Chương 20 Tôn giáo
Cho tới khi mười tuổi, tôi có một hình ảnh thật là rõ rệt về Thượng Đế; đó là một người đàn bà đáng kính những đường nét không rõ ràng, thật là già, và quấn mình trong một tấm vải trắng. Mặc dù giống như một con người Bà có chung nhiều nét với những con ma đi lại ở trong những giấc mơ của tôi: Bà chẳng thể nào giống như một người nào đó mà tôi bắt gặp trên đường phố. Bởi vì khi xuất hiện trước mắt tôi, thì Bà luôn luôn ở tư thế lộn ngược, và hơi nghiêng về một bên. Những hồn ma trong thế giới tưởng tượng của tôi một khi tôi để ý đến, là chúng e thẹn lùi về phía sau, và cứ thế nhạt nhòa đi; Thượng Đế cũng như vậy, sau khi đưa mắt nhìn thế gian, như trong những bộ phim hay quảng cáo truyền hình, hình ảnh của Bà sẽ thật rõ nét, từ từ bay lên cao, nhạt nhòa đi, và trở về chỗ của Bà ở trên trời, trong những đám mây. Những nếp gấp của chiếc khăn trắng choàng đầu của Bà thật sắc nét, tỉ mỉ, như những nếp gấp mà tôi đã thấy trong các hình vẽ được in trong những cuốn sách lịch sử, và nó bao phủ toàn thân Bà; tôi chẳng thể nhìn thấy tay hay chân của Bà. Bất cứ khi nào bóng của Bà xuất hiện, là tôi cảm thấy có một sự hiện diện quyền uy, siêu thoát, nhưng lạ làm sao, có tí chút sợ sệt. Tôi không còn nhớ, có khi nào tôi cầu khẩn Bà giúp đỡ, hay bảo ban. Tôi chỉ nhận thức thật rõ được là Bà chẳng bao giờ để ý đến một con người như tôi: Bà chỉ lo cho những người nghèo khổ.
Như vậy, những người ở trong tòa nhà của tôi quan tâm đến con ma này là những người làm, những người đầu bếp. Tuy mơ hồ hiểu ra rằng Bà quan tâm đến cả những con người khác nữa, ít ra là theo lý thuyết, tình yêu của Thượng Đế còn mở rộng ra cho mọi người sống dưới mái nhà của chúng tôi, nhưng tôi cũng hiểu những người được may mắn như chúng tôi không cần đến điều ấy. Thượng Đế có đó, là để cho những người đau đớn, để ban niềm an ủi cho những người quá nghèo khổ không thế dạy dỗ con cái, cho những người hành khất lúc nào cũng kêu đến tên Bà, cho những tâm hồn trong trắng, khi họ gặp trắc trở. Chính vì thế mà mỗi lần mẹ tôi nghe tin bão tuyết cắt đứt mọi con đường đưa đến những làng mạc xa xôi, hẻo lánh, hay động đất khiến cho nhiều người mất nhà cửa, bà sẽ kêu lên: “Cầu xin Thượng Đế giúp đỡ cho họ!” Đây không hẳn là một sự khẩn cầu mong được chấp nhận, do mặc cảm tội lỗi nhất thời, của những con người được sung sướng như chúng tôi; một câu thốt lên như thế giúp chúng ta vượt lên khỏi sự trống rông vì cảm thấy bất lực không thế làm gì cho những con người bất hạnh đó.
Như là những sinh vật của luận lý, chúng tôi chắc chắn một cách có lý rằng sự hiện diện nhẹ nhàng, cao niên đang giấu đi sự chói lòa của nó đằng sau hàng lớp vải khoác màu trắng chắc là chẳng khi nào nghiêng mình xuống để lắng nghe chúng tôi. Nói cho cùng, chúng tôi đâu có làm gì cho Bà. Trong khi những người làm bếp, những cô giúp việc trong căn nhà của chúng tôi, và tất cả những người nghèo khổ xung quanh chúng tôi làm việc, cố nắm bắt bất cứ một cơ hội nào để được Bà để mắt tới; thậm chí họ có thể nhịn đói trọn một tháng mỗi năm. Bất cứ khi nào rảnh là bà người làm của chúng tôi, Esma Hanim, lại chạy vội về căn phòng nhỏ bé của bà và trải chiếc nệm ra để cầu nguyện; mỗi lần cảm thấy hạnh phúc, buồn bã, sợ hãi, giận dữ, là bà nhớ đến Thượng Đế; bất cứ khi nào mở, hay đóng cửa, hay làm bất cứ điều gì lần đầu hay lần cuối, là bà nhắc tới Bà, và lẩm bẩm vài điều gì đó.
