babiali về căn hộ của ông ó Cöztepe Không làm sao tổng hợp câu chuyện buồn của quá khứ vào (hình ảnh) trong một văn bản, hay đưa nó vào điện thờ trong viện bảo tàng, Koçu trải qua những năm sau cùng của một căn hộ với những hồ sơ, tài liệu chất thành núi. Sau khi bà chị mất, căn köşk bằng gỗ mà cha ông dựng lên được đem bán, nhưng Koçu không từ bỏ khu xóm cũ. Ông gặp Mehmet, và cậu bé này trở thành bạn đường của ông trong những năm tháng cuối cùng của đời ông, đúng như ông đã từng gặp rất nhiều những đứa trẻ mà ông miêu tả trong cuốn bách khoa toàn thư; Mehmet là một cậu bé vô gia đình, ông mang về nhà nuôi nấng như một đứa con trai; vào những năm sau này, Mehmet thành lập một nhà xuất bản.

Bốn chục, hay cũng cỡ đó, “bạn bè” – hầu hết trong số họ là sử gia như Semavi Eyice, hay những khuôn mặt văn học – đóng góp phần của họ vào Bách khoa toàn thư về Istanbul trong suốt năm mươi năm, mà chẳng hề nhận một đồng xu thù lao. Một vài người, như Sermet Muhtar Alus (viết hồi ký, và tiểu thuyết hài hước về Istanbul thế kỷ mười chín với những nhân vật, những biệt thự và sự phiền lụy do các pasha gây nên), và Osman Nuri Ergin (viết lịch sử rất tỉ mỉ về hội đồng thành phố và đã cho xuất bản một cuốn sách hướng dẫn nổi tiếng về Istanbul vào năm 1934), thuộc về một thế hệ già hơn và đang chết dần chết mòn vào lúc những cuốn đầu tiên của Koçu ra lò. Những người thuộc thế hệ trẻ hơn cũng tìm tránh né Koçu, “bởi vì những điều trái khoáy của ông” (như Eyice nói). Vì vậy mà những cuộc mạn đàm – những cuộc trò chuyện tại văn phòng hay vào những buổi tối dài tại một meyhane – ngày một ít đi.

Giữa 1950 và 1970, Koçu thích bắt đầu những buổi tối của ông với bạn bè ở các văn phòng của cuốn bách khoa, và sau đó, rút về một meyhane ở Sirkeci. Chẳng hề bao giờ có bóng dáng một người đnà bà nào trong đám họ: Nhóm nhà văn nổi tiếng này sống trong một thế giới đàn ông không có gì chê trách, được coi như đại diện cho thế hệ cuối cùng của văn chương. Đi văng, và nền văn hóa đàn ông của Đế chế Ottoman. Với kiểu hình dung về phụ nữ quá quen thuộc, niềm say mê lãng mạn, coi tình dục như là tội lỗi dơ dáy, gian trá, cạm bẫy, thất vọng, dâm loạn, sa đọa, yếu đuối, thảm họa, và sợ hãi, thứ văn hóa đàn ông truyền thống này tự biểu hiện nó trên bất cứ trang nào của bộ bách khoa toàn thư; suốt chiều dài ba mươi năm của nó, chỉ có đâu một hay hai phụ nữ góp mặt với một bài viết. Cuối cùng những buổi tối ở meyhane gồm toàn cánh đàn ông trở thành một phần của nghi thức viết–xuất bản, quan trọng đến mức xứng dáng có được một mục từ riêng: trong bài viết “những đêm ở meyhane,” Koçu điểm mặt những khuôn mặt văn nghệ đã anh hướng tới cuốn bách khoa, đồng thời nhắc tới việc các nhà thơ thời Ottoman, cũng như ông, không thể nào bỏ qua dù chỉ một buổi tối dưới hầm. Ông bồi hồi nhớ về những cậu bé đẹp trai đã từng dâng rượu cho họ; sau khi ngòi bút của ông ca ngợi quần áo, khăn choàng, dáng điệu phong nhã, lịch sự của những cậu bé, Koçu vinh danh nhà văn lớn lao nhất trong các nhà bính bút của những đêm meyhane, Ahmet Kasim mà chúng ta đã nói tới. Tình yêu lịch sự, đúng đắn của ông dành cho Istanbul, và tài cảm nhận những bức tranh sống động đã khiến ông có một ảnh hưởng lớn lao lên Reşat Ekrem Koçu và cả thầy của ông, Ahmet Refik.

