← Quay lại trang sách

Chương 21 Những người giàu

Vào giữa thập niên 1960, mẹ tôi thường tới đại lý báo mỗi Chủ nhật để mua một tờ Buổi chiều. Không như các tờ nhật báo, tờ báo này không được giao đến tận nhà chúng tôi, và – biết rằng mẹ tôi mất công đi mua chỉ để đọc mục tin đồn “Bạn đã nghe chuyện đó chưa?”, viết theo kiểu nặc danh dưới bút hiệu Gül-Peri (Nữ thần hoa hồng) – cha tôi, hễ có dịp là lại chọc quê mẹ tôi. Qua những lời chế nhạo của cha tôi, tôi hiểu rằng việc để ý đến ba thứ tin đồn xã hội là dấu hiệu của sự yếu đuối của cá nhân con người. Các ký giả, giấu mình dưới bút danh, viết bài này tỏ sự ghen ghét đố kỵ trước những người giàu có (kể cả những người mà chúng tôi mong được quen thuộc và xếp loại chung), bằng cách bịa đặt những điều dối trá về họ. Ngay cả, nếu không phải là những lời dối trá, họ đâu có cuộc đời gương mẫu để được nêu ra trong những cột báo như thế, ngoài chuyện giàu có? Mặc dù vậy, cha mẹ tôi đều mê đọc mục này, và tin những chuyện được nêu ra ở trong đó:

• Tội nghiệp Feyziye Madenci! Nhà của cô ở Bebek bị ăn trộm, nhưng không ai được biết bị mất những gì. Hãy chờ xem cảnh sát có giải ra được sự bí ẩn này hay không.

• Aysel Madra đã không đi tắm biển mùa hè vừa rồi – tất cả là do cô phải giải phẫu, cắt bỏ a mi đan. Mùa hè năm nay, cô tắm biển ở đảo Kuruçeşme – nhưng chúng tôi nghe nói, cô vẫn có điều gì không được thoải mái cho lắm. Chúng ta đừng hỏi tại sao.

• Muazzez İpar đi Rome! Chưa bao giờ người đẹp lịch lãm của Istanbul tỏ ra vui vẻ đến như thế. Lý do? Chúng ta tự hỏi, liệu có phải là do người bạn trai đồng hành của cô.

• Semiramis Sarɪay thường trải qua những mùa hè của cô ở Büyükada, nhưng lần này, cô quay lưng lại với chúng ta và trở về villa của cô tại biển Capri. Nói cho cùng, nó gần Paris hơn rất rất nhiều. Chúng ta được biết, cô sẽ thực hiện vài cuộc triển lãm nghệ thuật của mình. Khi nào thì cô cho chúng ta chiêm ngưỡng mấy bức tượng của cô?

• Xã hội thượng lưu của Istanbul gặp hồi xui xẻo! Rất nhiều nhân vật nổi tiếng, thường xuyên xuất hiện trên cột báo này tự dưng lăn ra bịnh, hay chạy vô bệnh viện để thực hiện những cuộc giải phẫu này nọ. Tin xấu nhất mới nhất là về Harika Gürsoy, người vừa mới đây đã trải qua một bữa dạ tiệc thật là vui vẻ để mừng trăng, tại căn nhà của người quá cố được nhiều người thương tiếc nhất, Ruşen Eşref, tại căn nhà của người này tại Çamlica…

“Vậy là Harika Gürsoy cũng phải đi nhà thương cắt a mi đan?” mẹ tôi nói.

“Cô ta nên cắt bỏ những mụn cóc ở trên mặt trước đã,” cha tôi nhẹ nhàng góp ý.

Một số nhân vật như vậy được nêu tên, trong khi một số khác không có tên, nhưng qua cách đối đáp giữa cha mẹ tôi, thì đây là những người cả hai đều quen biết, hoặc nghe nói tới, và đều là những người giàu có hơn chúng tôi. Mẹ tôi thèm được như họ - trong lúc lại chê bai của cải, sự giàu sang của họ, như những lần bà chê bai mấy người này “thế là lại bị đưa lên báo chí rồi.” Đây không phải quan điểm chỉ bà mới có. Những người giàu nên tránh đừng để báo chí đưa tên họ lên mặt báo là điều hầu hết người dân trong thành phố Istanbul đều nghĩ.