Ngoại trừ những lúc chúng ta cảm thấy sự hiện diện Bà liên quan đến những người nghèo khổ, những lúc khác Thượng Đế không làm phiền nhiều đến chúng ta. Có thể nói thật là một sự khuây khỏa khi biết rằng những người nghèo khổ còn trông cậy vào được một người nào đó có thể cứu họ, rằng có một quyền lực khác có thể giúp họ chịu đựng gánh nặng của họ. Những sự thoải mái của một ý nghĩ như thế đôi khi bị phá tan bởi nỗi sợ một ngày nào đó, những người nghèo có thể sử dụng liên hệ đặc biệt với Thượng Đế của họ để chống lại chúng ta.
Tôi nhớ lại sự bồn chồn mà tôi cảm thấy đó, đôi ba lần khi – do tò mò nhiều hơn là buồn chán – tôi chăm chú quan sát bà người làm có tuổi của chúng tôi cầu nguyện. Nhìn qua cánh cửa phòng hé mở, bà người làm Esma Hanim của chúng tôi trông khá giống Thượng Đế trong tưởng tượng của tôi. Hơi nghiêng người qua một bên trên tấm thảm nguyện của bà, bà cúi xuống chầm chậm cho tới khi trán chạm tấm nệm; bà ngẩng đầu lên chỉ để rồi lại cúi nó xuống, và bây giờ bà nằm phủ phục mình, trông như thể bà đang cầu xin chấp nhận vị trí thật là thấp của bà trong thế gian; không hiểu tại sao, tôi cảm thấy bồn chồn và mơ hồ giận dữ. Bà chỉ cầu nguyện khi không có việc gì cần phải làm gấp và không có ai ở nhà, và sự yên lặng, chốc chốc bị phá vỡ bởi những tiếng cầu nguyện, làm tôi cảm thấy bực bội. Mắt tôi bắt gặp một con ruồi đang bò trên cửa kính. Con ruồi té bổ ngửa tiếng đập cánh của nó, khi cố trỗi dậy, trộn lẫn với tiếng cầu kinh và tiếng thì thầm, và bất thình lình, tôi cảm thấy hết còn chịu đựng nổi, thế là tôi bèn giật tấm khăng choàng cổ của bà.
Tôi đã từng có kinh nghiệm về cái vụ phá đám, cắt ngang buổi câu nguyện khiến bà bực bội. Trong khi bà già sử dụng tất cả những quyền năng của bà để lơ đi sự xâm nhập của tôi, và kết thúc buổi cầu nguyện, có vẻ như là những gì bà làm thật giả trá, chẳng khác chi một trò chơi (vì (có ảnh) giờ bà chỉ làm ra vẻ đang cầu nguyện). Nhưng tôi vẫn bị ấn tượng bởi sự quyết tâm của bà để cố nhập vào sự cầu nguyện, và coi đây như là một thách thức. Khi Thượng Đế tham dự, giữa tôi và bà già này – bà luôn yêu thương tôi, giữa tôi và bà già này – bà luôn luôn yêu thương tôi, tường để tôi ngồi vào lòng bà và nói với những người đi đường, khi họ dừng lại để trầm trồ về tôi, đây là “cháu trai” của bà – tôi, cũng như bất kỳ ai trong nhà, luôn cảm thấy không được thoải mái về tính ngoan đạo của người khác. Nỗi sợ hãi của tôi, cũng giống như tất cả những người thế tục thuộc tầng lớp trưởng giả Thổ Nhĩ Kỳ, không phải là Thượng Đế; mà sợ cơn điên giận của những người tin quá vào Bà.
Đôi khi, trong lúc Esma Hanim cầu nguyện, chuông điện thại reo, hay là mẹ tôi bất thình lình cần đến bà réo lớn lên. Tôi bèn chạy đến bảo mẹ, bà đang cầu nguyện, đôi khi tôi làm điều này do thiện tâm, đôi khi do một tình cảm không bfnh thường, hay thèm gây chuyện, để coi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Có vẻ như tôi muốn chứng nghiệm coi bà già giúp việc sẽ ứng xử ra sao, hoặc trung thành với chúng tôi, hay trung thành với Thượng Đế, và bên nào mạnh hơn, một phần trong tôi muốn gây sự với cái thế giới mà bà giúp việc chạy trốn vô, để rồi đôi khi từ đó trở lại với những đe dọa đầy cáu kỉnh.