Trong cả hai bộ Bách khoa toàn thư về Istanbul và bài viết “dựa trên những tài liệu thực” cho các nhật báo, Koçu đều lấy những câu chuyện sôi nổi về một Istanbul cổ xưa của Ahmet Rasim, và tẩm vào trong đó mùi Vị của sự tàn bạo sự hồi hộp của biến động, và một không khí hương xa cỏ lạ, một màu sắc lãng mạn. (Hai thí dụ tuyệt nhất là “chuyện gì xảy ra tại Istanbul khi người ta đi tìm tình yêu” và “các meyhane cổ ở Istanbul, những đứa con trai khiêu vũ ngoại lai, và những đàn bà nam.”) Lợi dụng sự lỏng lẻo của luật bản quyền Thổ, ông vô tư trích dẫn ông thầy của mình – đôi khi quá vô tư, nhưng vẫn trong niềm tin tốt đẹp vào người thầy của ông; có thể sau bao năm tháng lưu giữ những mẩu báo, những bài viết đó, ông nghĩ chúng là của ông.

Bốn chục năm ngăn cách năm sinh Rasim (1865) và năm sinh Koçu (1905) chứng kiến những tờ nhật báo đầu tiên được in ra tại Istanbul, cuộc trị vì lâu dài vọng Tây phương của Abdülhamit, và chính sách đàn áp của nó, việc mò ra các đại học, những cuộc phản đối, và các ấn phẩm của tổ chức Tuổi trẻ Thổ, sự hâm mộ Tây phương trong nhiều bộ phận của giới văn học, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Thổ, những làn sóng di dân lớn, và nhiều đám cháy to hơn; nhưng hơn cả những biến động lịch sử lớn lao trên, điều chia cách giữa hai nhà văn khác thường chính là cách nhìn của họ về thơ ca Tây phương. Khi còn trẻ, được gợi hứng bởi thi ca và tiểu thuyết mang hơi hướm Tây phương, và chấp nhận sự thất bại ngay từ thuở ban đầu, Kasim coi ảnh hưởng Tây phương một cách thái quá như là làm màu làm mè, một sự “bắt chước mù quáng”; ông nói, cái đó giống như là bán ốc sên trong một khu Hồi giáo. Hơn thế nữa, ông nhận thấy các tư tưởng Tây phương về tính uyên nguyên, sự bất tử văn học, và sự thờ phụng thần tượng nghệ sĩ là hoàn toàn “ngoại lai,” và thay vì vậy, ông chấp nhận một thứ triết học khiêm tốn, bình dị hơn, xứng đáng với một thầy tu Hồi giáo: Ông viết cho nhật báo đế kiêm sống và bởi vì ông thích thú chuyện đó. Lấy hứng khởi từ một cái nguồi chẳng bao giờ cạn là cuộc sống sống động của Istanbul, ông thấy chẳng cần chịu đau chịu khổ vì “nghệ thuật” của mình hay tạo ra thứ “nghệ thuật” có khả năng trường tồn. Ông giản dị viết những cột báo của ông, như chúng giản dị tới với ông.

Koçu, ngược hẳn lại, không làm sao thoát ra khỏi các hình thức Tây phương: Bị ám ảnh bởi những hệ thống phân loại Tây phương, ông nhìn khoa học và văn chương với cùng cặp mắt Tây phương. Vì vậy thật khó cho ông để mà hòa giải những chủ đề ruột của ông – những điều kỳ dị, những ám ảnh, và tính chất quái lạ của cuộc đời tại những vùng ngoại vi – với các ý tưởng Tây phương. Sông ở Istanbul, ông chỉ biết chút ít về mảng văn học bại hoại phóng dục lãng mạn khi áy đang bùng nổ ở những vùng ngoại vi của Tây phương. Nhưng ngay cả khi nếu có rành về nó, thì ông vẫn được nuôi dưỡng từ một truyền thống Ottoman, cái mong muốn giới nhà văn của nó hoạt động, không phải ở ngoại vi, không phải ở dưới hầm âm u bại hoại, mà ở giữa thanh thiên bạch nhật, nhằm tiến hành một cuộc đối thoại có tính cách chỉ dẫn, những trung tâm của xã hội về văn hóa và quyền lực. Giấc mơ đầu tiên của Koçu là trở thành một vị giáo sư đại học; sau khi bị đuổi ra khỏi đại học, giấc mơ kế tiếp của ông là cho xuất bản một cuốn bách khoa lớn. Giấc đại mộng của ông, người ta có thể cảm thấy, là tạo dựng một quyền uy nào đó lên những sự “tưởng tượng lạ lùng” của ông và cho chúng một tính hợp thức khoa học.