Thỉnh thoảng, cha mẹ tôi còn lớn giọng nói thẳng ra điều trên; nhưng đây không phải là một tiếng kêu của sự tủi nhục, hay để tìm cách vòng tránh những cái bẫy của sự kiêu hãnh; và cũng không phải để thể hiện một thứ đạo đức Tin lành. Đây sự thực là do sợ nhà nước. Ròng rã bao thế kỷ, thế lực cầm quyền, những pasha của Đế quốc Ottoman luôn để mắt tới những người giàu khác – hầu hết trong số đó cũng là các pasha quyền thế - như là những mối đe dọa, và sẽ nắm lấy bất cứ dịp nào để giết họ và tịch thu tài sản. Như trường hợp người Do Thái, những người ở địa vị cho nhà nước mượn tiền vào những thế kỷ sau của đế quốc – họ giống với người Hy Lạp, người Armenia, hai cộng đồng nổi lên như là các thương gia, nghệ nhân, tất tật đều có chung một hồi ức chua cay về Thuế Tài sản mang tính trừng trị được đặt ra nhằm vào họ hồi xảy ra Đệ nhị Thế chiến, thứ thuế dọn đường đưa đến việc trưng thu đất đai, nhà máy, cơ xưởng của họ, và đưa đến những cuộc bạo động xảy ra vào những ngày 5 và 6 tháng Chín năm 1955, khiến rất nhiều cửa tiệm của họ bị cướp bóc, và hỏa thiêu.

Đó chính là lý do khiến các chủ đất lớn Anatolia và thế hệ thứ nhì những nhà kỹ nghệ giờ đây ùa vào Istanbul cả gan trong việc khoe của cải nhiều hơn so với người gốc Istanbul. Lẽ tự nhiên, những người trước đây vốn sợ nhà nước, hay những người như chúng tôi – đã thất bại vì không sao gìn giữ được sản nghiệp trong hơn một thế hệ, thấy rằng sự cả gan này không chỉ điên khùng mà còn thô bỉ. Một trong những nhà kỹ nghệ giàu có thuộc thế hệ thứ nhì, Sakɪp Sabancɪ, hiện là người đứng đầu của một gia đình đứng thứ nhì trong danh sách những người giàu có nhất Thổ Nhĩ Kỳ, bị chê bai vì thói phô trương của dân giàu xổi, ăn nói chẳng giống ai, cách cư xử không đúng điệu (tuy nhiên chẳng có tờ báo nào dám nói điều này, vì sợ mất quảng cáo), nhưng chính sự can đảm miệt vườn đã khiến ông vào thập niên 1990 theo gương Henry Clay Frick mà biến căn nhà của ông thành một viện bảo tàng tư đẹp nhất Istanbul.

Tuy nhiên, những lo lắng của những người giàu có tại thành phố Istanbul trong thời thơ ấu của tôi không phải là không có cơ sở, sự kín đáo của họ cũng không phải là không khôn ngoan. Bộ máy thư lại của nhà nước thường xuyên để mắt tới tất cả các khía cạnh sản xuất, và bởi vì bạn không thể nào không chia chác với đám thư lại, các chính trị gia nếu muốn thực sự giàu có, thành thử mọi người đều đồng ý với nhau rằng ngay cả những người giàu có “đúng đắn” cũng có quá khứ tì vết. Sau khi cạn tiền của do ông tôi để lại, cha tôi bắt buộc phải làm việc trong nhiều năm cho Vehbi Koç, người đứng đầu một dòng họ kỹ nghệ giàu có khác của Istanbul, và cha tôi, hễ có dịp là chế giễu giọng nhà quê của ông này, sự kém thông minh của ông con trai nhà ông ta. Trong những lúc nóng giận, cha tôi còn tố thêm rằng đằng sau gia tài của họ là những trận đói và những dòng người xếp hàng lãnh thực phẩm cứu trợ trên khắp xứ sở, trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến.