“Nếu cháu kéo khăn của bà trong lúc bà đang cầu nguyện, bàn tay của cháu sẽ biến thành đá!” Và tôi tiếp kéo chiếc chăn, nhưng chẳng có gì xảy ra. Nhưng, như người lớn, những người khăng khăng nói mình không tin vào những điều vô nghĩa lý ấy và vẫn nhìn xuống bước chân của mình – chỉ là để đề phòng thời gian chứng tỏ là họ sai – tôi biết có một giới hạn mà mình sẽ không dám vượt qua để làm bà bực mình. Lần này tôi không bị biến thành đá nhưng giống như tất cả mọi người trong cái gia đình thận trọng của tôi, tôi học được là sẽ luôn khôn ngoan khi đổi đề tài ngay tức khắc, một khi bạn tỏ ra không tin tưởng, hay ít quan tâm đến tôn giáo; chúng tôi đánh đồng niềm tin tôn giáo với sự nghèo khổ, nhưng chẳng bao giờ dám lớn tiếng nói ra điều này.
Với riêng tôi, có vẻ như bởi vì họ nghèo khổ nên tên của Thượng Đế luôn ở trên môi họ. Cũng hoàn toàn có thể tôi đi đến kết luận sai lầm như vậy là do trong gia đình, mọi người tỏ ra không tin tưởng, và đôi khi còn nhạo báng, kẻ nào quá mộ đạo đến nỗi cầu nguyện năm lần trong một ngày.
Nếu Thượng Đế dần dần không còn hiển hiện qua hình ảnh một người đàn bà nhiều tuổi trong chiếc khăn choàng màu trắng, như tôi đã từng cảm thấy, khi còn nhỏ, nếu sự liên hệ giữa Thượng Đế và tôi làm dấy lên một nỗi lo sợ và ngần ngại, thì một phần là do tôi không có được một sự giáo dục nào của gia đình về vấn đề tôn giáo. Có lẽ họ cũng chẳng có gì để mà dạy tôi: Tôi chưa từng nhìn thấy bất cư người nào trong gia đình cúi mình trên chiếc nệm cầu nguyện, hay lẩm bẩm tụng kinh. Theo nghĩa này, bạn có thể cho rằng những gia đình như của tôi gống những gia đình trưởng giả vô thần của Âu châu đã thiếu can đảm để làm sự bứt phá sau cùng, nghĩa là thanh toán tôn giáo một lần cho xong.
Nói như vậy có vẻ báng bổ, vô nguyên tắc, nhưng trong thế chế Tân Cộng hòa của Atatürk, gạt bỏ tôn giáo qua một bên đồng nghĩa với hiện đại và Tây phương; đó là sự thiển cận lâu lâu lóe lên chút lửa của chủ nghĩa lý tưởng. Nhưng đó là trong cuộc sống công cộng. Trong cuộc sống riêng tư, chẳng có gì có thể làm đầy cái lỗ hổng tâm linh. Một khi tôn giáo bị khu trục, bị tẩy sạch, nhà của bạn trở nên trống rỗng như những yah điêu tàn của thành phố, hay những khu vườn ảm đạm với những hàng cây dương âm u bao quanh.
Như vậy là ở trong gia đình chúng tôi, người làm chính là những người làm đầy khoảng trống (và làm thỏa mãn sự tò mò của tôi – nếu Thượng Đế chẳng là cái gì cả thì hà cớ sao người ta xây cất nhiều thánh đường đến như thế?). Thật chẳng khó khăn gì khi nhận ra sự điên khùng của trò mê tín. (“Sờ vô cái này là cháu biến thành hòn đá,” bà người làm của chúng tôi sẽ nói. “Lưỡi của nó bị cột.” “Một thiên thần đã xuống và mang nó lên thiên đàng.” “Đừng bao giờ bước chân trái lên trước.”) Bao nhiêu mảnh vải được buộc vào những ngôi mộ (turbe) của các sheikh21, bao nhiêu ngọn nến được đốt lên cho Sofu Baba ở Cihangir, những phương thuốc trị bịnh của các bà thầy mà những người làm của gia đình chúng tôi loay hoay tự pha chế lấy, bởi vì họ đâu co may mắn biết đến bác sĩ, và cái di sản hàng bao thế kỷ của những mệnh lệnh tôn giáo đã tìm ra con đường của chúng để nhập vô nền tảng gia đình Âu châu, cộng hòa của chúng tôi, qua những hình thức như là cách ngôn, những lời phán bảo những câu răn đe, và những đề xuất: Tất cả những thứ này có thể chỉ là vô nghĩa, nhưng chúng để dấu ấn lên đời sống hằng ngày của chúng tôi, nói gì thì nói. Ngay cả bây giờ khi đi trên một quảng trường rộng lớn, một hành lang, một vỉa hè, tôi bỗng chợt nhớ ra, đừng có bước lên những cái khe giữa những hòn đá đường, hay trên những viên đá đen hình vuông, và nhận thấy không phải mình đang bước đi mà là vừa đi vừa nhảy.