Những nhà văn Ottoman khác, cùng chia sẻ với ông sở thích về một thế giới chập choạng, không cần đến một sự che giấu như thế. Trong các şerengiz, một hình thức văn học rất phổ thông vào thế kỷ mười bảy và mười tám, những nhà văn này, y hệt như Koçu, tha hồ ca ngợi nức nở thành phố về tất cả những tính tình sắc thái của nó, đồng thời tha hồ mà ca ngợi vẻ đẹp của những bông hoa nam tính vừa mới hé nụ, những đức hạnh của các chàng thiếu niên xinh đẹp. Sự thực, những cuốn sách thơ ca về thành phố thoải mái pha trộn những câu thơ về mấy cậu con trai xinh đẹp với những câu thơ về các vẻ đẹp của thành phố và những công trình vinh danh tưởng niệm của nó. Đọc theo kiểu tình cờ bất cứ một nhà văn nổi tiếng nào thời Ottoman – thí dụ, tác phẩm của Evliya Ҫelebi, một nhà du lịch thế kỷ mười bảy – là đủ hiểu tại sao quy ước văn học cho phép các nhà thơ ca ngợi những chú bé của thành phố bằng cùng những từ ngữ họ dùng để ca ngợi các thánh đường, khí hậu, thời tiết, những con nước. Nhưng khi cảm thấy mình không làm sao thoát ra ngoài khỏi những vận động từ Tây phương đem tới, nhằm đàn áp, quy về trung tâm, đồng nhất hóa, nhà văn “lỗi thời” của Istanbul chỉ còn lại rất ít cách thức để diễn tả những sở thích và ám ảnh “không thể chấp nhận được về mặt xã hội của ông. Và thế là ông rút về chỗ ẩn náu, là là công việc làm bộ bách khoa.

Tuy nhiên, vẫn còn một điều gì đó khá kỳ lạ, liên quan tới cách hiểu của Koçu về những cuốn bách khoa thư. Đâu đó trong Từ Osman Gazi tới Atatürk, ông cho xuất bản sau khi bỏ dở bộ Bách khoa toàn thư về Istanbul đầu tiên, ông nhắc tới Acaibu–l Mahlukat, một cuốn sách thời Trung cổ viết về những “loài vật tuyệt vời”, nguyên tác tiếng Ả Rập, được dịch qua tiếng Thổ, của tác giả Kazvinli Zekeriya, và gọi nó là “một thứ bách khoa toàn thư.” Cuốn này, theo Koçu, được viết với lòng tự hào quốc gia, là một bằng chứng cho thấy ngay cả trước khi Ottoman bị chìm vào ảnh hưởng Tây phương, họ đã viết và sử dụng những cuốn tương tự bách khoa toàn thư; cái nhận xét đầy cảm động của ông đó cho thấy ông coi một cuốn bách khoa không hơn gì nhiều so với một thứ sưu tập tình cờ các sự kiện, được sắp xếp theo bảng chữ cái. Chắc chắn Koçu chẳng hề có ý nghĩ rằng có khác biệt giữa sự kiện và câu chuyện, rằng cần phải thiết lập một logic theo tôn ti nhằm khẳng định một số cái có tầm quan trọng lớn hơn một số cái khác, và rọi ánh sáng vào bản chất và các tiến trình của nền văn minh – nói một cách khác, một số mục từ cần phải ngắn, một số khác cần phải dài, và một số nữa nên được bỏ đi hoàn toàn. Ông không nghĩ đang phục vụ lịch sử; ông nghĩ lịch sử phục vụ ông. Theo nghĩa này, Koçu giống như vị “sử gia không quyền lực” trong Sử dụng và lạm dụng lịch sử của Nietzsche – tha về nhà mình những chi tiết lịch sử, để biến lịch sử thành phố thành lịch sử của ông.