Trong suốt thời thơ ấu và những năm trai trẻ, tôi chưa từng coi những người giàu có của Istanbul như là những người được thụ hưởng sự giàu có đó nhờ chính tài năng của họ, mà chỉ là những kẻ trước đây đã lợi dụng thời cơ và biết cách đút lót đám thư lại tham nhũng. Mãi đến thập niên 1990, khi nỗi sợ nhà nước đã giảm xuống, thì tôi nảy ra ý nghĩa, hầu hết những người này đã làm giàu một cách nhanh chóng và sau đó, dùng cả quãng đời còn lại của họ để giữ tiền, bằng cách giấu giếm chúng thật là kỹ, và cùng lúc đó, tìm một địa vị hợp thức trong xã hội. Bởi chẳng hề cần tới phẩm chất trí thức gì để trở nên giàu có, thành thử những người này không quan tâm tới sách vở, đọc sách, và ngay cả thú chơi cờ. Thật đúng là quá thê thảm so với thời kỳ quý trọng tài năng của Đế quốc Ottoman, khi chỉ có bằng con đường học vấn mà một người đàn ông có lý lịch bình thường mới có thể hy vọng leo lên các nấc thang xã hội, trở nên giàu có và trở thành một pasha. Với việc đóng cửa các tekke phái Sufi vào những năm đầu của nền Cộng hòa, bác bỏ văn học tôn giáo, cuộc cách mạng bảng chữ cái, và sự rời đổi tự nguyện qua văn hóa Âu châu, một nền văn hóa tinh tế, tích tụ của nhiều nguồn văn hóa trước đó, coi như chấm dứt.

Khi những người giàu mới (may phúc) hiểu ra được nỗi sợ nhà nước, những gia đình rụt rè này chỉ có một cách để tiến tới, là chứng tỏ họ Âu châu hơn bản chất của họ. Và họ hồ hởi đi tham quan Âu châu, mua sắm quần áo, hành lý, và những đồ dùng kiểu mới nhất (mọi thứ, từ máy ép nước trái cây tới máy cạo râu), và rất ư tự hào về ba thứ lẩm cẩm đó. Đôi khi, một gia đình Istanbul lâu đời cũng mở ra một thương vụ và làm giàu nhờ nó (như trường hợp tác giả một cột báo nổi tiếng và chủ nhân một tờ nhật báo, vốn là bạn thân của bà cô ruột tôi). Nhưng họ đã học được bài học của họ rồi; cho dù họ không hề vi phạm bất cứ một luật lệ, và không gây hấn, gây phiền hà cho bất cứ một viên chức nhà nước nào, và chẳng có lý do gì để sợ nhà nước, chuyện thường ngày rất dễ xảy ra đối với một trong số họ là một ngày đẹp trời nào đó bán đi một thứ, tậu một căn hộ không có gì đặc biệt ở London, từ đó mà mở to hai con mắt ngắm những bức tường nhà hàng xóm, hoặc màn hình chiếc tivi với thứ tiếng nói quái quỷ mà họ chẳng hiểu mô tê gì, nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thì cũng vẫn tiến bộ hơn so với những tiện nghi tại một căn hộ tại Istanbul trông ra vịnh Bosphorus. Cũng thường là do lòng ngưỡng mộ Tây phương mà người ta sản xuất ra những câu chuyện mang âm hưởng Anna Karenina: một gia đình giàu có muốn một cô bảo mẫu nước ngoài để dạy mấy đứa nhỏ ngoại ngữ, chỉ để đem đến kết quả là ông chủ bỏ nhà ra đi theo cô người làm.

Nhà nước Ottoman không có tính quý tộc truyền đời, nhưng cùng với sự ra đời của chế độ Cộng hòa, những kẻ giàu có làm đủ mọi cách để được thừa nhận như những kẻ thừa kế của nó. Chính vì vậy, vào thập niên 1980, bất thình lình bỗng quan tâm tới những tàn dư của văn hóa Ottoman, họ giành giật nhau để thu gom một vài “cổ vật” sống sót được qua ngọn lửa thiêu rụi các yalι bằng gỗ. Bởi vì đã có thời giàu có, và vẫn được coi là giàu có, chúng tôi khoái kể những câu chuyện tếu táo về việc bằng cách nào đám người này đã làm nên của cải của họ (câu chuyện tôi thú nhất là về một anh chàng nhờ một con tàu chở đầy đường ăn, giữa hồi Đệ nhất Thế chiến, mà qua một đêm trở nên giàu có, và ăn chơi thỏa thích cho đến khi chết). Có thể là dư âm của những câu chuyện như vậy, hay vẻ bi thảm bất ngờ, hay sự bất trắc tuyệt vọng – biết làm gì bây giờ sau khi bất thình lình trở nên giàu có, làm sao cho điều đó đừng biến mất một cách bí ẩn giống khi xuất hiện – của đám người này, bất cứ vì lý do nào, bất kỳ khi nào tôi gặp một người giàu nào đó – một bà con xa, một người bạn của gia đình, bạn thuở nhỏ của cha hoặc mẹ tôi, một người hàng xóm ở Nişantaşɪ, hay một trong những người giàu có nhưng không có tâm hồn, không có văn hóa, chấm dứt cuộc gặp gỡ bằng câu hỏi “Nghe gì chưa?” – là tôi chỉ muốn vạch trần cuộc đời rỗng tuếch của người đó ra.