Trong tâm trí tôi, rất nhiều điều cấm đoán tôn giáo như vậy lẫn lộn với những luật lệ của mẹ tôi (thí dụ như: “Đừng có chỉ trỏ”). Hay khi mẹ tôi nói, đừng có mở cửa sổ, hay cửa ra vào, vì như thế dễ bị trúng gió, và tôi tưởng tượng ra, một luồng gió như vậy thì cũng giống như một vị thánh, như Sofu Baba, mà đâu có được quấy rối linhhồn của ngài.
Bởi vậy, thay vì coi đó như là một hệ thống mà Thượng Đế nói với chúng ta qua những lời tiên tri, những cuốn sách, những luật lệ, thì chúng ta lại giảm trừ nó thành một mớ luật lệ lạ lùng, đôi khi tức cười, mà chỉ những giai cấp thâp kém mới phụ thuộc vào; tách tôn giáo ra khỏi quyền lực của nó, chúng tôi chấp nhận nó như là một thứ âm nhạc làm nêdn kỳ quặc ở trong nhà chúng tôi, để cùng với chúng tôi lắc lư giữa Đông và Tây. Bà tôi, cha mẹ tôi, mấy ông chú bà bác của tôi – chẳng có ai nhịn ăn lấy một ngày, vậy mà cứ mỗi lần đến dịp lễ Ramadan là tất cả đều náo nức chờ đợi mặt trời lặn với cùng sự háu đói như là những người giữ nghi thức nhịn ăn. Vào mùa đông, khi đêm tới sớm, trong khi bà tôi hào hứng chơi bài bezique hay poker cùng bạn bè, việc châm dứt lệnh nhịn ăn có thể trở thành cái cớ cho một bữa tiệc, nghĩa là lò nướng hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên vẫn có các nhân nhượng. Vào bất cứ tháng nào trong năm, những bà già thích giao du này sẽ ăn văt suốt cuộc chơi, nhưng vào dịp lễ Ramadan, khi ngày tàn dần, họ cố dằn bụng cho cái đói chín mùi, vừa chơi bài vừa nhìn về cái bàn kế bên trên chất đủ thứ, nào mứt, phó mát, ô liu, börek22, xúc xích tỏi; khi tiếng sáo trên máy thu thanh cho biết sắp tới giờ chấm dứt nhịn ăn, họ sẽ nhìn những món ăn bày trên bang một cách thèm thuồng như thể họ cũng giống như người Hồi giáo bình thường, chiếm 95% trên toàn xứ sở, đã nhịn đói ngay từ sáng sớm ngày lễ. Họ hỏi nhau “Còn bao lâu?” Khi nghe tiếng tiếng đại bác nổ, họ đợi Bekir, người đầu bếp, ngấu nghiến ngay tại chỗ, để đến lượt mình tấn công những món đồ ăn nóng hổi. Ngay cả đến bây giờ, mỗi lần nghe tiếng sáo, tôi vẫn còn chảy nước miếng.
Chuyến đi thăm thánh đường đầu tiên của tôi xác nhận những thiên kiến của tôi về tôn giáo nói chung và Hồi giáo nói riêng. Đó cũng hầu như chỉ là vì tình cờ: Vào buổi chiều, khi không có ai ở nhà, Esma Hanim dẫn tôi đi thăm một thánh đường mà không xin phép ai cả; không hẳn là bà bị nung nấu bởi ước muốn được cầu nguyện tại thánh đường, mà đã quá mệt, quá chán cái cảnh bị tù túng ở trong nhà. Tại thánh đường Teşvikiye, chúng tôi thấy một đám đông chừng hai chục hoặc ba chục người – hầu hết là chủ tiệm ở những con phố nhỏ, hay những người giúp việc trong gia đình, nấu bếp, quản gia, gác dan cho các gia đình giàu có ở Nişantaçi; khi tụ tập nơi những tấm thảm, trông họ có vẻ như là những bạn bè đang trò chuyện hơn là một giáo đoàn. Trong khi chờ đến thời gian cầu nguyện, họ thì thầm chuyện vãn với nhau. Và trong khi tôi thơ thẩn giữa đám họ, hay đi tới một góc phòng để chơi các trò chơi của mình, chẳng một ai trong họ mắng mỏ gì tôi; thay vì vậy, tất cả đều cười với tôi, một nụ cười thân thiện mà hầu như tất cà những người lớn đều dành cho tôi, khi tôi còn là một đứa trẻ. Tôn giáo có thể là một thứ miệt vườn của những người nghèo khổ, nhưng bây giờ, tôi nhận ra – khác hẳn những bức hí họa trên các tờ nhật báo hay ở trong nhà của một gia đình cộng hòa như gia đình chúng tôi – những con người có tín ngưỡng thì vô hại.
