← Quay lại trang sách

Chương 19 Chinh phục hay Suy tàn? Constantinople trở thành Thổ Nhĩ Kỳ

Như nhiều người Thổ ở Istanbul, tôi ít quan tâm Byzance khi còn là một đứa trẻ. Cái từ “Byzance” gợi lên ở trong tôi hình ảnh mây ông thầy tu Hy Lạp thuộc chính thống giáo đáng sợ, râu ria, trong những bộ quần áo màu đen, những ống dẫn nước chạy qua thành phố nhà thờ Hagia Sophia, và những bức tường gạch đỏ của các ngôi nhà thờ cổ. Với tôi, đây là những gì còn sót của một thời xa xưa đến mức chẳng cần phải biết đến nữa. Ngay cả những người Ottoman từng chinh phục Byzance cũng đã thật xa xôi. Những người như tôi, nói cho cùng, thuộc thế hệ thứ nhất của một “nền văn minh mới” đã thay thế họ. Nhưng những người Ottoman, từng được Reşat Ekrem Koçu miêu tả những điều thật kỳ cục, ít nhất cũng có những cái tên giống với chúng tôi. Còn người Byzance thì biến mất vào quãng không, ngay sau khi bị đánh bại, như tôi được người lớn làm cho tin như vậy. Chẳng ai nói cho tôi biết nhưng người đang làm chủ một số cửa tiệm, như tiệm giày, chạp phô, bánh ngọt… là những cháu chắt chút chít của những người ngày xưa đã là chủ nhân thành phố này.

Một trong những niềm vui lớn của tôi khi còn nhỏ là (có ảnh) được mẹ dẫn đi mua sắm tại Beyoğlu, khu cửa hàng của những người Hy Lạp. Họ làm ăn buôn bán theo kiểu gia đình. Khi chúng tôi vô một tiệm bán vải vóc và mẹ tôi hỏi chủ tiệm cho coi mặt hàng damash dùng làm màn cửa hoặc nhung để bọc nệm, thì lao xao trong tiệm la những tiếng trao đổi bằng thứ tiếng Hy Lạp gấp gáp giữa nào chồng nào mẹ nào cha, của cả một đại gia đình. Sau đó, khi trở về nhà, tôi thích thú bắt chước thứ tiếng nói lạ lùng và lập lại những cử động lăng xăng của mấy cô con gái chủ tiệm ở quầy tính tiền khi họ nói chuyện với cha mẹ của họ. Phản ứng của mọi người ở trong nhà khi thấy tôi làm vậy khiến tôi hiểu rằng, những người Hy Lạp, cũng như những người ngheo khó ở thành phố hay những người sinh sống tại khu vực tồi tàn, thì không “đáng kính trọng” cho lắm. Tôi nghĩ điều này hẳn có liên quan tới việc Mehmet Nhà Chinh phục đã cướp lấy thành phố từ khỏi tay họ. Kỷ niệm lần thứ 500 Chinh phục Istanbul – “phép lạ lớn” như đôi khi sự kiện nay đưoc gọi như vậy – diễn ra vào năm 1953, một năm sau khi tôi sinh ra nhưng đó không phái là một phép lạ mà tô thấy đặc (có hình) biệt thú vị, ngoài bộ tem được phát hành nhân dịp này. Một trong những con tem in hình những con tàu từ đêm tối xuất hiện, một con tem khác là chân dung Mehmet Nhà Chinh phục của họa sĩ Bellini, và con tem thứ ba vẽ hình pháo đài Rumelihisari, bởi vậy, có thể nói, bộ tem, như một toàn thế là một lễ rước bày ra tất cả những hình ảnh thiêng liêng gắn liền với cuộc chinh phục.