Có một người bạn thời thơ ấu của cha tôi, một ông cũng được, tuy hay lên giọng, thích đóng vai ông bác, ông chú khuyên bảo lũ con cháu, ông được thừa hưởng một tài sản kếch sù từ ông bố (một trong những vị tể tướng cuối cùng của Đế quốc Ottoman), tiền thu nhập từ cái gia tài khổng lồ trên lớn đến nỗi ông thường tuyên bố trong đời mình ông chưa từng làm việc một ngày nào – không hiểu ông nói vậy là tự tâng bốc hay tự than vãn. Quả thực là ông chẳng làm gì cả, ngày ngày đọc báo, và từ căn phòng của mình ở khuNişantaşɪ, ngó ra đường phố. Buổi chiều, ông sẽ làm một cuộc tắm rửa, cạo râu, tỉa bộ ria thật là rềnh ràng, và sau đó, diện một bộ đồ lịch sự may tại Paris hay Milan, ông sẽ đi ra đường thực hiện nhiệm vụ độc nhất của ông trong ngày, tức là đi uống trà trong hai tiếng đồng hồ tại hành lang sang trọng, hay một tiệm bánh ngọt của khách tại Hilton. Một lần ông nhướng lông mày giải thích cho cha tôi, như thể đang chia sẻ một điều bí mật, bằng một bộ mặt thật sầu thảm như muốn biểu lộ một nỗi đau tinh thần thật là sâu thẳm, “Bởi vì đó là nơi độc nhất tại thành phố có không khí Âu châu.” Cùng một thế hệ ấy, có một bà bạn của mẹ tôi, một bà rất giàu và rất mập, và mặc dù (hay có lẽ bởi vì như vậy)trông rất ư là xấu xí chẳng khác gì một con khỉ, luôn luôn tiếp đãi một người bạn hay một người quen bằng câu mở đầu “Bạn thế nào, khỉ?” – cả tôi lẫn anh tôi đều thú bắt chước bà. Gần như cả đời bà được dành cho việc đuổi cổ mấy thằng đàn ông đến nhà bà xin cầu hôn, than phiền là họ không được phong lịch hoặc chưa đủ chất Âu châu, và khi xấp xỉ năm chục tuổi, bà đành phải nhắm những người đàn ông hoặc quá giàu, hoặc quá lịch sự, nhờ vậy mà chịu nổi một người đàn bà chẳng có gì để mà khoe khoang như bà, và sau cùng lấy một ông cảnh sát ba chục tuổi, “rất hơn người, rất phong lịch.” Những ngày vợ chồng âu yếm không được lâu, cuộc hôn nhân đổ vỡ và bà trải qua cuộc đời còn lại cố vấn cho những cô gái trẻ cùng giai cấp của bà rằngchỉ nên lấy chồng giàu, cùng giai cấp xã hội.