Tuy nhiên, tôi hiểu ra một điều, thông qua sự chế nhạo thường xuyên nhằm vào họ ở Nhà Pamuk, rằng sự thuần khiết đầy tốt đẹp của họ cũng có một cái giá. Đó là làm cho giấc mơ về một nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, giàu có, thịnh vượng, Tây phương hóa, trở nên khó thực hiện hơn. Với tư cách những người hữu sản đã được Tây phương hóa đầy tính thực chứng, chúng tôi có quyền cái quản những con người gần như vô học, và chúng tôi quan tâm tới chuyện ngăn cản họ đừng quá mê tín – không phải bởi vì làm như vậy thì tốt tho chúng tôi, hợp với chúng tôi, riêng tư mà nói, mà tương lai của đất nước tùy thuộc vào điều này. Làm sao tôi giải thích cho bà tôi hiểu, khi bà phát hiện ra người thợ điện, thay vì sửa điện, thì bỏ đi cầu nguyện, những lời nói nặng nề của bà bằng việc cả một đất nước trì trệ, chậm phát triển là vì những chuyện cỏn con như thế? Chính những “truyền thống của những cách hành xử” như vậy đã ngăn cản sự “tiến bộ của quốc gia chúng ta.”
Những đệ tử trung thành của Atatürk, những người thống trị báo chí, những bức hí họa của họ vẽ các phụ nữ choàng khăn đen, những tên phản động râu quai nón, tay lần tràng hat, những buổi lễ tưởng niệm vinh danh các vị tử đạo vì nền Cách mạng Cộng hòa – tất cả những sự kiện đó nhắc nhở tôi một điều, đất nước thuộc về chúng tôi chứ không phải các tín hữu nghèo khổ, những người có lòng mộ đạo kéo chúng tôi cùng chìm xuống với họ. Tuy cảm thấy là một với những say mê toán học, khoa học kỹ thuật của những người trong chính gia đình mình, tôi vẫn tự nhủ sự làm chủ của chúng tôi như thể không phải là do của cải, mà là do cái nhìn ngoại vật mang tính hiện đại và Tây phương. Và cũng vậy, tôi hạ cố nhìn xuống những gia đình tuy cũng giàu có như chúng tôi nhưng không có tầm nhìn Tây phương. Các phân biệt như thế có vẻ như không còn chắc nịch như trước nữa, những năm sau này, khi nền dân chủ Thổ Nhĩ Kỳ trên đà tiến triển, và những kẻ giàu có khác ở tỉnh đổ dồn về Istanbul và tự giới thiệu mình với “xã hội”– khi ấy thì những thất bại trong công chuyện làm ăn của cha tôi và của chú tôi đã dóng những hồi chuông báo động, sự nghèo khổ đã ở ngay ngưỡng cửa gia đình, khiến chúng tôi cảm thấy ê chề vì bị coi khinh bởi những con người chẳng hề có chút sở thích nào cho tinh thần thế tục và chẳng hiểu gì về văn hóa Tây phương. Nếu sự khai sáng đã đưa chúng tôi đến giàu sang, cho chúng tôi các đặc quyền đặc lợi, thì làm sao giải thích được những con người mới phất đầy lòng mộ đạo kia? (Vào thời kỳ đó, tôi chưa hề biết gì về những lịch lãm, tinh tế của chủ nghĩa Suh hay Mevlana hay gia tài lớn lao của Ba Tư). Tất cả những gì tôi biết là giai cấp mới, bị đám tả phái gọi là các “phú nông,” có những quan điểm chẳng khác gì những người tài xế hay là nấu ăn của chúng tôi. Nêu giới trưởng giả Tây phương hóa của Istanbul hỗ trợ những can thiệp quân sự trong bốn chục năm qua, cũng như chẳng bao gìờ phản đối sự can thiệp của giới nhà binh vào chính trường, thì đó không phải bởi vì họ sợ một cuộc nổi dậy của phe tả (những kẻ theo tả phái tại Thổ Nhĩ Kỳ không đủ mạnh để thực hiện một cú như thế); mà đúng hơn, thái độ dung thứ của đám tinh anh đối với bên quân sự là do sự sợ hãi có từ đời thuở nào, theo đó một ngày các giai cấp thấp kém sẽ liên minh với những kẻ mới trở nên giàu có, từ tỉnh lỵ địa phương ùa vào thành phố, và xóa bỏ cách sống trưởng giả Tây phương dưới ngọn cờ tôn giáo. Nhưng nếu tôi nấn ná quá lâu, bàn bạc quá nhiều về những cú đảo chánh quân sự và Hồi giáo chính trị (vốn chẳng liên quan gì nhiều đến Hồi giáo như người ta vẫn hay nghĩ), thì tôi sợ mình sẽ phá hủy mất sự hài hòa bí mật cua cuốn sách này.