Thường ra, bạn phải chọn bên, khi có người nhắc tới một số biến cố lịch sử. Với người Tây phương, ngày 29 tháng Năm 1453 là sự Sụp đổ Constantinople, trong khi với người Đông phương, thì đây là cuộc Chinh phục, Chinh phục Istanbul. Những năm sau này, khi vợ tôi học Đại học Columbia, bà dùng từ chinh phục trong một bài thi, và người thầy Mỹ đã buộc tội vợ tôi là theo chủ nghĩa quốc gia. Sự thực, bà sử dụng từ này như đã được dạy tư khi còn là một nữ sinh trung học Thổ Nhĩ Kỳ; bởi vì bà mẹ vợ của tôi gốc nga, thành thử vợ tôi có chút cảm tình với Kit ô Chính thống giáo. Hay là, cũng có thể bà chẳng coi đó chinh phục, mà chủ yếu cảm thấy mình chẳng may bị cầm giữ làm con tin giữa hai thế giới chẳng đem lại chọn lựa nào ngoài Hồi giáo hoặc Kitô giáo.

Chính khuynh hướng Tây phương hóa và chủ nghĩa quốc gia Thổ đã khiến cho người Istanbul bắt đầu ăn mừng sự chinh phục. Vào đầu thế kỷ hai mươi, chỉ có một nửa cư dân Istanbul là người Hồi giáo, và hầu hết những người dân không phải Hồi giáo là con cháu của những người Hy Lạp Byzance. Khi tôi còn là một đứa trẻ, cách nhìn nhận của những người theo quốc gia chủ nghĩa mạnh mồm của thành phố là bất kỳ ai sử dụng từ Constantinople đều là một đồng minh không được mong muốn của những giấc mơ phục quốc về cái ngày khi người Hy Lạp, những chủ nhân đầu tiên của Istanbul, quay lại tống cổ người Thổ Nhĩ Kỳ chúng tôi ra khỏi thành phố nơi chúng tôi đã sống được năm thế kỷ nay – hoặc ít nhất là biến chúng tôi thành các công dân bậc hai. Chính những người quốc gia chủ nghĩa thời ấy đã khăng khăng đòi dùng từ chinh phục. Ngược lại, nhiều người Ottoman thì hài lòng với việc gọi thành phố của mình là Constantinople.

Ngay cả ở thời của tôi, những người Thổ mê Tây phương cũng chẳng khoái dùng từ chinh phục cho lắm. Vào năm 1953, để khỏi làm mất lòng những bạn bè Tây phương của Thổ Nhĩ Kỳ và những người Hy Lạp, Tổng thống Celal Bayar và Thủ tướng Adnan Menderes vào giờ phút chót đã từ chối tham dự buổi lễ kỷ niệm 500 năm Cuộc chinh phục, mặc dù sau bao năm tháng sửa soạn. Cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, và Thổ Nhĩ Kỳ, thành viên của NATO, không muốn muốn làm thế giới nhớ đến cuộc chinh phục. Tuy nhiên ba năm sau, nhà nước Thổ đã gây nên điều được gọi là “ba chinh phục,” bằng cách ra lệnh ngầm cho đám con đồ hoành hành khắp thành phố, đánh đập, cướp bóc tài sản củ những người Hy Lạp và của một số cộng đồng thiểu số khác. Một số nhà thờ bị phá hủy trong những cuộc nổi loạn, và một số tu sĩ bị giết, vì vậy, có rất nhiều tiếng vang về những điều tàn ác mà các sử gia Tây phương miêu tả, gộp chung vào trong cái gọi là sự “sụp đổ” của thành phố Constantinople. Sự thực, cả hai nhà nước Thổ và Hy Lạp đều có lỗi, vì đã đối xử với các cộng đồng thiểu số của họ như là những con tin cho một thứ địa chính trị, và chính vì thế mà nhiều người Hy Lạp đã rời bỏ Istanbul trong vòng năm chục năm vừa qua hơn là năm mươi năm tiếp theo 1453.

Năm 1955, người Anh rời Cyprus, và khi Hy Lạp sửa soạn làm chủ trọn hòn đảo, một điệp viên Thổ thuộc cơ quan mật vụ đã ném một trái bom vào căn nhà nơi Atatürk sinh ra trong thành phố Hy Lạp có tên là Salonika. Sau khi báo chí Istanbul loan tin trên, trong một ấn bản đặc biệt, cường điệu hóa sự kiện, đám côn đổ thù ghét những cư dân không phải Hồi giáo của thành phố tụ tập ở quảng trường Taksim, va sau khi đốt phá cửa tiệm của những người không phải Hồi giáo, hủy diệt toàn bộ hàng quán, cửa tiệm tại khu Beyoğluh nơi mẹ tôi và tôi đã từng ghé nhiểu lần, suôt đêm chúng tàn phá các khu vực khác trong thành phố.