Những người giàu có, Tây phương hóa của thế hệ sau cùng dưới Đế chế Ottoman nói chung là thất bại trong việc tư bản hóa gia tài của cải được hưởng, và cũng không biết cách đầu tư trong thời kỳ bùng nổ lớn lao về thương mại, kỹ nghệ của Istanbul. Thường xuyên xảy ra chuyện những đấng con ông cháu cha này không chỉ từ chối ngồi vào bàn để thảo luận với các “thương gia tầm thường,” những người vừa biết lươn lẹo, lừa lọc, lại vừa có khả năng có được “tình bạn chân thật” và tinh thần cộng đồng, thậm chí họ còn không thèm uống trà với đám thương gia này. Những gia đình Ottoman cổ lỗ này còn bị lường gạt (mà không biết) bởi các luật sư mà họ mướn để bảo vệ quyền lợi của họ và lo việc thu gom tiền mướn. Bất cứ khi nào đi thăm viếng những thành viên của một dòng giống đang chết dần chết mòn này ở trong các biệt thự, hay trong các yalι vùng vịnh Bosphorus của họ, là tôi lại đều thấy rõ họ ưa mấy con mèo con chó của họ hơn là yêu con người, thế nên tôi hết sức coi trọng tình cảm đặc biệt họ dành cho tôi. Năm hay mười năm sau đó, khi tay mại bản Rafi Portakal cho bày biện ở gian hàng bán đồ cổ của ông ta những món đồ từng ở trong nhà đám người nói trên – những cái bàn cao, mặt nghiêng để đứng đọc sách, những cái đi văng, những cái bàn khảm xà cừ, những bức tranh sơn dầu, những bản chữ đẹp đóng khung, những cây súng cổ, những cây kiếm truyền lại từ đời ông họ, những tấm mề đay, những chiếc đồng hồ to tướng -tôi bỗng nhớ vô cùng những cuộc đời tàn lụi mà họ từng sống.Tất cả bọn họ đều có những thú vui và những trò kỳ quặc giúp họ thoát ra khỏi những liên hệ phiền nhiễu với thế giới bên ngoài. Tôi còn nhớ một người đàn ông gầy còm kéo cha tôi tới một góc phòng để chỉ bộ sưu tập đồng hồ và một bộ sưu tập võ khí, dáng vẻ lén lút như thể đang cho người khác xem những bức tranh khỏa thân. Khi một bà cô già của chúng tôi bảo chúng tôi cần đi vòng để né một bức tường đổ, nhỏ nhưng nguy hiểm, trên con dốc đi xuống căn nhà kho chứa thuyền, chúng tôi thấy thật thích thú khi nhớ ra rằng bà sử dụng đúng những từ giống như lần chúng tôi đến thăm viếng bà năm năm trước đó; một người khác thì luôn luôn nói thầm như để giấu giếm những điều bí mật quý giá với đám người làm trong nhà; thêm một người nữa làm mẹ tôi bực bội khi cọc cằn hỏi bà nội23 tôi gốc gác ở đâu. Một trong những ông cậu ông bác mập mạp của tôi có thói quen dẫn khách khứa đi thăm căn nhà của ông, như đi thăm một viện bảo tàng; sau đó, ông sẽ kể về những xì căng đan tham nhũng và thảm họa cách đó bảy năm, như thể chúng vừa xảy ra và mới được tường thuật vào buổi sáng trên tờ Hürriyet, đang khiến cả thành phố háo hức. Trong lúc chúng tôi trò chuyện, trong khi mẹ tôi liếc mắt xem thử chúng tôi có làm chuyện dại dột gì không, tôi nhận ra rằng, đối với những bà con giàu có này, chúng tôi không quan trọng, thật uổng công họ cố gắng gây ấn tượng, và bất thình lình tôi muốn ngay lập tức rời yalι của họ, bỏ về nhà. Khi một người nào đó lộn tên của cha tôi, hay một ai đó nhầm ông nội tôi với một tên địa chủ nhà quê, hay – như tôi thường xuyên nhận thấy ở những người nhà giàu sống ẩn dật – dễ sửng cồ vì những chuyện không đâu, chẳng đáng bực mình – người làm mang tới đường cục thay vì đường bột đúng như ông chủ ra lệnh; người tớ gái đeo vớ màu khó coi; những chiếc thuyền máy chạy sát nhà quá – tức thì tôi liền cảm thấy sự khác biệt về vị thế xã hội giữa chúng tôi. Nhưng dù họ có làm trò dởm đời như thế nào, con cháu của họ - mấy đứa con trai cùng tuổi tôi, và có người coi tôi là bạn – bị tất cả mọi người coi là “khó tính”; rất nhiều trong số họ đi tới chỗ cãi lộn với đám thuyền chài trong tiệm cà phê, đánh đập mấy vị linh mục trong một ngôi trường Pháp trên phố, hay (nếu không bị nhốt trong một nhà thương tâm thần ở Thụy Sĩ) tự tử.