Không có quyền lực, bởi vì – cũng như các nhà sưu tầm thuần túy khác, ông đánh giá sự vật theo chủ quan của ông, không phải theo thị trường – ông quấn quýt với chúng, những câu chuyện mà ông trải qua nhiều năm tháng để moi ra từ những tờ nhật báo, thư viện, và những hồ sơ tài liệu thời Ottoman. Một nhà sưu tầm hạnh phúc (thường thường thì là một quý ông “Tây phương”) là một người – chẳng cần biết đến những nguồi gốc cuộc tìm kiếm của anh ta – có thể đem trật tự đến cho những sự vật, đồ vật mà người đó thu thập được, sắp xếp, phân loại chúng theo một đường hướng, một cách thức nhờ đó sự liên hệ, mối tương quan giữa những món đồ khác nhau trở thành sáng sủa, và cái logic trong hệ thống của anh ta trở nên trong suốt. Nhưng tại Istanbul thời Koçu, chưa có thư viện bảo tàng chỉ do một nhà sưu tầm gây dựng nên (bây giờ thì có một vài cái). Bách khoa toàn thư về Istanbul của Koçu không giống như một viện bảo tàng, mà là như các phòng của “những điều tò mò,” một thứ rất phổ biến trong giới của các ông hoàng hay nghệ sĩ Âu châu từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ mười tám. Giở những trang sách của Bách khoa toàn thư về lstanbul thì cũng giống như nhìn vào cửa sổ của một trong những căn phòng ấy và nhìn thấy những con sò biển, xương loài vật, mẫu quặng, và hơi giật mình kinh ngạc, và rồi mỉm cười thích thú.

Những người yêu sách của thời đại tôi tiếp nhận bộ Bách khoa toàn thư về Istanbul cũng với một thái độ như vậy, tò mò, và sau đó, mỉm cười. Bởi vì một nửa thế kỷ chia cách giữa nó và chúng tôi, và bởi vì chúng tôi thích nghĩ chúng tôi “hiện đại”, “Tây phương” hơn, nên môi chúng tôi hơi cong lên một chút, ra vẻ hoài nghi, khi thốt ra từ “bách khoa.” Tuy nhiên, chúng tôi cảm thông và hiểu sự lạc quan ngây thơ của một con người từng nghĩ có thể sử dụng hình thức bách khoa toàn thư mà Âu châu đã phải mất hàng bao thế kỷ mới có được, vậy mà ông làm chủ được nó, theo cái kiểu rất ư là tình cờ, ngẫu nhiên, và chẳng cần biết đến một trật tự sắp xếp nào. Đằng sau cái vẻ chiếu cố hạ mình thân ái ấy còn có một niềm tự hào thầm kín của chúng tôi, khi nhìn cuốn sách của một nhà văn Istanbul bị mắc kẹt ở giữa hiện đại tính và văn hóa Ottoman, một nhà văn từ chối không chịu sắp xếp, hoặc dù thế nào thì cũng không chịu lập ra kỷ luật cho sự kỳ cục mang tinh thần vô chính phủ. Đặc biệt là sự kiện này: Cuốn bách khoa toàn thư, một bộ gồm mười hai cuốn, dày, khổ lớn, vậy mà tất cả đều tuyệt bản!

Thỉnh thoảng, lúc này lúc khác, tôi gặp một người nào đó có lý do để bắt buộc phải đọc tất cả mười hai cuốn của (có ảnh) bộ sách: một sử gia về nghệ thuật, và cũng là một người bạn của tôi, ông nghiên cứu, tìm tòi về các tekke đã bị phá hủy của Istanbul, một người bạn khác đang cố gắng tìm hiểu thêm về các hamam ít được biết đến của thành phố. Sau khi chào nhau bằng một nụ cười tri âm tri kỷ chúng tôi đều như cùng bị thúc đẩy bởi một ham muốn truy lẫn nhau kinh nghiệm đọc Koçu. Tôi hỏi anh bạn nhà nghiên cứu có nhớ cái cảnh tượng, ở phía trước khu dành cho đàn ông tại một hamam cổ, anh có để ý, có mấy thằng ma cô ngồi vá giày thủng lỗ, quần áo rách cho những người khách đang tắm rửa ở bên trong. Và anh bạn hỏi lại: Trong cùng cuốn đó ở mục từ có tên “những trái mận mồ Eyyubsultan,” làm sao giải thích được lại có loại mận Istanbul được coi như nấm mồ? Và Bahriyeli Ferhad là ai? (Câu trả lời: một thủy thủ can đảm, vào một ngày mùa hạ năm 1958, đã không ngần ngại nhảy xuống biển để cứu một cậu bé mười bảy tuổi bị té từ trên một cái phà trên đường ra vùng đảo Princes). Bây giờ chúng tôi quay qua nói về Arnavud Cafer, tên găngxtơ ở Beyoğlu vào năm 1961 đã giết tên hộ vệ tuyệt đối trung thành của tay đối thủ của anh ta (như được mô tả trong mục “Vụ sát nhân Dolapdere”), hay là về tiệm cà phê của những tay chơi bài domino,” một nơi mà những người mê chơi môn này, phần lớn thuộc cộng đồng thiểu số Hy Lạp, Do Thái và Armenia của thanh phố Istanbul, thường tụ tập. DDIeuf này lái câu chuyến tới gia đình tôi, ở Nişantişi, vì chúng ôi cũng mê chơi domino. Và tôi nhớ tới những tiệm cổ bán đồ chơi, thuốc lá, văn phòng phẩm ở Nişantişi cà Beyoglu cũng có thời gian bán những bộ bài domino, và thế là chúng tôi để tự mình trôi vào hoài nhớ, vào kỷ niệm. Hay là tôi sẽ nói về mục từ “Người đàn ông mặc quần đùi,” nói về một gã đã cắt bao quy đầu một cách hết sức mỹ thuật rồi đi từ thành phố này tới thành phố khác để trưng bày của quý, cùng với năm cô con gái của mình, những cô gái này, cũng như cha, được rất nhiều thương gia đến Istanbul tù Anatolia yêu chuộng, hay mục từ “Imperial Hotel,” cái chốn được các du khách khách Tây phương vào giữa thế kỷ mười chín rất thích – thì mục từ “những cửa tiệm,” trong đó tác giả viết rất dài để giải thích tại làm sao và như thế nào mà các tiệm 6 Istanbul lại thay đổi tên của chúng.