Tôi nhận ra yếu tính của tôn giáo là sự phạm tội. Khi còn là một đứa trẻ, tôi cảm thấy mình phạm tội – về chuyện đã không có đủ nỗi sợ đối với người đàn bà đáng kính choàng khăn trắng, thỉnh thoảng đi vào trong những giấc mơ ngày của tôi, và đã không có đủ niềm tin với Bà. Tôi cũng còn cảm thấy mình phạm tội khi tự tách ra khỏi những người đã tin tưởng ở Bà. Nhưng với bản năng của một đứa con nít, bằng tất cả sức mạnh của mình, tôi ôm lấy tình cảm phạm tội đó, như là một sự bất ổn, nhưng chắc chắn một điều, rằng chính sự bất an sẽ làm cho tâm hồn của tôi sâu thẳm hơn trí tuệ của tôi được trau dồi mãi ra, đời sống của tôi thâm màu thêm sắc, giống như cái thế giới tưởng tượng mà tôi ôm lấy nó, thường xuyên trườn mình vào. Cũng như đối với thằng bé Orhan khác kia, hạnh phúc hơn kia, trong một căn nhà khác của chúng tôi ở thành phố Istanbul – trong những giấc mơ ngày của tôi, tôn giáo chẳng gây ra bất cứ một sự bài an nào cho nó. Bất cứ khi nào, khi cảm thấy mệt mỏi vì sự phạm tội tôn giáo, tôi lại muốn chuồn đi tìm thằng Orhan khác đó, biết rõ nó chẳng bao giờ mất thời giờ với những ý nghĩ như thế và chẳng mấy chốc sẽ nhắm một rạp chiếu bóng mà tiến tới.
Tuy nhiên, tuổi thơ của tôi vẫn có những lúc phủ phục xuống trước những lời phán bảo của tôn giáo. Vào năm cuối của bậc tiểu học, bà giáo của tôi mà như bây giờ tôi còn nhớ được, thì thật khó thương và rất hách, vậy mà khi ấy tôi rất hạnh phúc khi nhìn thấy bà; nếu bà mỉm cười với tôi, là tôi thấy sướng mê tơi và chỉ cần bà nhíu mày là đủ khiến tôi lo sợ đến sốt vó. Khi diễn tả với chúng tôi về những “vẻ đẹp của tôn giáo,” người đàn bà già tóc bạc trắng, thay vì nói về những câu hỏi dễ mất lòng nhau, như niềm tin, sự sợ hãi, và sự tủi nhục, thì nhìn tôn giáo như mà một chủ nghĩa thực dụng, hợp lý. Theo bà, nhà tiên tri Muhammad đã nghĩ rằng nhịn đói không chỉ quan trọng trong việc làm mạnh niềm tin, mà còn làm tăng sức khỏe con người. Nhiều thế kỷ sau đó, những người đàn bà Tây phương thù nghịch đối với những vẻ đẹp khác của tôn giáo, nhưng lại nhìn ra những thú vui khỏe mạch của sự nhin ăn. Cầu nguyện làm tăng nhịp tim; như những trò thể dục dụng cụ, chúng làm con người luôn được nhạy bén. Trong thời đại của chúng ta, trong hằng hà sa số những văn phòng, nhà máy, xưởng thợ Nhật Bản tiếng còi báo hiệu ngưng làm việc trong năm phút là để mọi người múa máy chân tay, tập thể dục, trong khi những người Hồi giáo lại dùng năm phút này để cầu nguyện!
Cách giải thích hữu dụng và hữu lý của bà giáo của tôi về Hồi giáo phù hợp với nỗi khát khao bí mật về niềm tin và sự quên mình mà một tên thực chứng nho nhỏ ở trong tôi nuôi dưỡng, và thế là, vào một ngày lễ Rammadan, tôi cũng quyết định nhịn ăn. Mặc dù làm theo bà giáo nhưng tôi không nói cho bà hay. Khi tôi nói với mẹ tôi, tôi thấy bà ngạc nhiên nhưng vui vẻ, dầu có chút lo lắng. Mẹ tôi thuộc típ người tin ở Thượng Đế “chi khi nào cần”; ngay cả như vậy, chuyện nhịn ăn đối với bà là chỉ để dành cho những người chậm tiến, lạc hậu. Tôi không nói với cha tôi hay anh tôi chuyện nhịn ăn này. Ngay cả trước khi thực hiện cuộc nhịn ăn đầu tiên, lòng khao khát niềm tin đã biến hóa thành một sự xấu hổ, và tốt nhất là nên giữ kín. Tôi đã quá rành những thái độ dè bỉu, khinh khí và nghi ngờ có tính phân biệt giai cấp, và tôi biết trước họ sẽ nói gì. Và thế là tôi thực hành nhịn ăn mà chẳng có ai biết cả, và cũng chẳng có ai vỗ vỗ vào lưng nói, “Được, được.” Có lẽ, mẹ tôi nên nói với tôi rằng một đứa trẻ mười một tuổi thì chưa hề bị buộc phải nhịn ăn. Thay vì vậy, bà sửa soạn mọi thứ cần thiết cho ngày lễ trọng đại ấy, để sẵn đó chờ đợi tôi, một khi hoàn tất công cuộc nhịn ăn: bánh ngọt xoắn, bánh mì nướng kẹp cá chổng. Một phần ở trong bà mừng rỡ về sự sợ hãi Thượng Đế ở nơi một đứa bé, nhưng tôi còn nhận ra nét lo lắng của một bà mẹ, sợ cho đứa con trai của mình, biết đâu đây là bằng chứng của bản năng tự hủy khiến tôi chọn con đường khổ hạnh, chịu đựng những nỗi đau về tinh thần.