Những gia đình này thường bị kẹt cứng ở trong những câu chuyện liên quan tới quyền lợi, đất đai, tài sản, những cơn giận dữ, những ám ảnh, hay những vụ cãi cọ làm xàm, không sao tìm ra nguyên nhân, nhưng dữ dằn đến nỗi phải đem nhau ra tòa, và về chuyện này, tôi nhận ra một điều là họ cũng có những nét giống như gia đình của chúng tôi. Một số gia đình cố làm chuyện cùng sum họp với nhau trong nhiều năm tại cùng một biệt thự lớn, và – mặc dù kéo nhau ra tòa – hằng ngày vẫn dùng chung bữa (như cha tôi, những bà cô, những ông chú của tôi đã từng làm như vậy). Nhưng cũng có những người coi nỗi đau của họ quá nặng nề, đau khổ đến nỗi không nói chuyện với nhau, tuy vẫn cùng sống trong một yalι; lại có những người, không thể nào nhìn mặt bà con ghê tởm, chia căn phòng đẹp nhất trong yalιcủa họ, phá hỏng đi cái trần nhà cao, phá hủy cái nhìn toàn cảnh, bao quát của căn nhà ra vịnh Bosphorus bằng bức tường thạch cao tạm bợ xấu xí, mỏng đến nỗi họ vẫn bắt buộc suốt ngày phải nghe tiếng ho, tiếng bước chân đi lại, ở phía bên kia bức tường, của mấy bà con ghê tởm của họ; nếu họ chia luôn phần còn lại của yalι (“mi lấy hậu cung, ta lấy túp lều”), thì đó không phải là do vấn đề tiện nghi, mà là nỗi vui khi thấy mình gây nên sự mất thoải mái cho cái thứ bà con không thể nào thương được kia. Tôi còn nghe có những người sử dụng án lệnh của tòa để bít luôn lối đi, không cho bà con vô vườn.

Chứng kiến một đợt sóng mới những cuộc cãi cọ tương tự trong những gia đình của thế hệ tiếp theo sau thế hệ trên, tôi bắt đầu tự hỏi, hay là đám người giàu có Istanbul có một thứ thiên tài đặc biệt của riêng họ về thù hận huyết thống. Vào những ngày đầu của nền Cộng hòa, khi ông tôi đang lo gom góp tài sản, một gia đình giàu có dời tới Nişantaşɪđể sống, cũng không xa chỗ chúng tôi, tại đại lộ Teşvikiye; đám con của họ đã chia một miếng đất mà ông bố mua từ một trong những pasha của Abdülhamit, thành hai lô. Ông anh lớn xây dựng tại miếng đất của mình một căn nhà, lui vô một chút so với vỉa hè, theo đúng như quy định của thành phố. Vài năm sau, ông em xây căn nhà của mình, và vẫn theo đúng quy định của thành phố, nhưng cố tình xây lấn lên hơn khoảng ba mét so với nhà anh mình, chắn luôn cái nhìn từ căn nhà của ông anh ra phố phường. Thế là ông anh bèn cho xây một bức tường cao bằng một toàn nhà năm tầng, chẳng để làm gì – như mọi người ở Nişantaşɪ đều biết – ngoài việc che tầm nhìn từ những cửa sổ của nhà ông em.

Chúng tôi ít khi nghe những vụ cãi cọ như thế, ở những gia đình từ các tỉnh lỵ chuyển lên Istanbu: Với đám này, chuẩn mực là giúp đỡ lẫn nhau, nhất là khi họ không quá giàu có. Sau thập niên 1960, dân số thành phố tăng vọt, và cùng với nó là giá đất, và tiền cứ như là ở trên trời rơi xuống, làm ngỡ ngàng những người sống lâu đời tại Istanbul, và sở hữu nhiều đất đai. Để chứng tỏ họ thuộc vào loại “tiền cổ của Istanbul,” việc đầu tiên mà họ làm, lẽ dĩ nhiên, là khởi sự cãi cọ về chia chác tài sản. Có hai anh em, sở hữu một số đất đai tại vùng đồi núi Bakɪrköy, chỗ đất đó biến thành một mỏ vàng khi thành phố bành trướng về hướng này; đó có thể là lý do khiến ông em cầm súng bắn chết ông anh vào đầu thập niên 1960. Báo chí hồi ấy, tôi còn nhớ, đưa ra giả thuyết ông anh mê cô vợ của ông em trai. Và còn chi tiết này nữa, cậu con trai mắt xanh của ông em trai sát nhân là bạn học ở bậc tiểu học của tôi tại trường Terraki Şişli, thành thử tôi càng thêm tò mò theo dõi. Trong nhiều ngày trời, tin tức về vụ này chiếm đầy trang nhất của các nhật báo, khi cả thành phố lao mình vào từng chi tiết nhỏ nhặt của câu chuyện về dục vọng này, cậu con trai của kẻ sát nhân đến trường, mặt mày xanh rờn, mớ tóc hung, chiếc quần sọc, chiếc áo vest nhà quê, và luôn luôn cầm một chiếc khăn tay, sụt sùi trong yên lặng suốt buổi học. Trong vòng bốn mươi năm trời kể từ đó, mỗi lần tôi đi qua khu vực này của thành phố - giờ là chỗ của cỡ chừng 250.000 người – và mang tên của một đứa bạn học luôn luôn mặc chiếc áo vest nhà quê của tôi, hay là mỗi lần nghe gia đình nhắc lại vụ này (xét cho cùng, Istanbul là một ngôi làng lớn), là tôi lại thấy hiện ra trước mắt hình ảnh người bạn học cũ tóc hung, cặp mắt mới đỏ làm sao, và tiếng sụt sùi mới lặng lẽ làm sao.