Một khi các bạn tôi và tôi đều đã thấm thìa nỗi hoài nhớ, thì chúng tôi bỗng hiểu ra là có một cái gì còn hơn thế nữa ở trong bộ bách khoa toàn thư của Koçu. Đề tài thực thụ của chúng tôi là sự thất bại của Koçu trong nỗ lực giải thích thành phố Istanbul bằng cách sử dụng các phương pháp sắp xếp, phân loại có tính “khoa học” của Tây phương, ông thất bại một phần bởi vì Istanbul là một thành phố phức tạp, hổ lốn, vô tổ chức, không làm sao quản lý, và quá xa lạ so với những thành phố Tây phương; sự vô tô chức của nó cưỡng lại mọi phân loại, sắp xếp. Nhưng chính cái tính khác lạ này, sau khi chúng tôi nói chuyện một hồi, lại bắt đầu có dáng vẻ của một đức hạnh, và chúng tôi nhớ ra tại sao mình lại trân trọng bộ bách khoa toàn thư của Koçu, coi đó như la mọt kho tàng: bởi vì nó cho phép chúng tôi khoan thứ cho mọi thứ chủ nghĩa sô vanh nào đó.

Không rơi vào thói quen kỳ cục là ca ngợi tính chất lạ của Istanbul, chúng tôi vẫn phải thừa nhận với nhau rằng chúng tôi yêu Koçu vì ông “thất bại.” Lý do vì sao Bách khoa toàn thư về Istanbul không thể nào thành công – và đây cũng là sự suy vi của cả bốn ông nhà văn buồn bã – đó là vì sự bất lực tối hậu của những tác giả này, để trở thành Tây phương. Để nhìn thành phố với cặp mắt mới mẻ, những nhà văn này phải tự làm sạch chính họ, tẩy hết tất cả những cái gọi là căn cước truyền thông. Để trở thành Tây phương, họ phái lên đường, làm một chuyến viễn du không thể trò ngược tới một chốn u minh giữa Đông và Tây. Như ba nhà văn buồn bã kia của chúng ta, những trang đẹp nhất, sâu thẳm nhất của Koçu là những trang nằm ở giữa hai thế giới, và (lại nữa, như những nhà văn kia), cái giá mà ông phải trả cho tính chất độc đáo của ông là sự cô đơn.

Những năm sau khi Koçu mất, vào giữa thập niên 1970, mỗi lần tới Chợ Vòm, tôi thường dừng chân tại Chợ sách Cũ Sahaflar kế bên thánh đường Beyazit Mosque, và tìm những tập chót không có bìa và những cuốn mà Koçu tự bỏ tiền ra in trong những năm cuối đời của ông, trên nhưng giá sách cũ, vàng khè, bìa bạc phếch, ẩm mục, rẻ tiền. Những cuốn này, tôi đọc chúng lần đầu, ở thư viện của bà tôi, bây giờ được bày bán “xon”, với giá giấy lộn, dùng để gói đồ, vậy mà, những người bán hàng cho tôi hay, chẳng ma nào thèm.