Thái độ ba phải của gia đình tôi về tôn giáo trở nên rõ rệt trong dịp Lễ Hy sinh, Kurban Bayram. Như mọi gia đình giàu có Hồi giáo, chúng tôi mua một con cừu và buộc nó ở trong cái vườn nhỏ ở sau Nhà Pamuk, đợi cho tới ngày thứ nhất của buổi lễ, khi mà tay đồ tể của lối xóm tới để giết con vật. Ngược hẳn với những cậu bé có trái tim bằng vàng trong những cuốn hoạt họa luôn cầu mong sao cho con cừu khói bị xả thịt, tôi, do chẳng yêu thích gì mấy con cừu, chẳng thấy xúc động chi hết mỗi lần thấy con vật luẩn quẩn nơi xó vườn. Không những thế, tôi còn cảm thấy dễ chịu chắc còn ít ngày nữa là hết còn bực mình vì con vật xấu xa ngu đần, hôi thối; tuy nhiên, tôi cũng vẫn còn nhớ là thấy lương tâm của mình bứt rứt, về cách đối xử của chúng tôi: Sau khi phân chia thịt cừu cho những người nghèo, chúng tôi sẽ ngồi xuống tận hưởng ngày lễ lớn của gia đình, uống bia, trong khi tôn giáo của chúng cấm, và thưởng thức thịt mua từ tiệm của người đồ tể bởi vì mùi thịt tươi hiến tế của chúng tôi quá nồng. Lễ Hy sinh chứng tỏ mối tương thông giữa chúng tôi và Thượng Đế, qua việc hy sinh mạng sống của một con vật thay cho một đứa trẻ, sau khi làm lễ, chúng tôi sẽ được xá tội; thế nhưng những người như chúng tôi, đã ăn thứ thịt ngon lành mua ở hàng thịt thay cho con vật mà chúng tôi đã hiến tế, tất tật đều cám thấy có tội hơn nhiều.
Trong gia đình, những hồ nghi gây phiền nhiễu còn hơn thế nữa thường được chịu đựng trong im lặng. Khoảng trống tâm linh mà tôi nhìn thấy ở rất nhiều gia đình giàu có, Tây phương hóa, và thế tục, ở Istanbul, thật là hiển nhiên trong những lần im lặng đó. Mọi người đều nói một cách cởi mở về những vấn đề như toán học, sự thành công ở trường học, túc cầu, vui đùa thoải mái, nhưng họ vật lộn với những câu hỏi cơ bản nhất của hiện hữu – tình yêu, sự cảm thông, tôn giáo, ý nghĩa của cuộc đời, ghen tuông, thù hận – trong sự rối mù run rẩy và trong cô đơn đau khổ. Họ châm một điêu thuốc, chú tâm nghe âm nhạc từ một chiếc máy thu thanh, và âm thầm trở về với thế giới nội tâm. Sự kiện tôi nhịn ăn để bày tỏ tình yêu thầm kín với Thượng Đế đã được cử hành đúng như trong tinh thần trên. Khi đó là mùa đông mặt trời lặn sớm, tôi không nghĩ mình sẽ phải đau đớn nhiều về chuyện nhịn đói. Ngay cả như vậy, trong khi ăn bữa ăn mẹ tôi sửa soạn (món cá chổng với nước xốt may-on-ne, xa lát trộn trứng cá không giống như những món ăn truyền thống trong dịp lễ Ramadan), tôi cảm thấy bình an, thoải mái. Tôi thấy vui mừng, nhưng không phải chỉ là chuyện biết vinh danh Thượng Đế; mà còn do hài lòng, đã đề ra cho mình một cuộc thử nghiệm, và đã thành công. Sau khi ăn uống no nê, thoải mái, tôi ra khỏi nhà, và nhắm rạp Konak Cinema thẳng tới, đế thưởng thức một bộ phin, Hollywood, gạt phắt tất cả ba thứ linh tinh trên ra khỏi đầu. Tôi chẳng bao giờ lại có hứng thú thứ nhịn ăn thêm một lần nữa.