Những băng đảng côn đồ xuống đường đó thật hung dữ, chúng gây cơn kinh hoàng lớn lao nhất tại những khu dân cư như Ortaköy, Bahkh, Samatya, và Fener, nơi có cư Hy Lạp tập trung nhiều nhất; chúng không chỉ đốt phá những cửa tiệm tạp hóa, tiệm sữa nhỏ, mà còn xông vào nhà, hãm hiếp đàn bà Hy Lạp và Armenia. Bởi vậy, không phải là không có lý khi nói những tên côn đồ cũng dã man tàn bạo như là những tên lính từng tàn phá thành phố sau khi nó rơi vào tay Mehmet Nhà Chinh phục. Sau này, như người ta được biết, những kẻ tổ chức cuộc nổi loạn – cơn kinh hoàng kéo dài hai ngày, biến thành phố thành một địa ngục, hơn tất cả những cơn ác mộng Đông phương, khủng khiếp nhất, tồi tệ nhất mà người ta có thế tưởng tượng ra – đã được sự hỗ trợ của nhà nước, và nhà nước đã làm lễ chúc phúc cho chúng, trước khi chúng ra quân, trong cuộc cướp phá khủng khiếp này.

Và như thế trong trọn cái đêm ghê rợn đó, bất cứ một người không phải Hồi giáo nào dám bước ra đường phố là có nguy cơ bị hành hình tập thể; sáng hôm sau các cửa tiệm ở khu Beyoğlu bày ra cảnh điêu tàn, cửa sổ bị đập, cửa bị phá tung, những hàng hóa, của cải, đồ đạc bên trong bị cướp, hoặc bị tàn phá một cách thật là thích thú, hào hứng. Khắp chốn bày ra cảnh lăn lóc, ê hề, nào quần áo, vải vóc, thảm, súc vải; lật nghiêng, ngửa là tủ lạnh, máy thu thanh, máy giặt quần áo; đường phố chất thành từng đống, hàng gốm, sành sứ, bị đập bể, đồ chơi (những tiệm bán đồ chơi trẻ em số một đều ở khu Beyoğlu), đồ dùng bếp núc, miếng vụn hồ các, chụp đèn, những món hàng rất ăn khách vào thời kỳ (có ảnh) ấy. Đây đó – giữa những chiếc xe đạp, những chiếc xe hơi bị lật ngược hay bị đốt, những chiếc dương cầm hư hại, hết còn sử dụng được, những chàng nàng ma nơ canh gãy gọng, cụt tay cụt chân, đưa mắt nhìn trời, bên dưới chúng là mặt phố xá phủ kín vải vóc quần áo – là những chiến xa, đến quá trễ, để dẹp loạn.

Bởi vì gia đình tôi kể dài dài những câu chuyện hỗn loạn này, trong nhiều năm tháng tiếp theo sau, với những chi thật là sống động, nên tôi có cảm giác tận mắt chứng kiến khi chúng xảy ra. Khi các gia đình Kitô giáo dọn dẹp đường phố và nhà cửa của họ, thì tại nhà tôi, ông chú, bà tôi chạy từ cửa sổ này qua cửa sổ khác, khiếp đảm nhìn đám nổi loạn chiếm đóng đường phố; tàn phá cửa tiệm, nhà cửa, và chửi rủa người Hy Lạp, Kit ô giáo, người giàu có. Thỉnh thoảng, một đám trong số đó tụ tập ngay bên ngoài nhà chúng tôi, và bởi vì những cảnh tượng như thế đã thường xuyên xảy ra, cho nên anh tôi mua sẵn một lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ, được bán tại tiệm Alaaddin, và trương lên, hồi ấy chủ nghĩa quốc gia đang lan tràn nên cờ được bày bán rất nhiều. Chúng không đụng tới chiếc xe Dodge đậu bên ngoài, và cũng tha không phá bể một cửa sổ nào.