Ngay cả chuyện tôi không tin có Thượng Đế đúng như từng mong, thì một phần trong tôi vẫn mơ hồ cầu mong Thượng Đế có mặt ở mọi nơi, như người ta thường nói. Bà hẳn phải đủ sức biết tại sao tôi không có khả năng có được niềm tin – và sẽ tha thứ cho tôi. Chừng nào tôi không bô la bô lô về chuyện mình không có niềm tin và cổ võ ba chuyện báng bổ nhắm vào niềm tin, thì Thượng Đế sẽ hiểu và sẽ nương tay đối với tôi, về chuyện phạm tội và đau khổ vì không có niềm tin, hay là ít ra, Bà không quá bực bội vì một đứa trẻ như tôi.
Điều tôi sợ nhất không phải là Thượng Đế, mà là những người tin ở Bà đến thái quá. Sợ cơn giận dữ của họ có thể bộc phát nhắm vào những người như tôi. Sự ngu xuẩn của những kẻ cuồng tín, những phán đoán của họ làm sao có thể so sánh với của Thượng Đế (Xin Bà xá tội cho tôi!), một vị Thượng Đế mà họ tin tưởng với toàn bộ tấm lòng: Đó là điều thứ nhì mà tôi khiếp sợ. Trong nhiều năm trời, đi đâu tôi cũng mang theo cùng với mình nỗi khiếp sợ rằng một ngày nào đó tôi sẽ bị trừng trị, vì mình “không giống như họ,” và nỗi khiếp sợ này khủng khiếp đến nỗi không thể so sánh được với bất cứ một thứ lý thuyết chính trị nào mà tôi từng đọc vào thời kỳ tôi là một thanh niên tả phái. Tôi quá ngạc nhiên khi sau này, khám phá ra một số ít trong đám bạn của tôi, cũng cư dân Istanbul, cũng thuộc diện thế tục, nửa tin đạo, nửa Tây phương, cùng chia sẻ với tôi tội lỗi bí mật này. Nhưng tôi thích thú khi tưởng tượng ra những người chưa bao giờ cử hành các nhiệm vụ tôn giáo, luôn ngó xuống những kẻ cuồng tín với sự khinh khi, một ngày nào đó, khi họ gặp một tai nạn, thí dụ như vậy, và phải nằm liệt trên mọt chiếc giường ở trong một bệnh viện; vào những giờ phút như vậy, thế nào họ cũng có một thỏa ước bí mật với Thượng Đế.
Thời gian học trung học, tôi có một bạn cùng lớp, anh ta can đm đến mức chẳng thèm gặp gỡ Thượng Đế để ký kết thỏa ước bí mật kể trên. Một cậu trai chẳng ngán ngẩm gì chuyện trời đánh thánh vật. Gia đình cực kỳ giàu có, phất lên nhờ ngành bất động sản. Mê cưỡi ngựa trong những cánh vườn khổng lồ bao quanh các biệt thự nguy nga trên những ngọn đồi phía bên trên Bosphorus, và đã từng đại diện quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ trong những cuộc đua ngựa quốc tế. Một lần hai đứa chúng tôi bàn về những vấn đề siêu hình trong giờ ra chơi, như đám chúng tôi khi đi học vẫn thường có những cuộc trò chuyện như vậy, và thấy tôi qúa sợ khi đụng tới Thượng Đế anh ta bèn ngước mắt nhìn lên trời và la lớn: “Nếu Thượng Đế hiện hữu, hãy đánh chết thằng này đi!” và sau đó, với một sự tự tin khiến tôi càng thêm rụng rời, anh nói, “Thấy không, tôi vẫn còn đang thở, như anh bạn, và còn cảm thấy tội lỗi vì trong thâm tâm tôi nghĩ rằng anh ta có lý, tuy nhiên, ngay cả trong khi bối rối như thế, tôi cảm thấy mừng, và gần như chẳng thể nào cắt nghĩa được tại sao lại mừng.
Khi được mười hai tuổi, những quan tâm của tôi – và tội lỗi – liên quan tới tính dục nhiều hơn là tôn giáo. Tôi ít còn để ý đến những căng thẳng siêu hình, giữa ước muốn tin tưởng và ước muốn tùy thuộc. Nỗi đau, hình như từ lúc đó trở đi, không phải ở chuyện xa Thượng Đế mà là xa mọi người ở xung quanh tôi, xa tinh thần tập thể của thành phố. Ngay cả như vậy, bất cứ khi nào, ở trong đám đông, trên một con tàu, hay trên một cây cầu, khi đụng đầu một bà già trong chiếc khăn choàng trắng, là một cơn rùng mình lại chạy suốt cơ thể tôi.