Các đại gia đình chuyên nghề đóng tàu biển (tất cả từ vùng bờ biển Hắc Hải) không chọn giải pháp kéo nhau ra tòa án, họ chọn thứ đam mê trần trụi mà chỉ có súng đạn mới có thể thỏa mãn. Những gia đình này, khởi nghiệp với những đoàn thuyền gỗ, nhỏ, tranh giành lẫn nhau các hợp đồng của nhà nước, nhưng điều này không đưa đến cạnh tranh thương mại tự do theo kiểu Tây phương; thay vì vậy, họ thành lập các băng đảng và dùng chúng để uy hiếp địch thủ; đôi lúc, khi chán chuyện bắn giết lẫn nhau, họ làm như những ông hoàng thời Trung cổ đã từng làm, nghĩa là trao đổi con gái của họ, qua những cuộc hôn nhân, nhưng những thời kỳ hòa bình theo kiểu này không bao giờ kéo dài, chẳng mấy chốc họ bắn bỏ lẫn nhau, phần lớn là giữa những băng đảng đã từng trao đổi con gái với nhau, gây ra sự phiền muộn của các cô gái, những người giờ đây đã thuộc về cả hai gia đình. Họ chuyển từ đóng tàu nhỏ qua đóng tàu lớn, dùng trong ngành đánh cá, sau tới tàu chở hàng, và một trong những cô con gái của họ đã kết hôn với con trai của vị tổng thống của nền Cộng hòa, thế là họ thường xuyên xuất hiện trên cột báo “Bạn đã nghe chuyện đó chưa?” – và mẹ tôi chăm chỉ theo dõi những miêu tả cặn kẽ của tay ký giả viết dưới bút hiệu Nữ thần hoa hồng, về những bữa tiệc “ê hề trứng cá muối, tràn mứa sâm banh.”

Tại các bữa tiệc tùng, tiệc cưới, dạ vũ như vậy – cha mẹ tôi thường tham dự, luôn cả mấy bà cô, ông chú – luôn luôn có rất nhiều nhiếp ảnh gia; những người trong gia đình tôi đem về nhà bất cứ bức ảnh nào có mặt họ, và trưng bày một vài ngày trên một cái tủ buýp phê. Trong những bức hình đó, tôi nhận ra một số người đã từng đến nhà chúng tôi để thăm viếng, và một số người nổi tiếng được nhắc tới trên báo chí, ngoài ra còn có một số chính trị gia, những người đã giúp đỡ họ trong công việc làm ăn. Khi mẹ tôi gọi điện để tán chuyện với bà chị của bà, người thường xuyên có mặt trong các bữa tiệc hơn so với mẹ tôi, tôi cố gắng tưởng tượng ra không khí của những bữa tiệc như vậy. Kể từ thập niên 1990, tiệc cưới của giới thượng lưu đã trở thành một áp phe lớn, có báo chí, những đoàn quay phim của truyền hình, những người mẫu nổi tiếng nhất trong nước tới dự; chúng được thông báo rộng rãi với thành phố bằng những chùm pháo bông. Tuy nhiên, thế hệ trước đó, sự tình khác hẳn. Vào thời kỳ ấy, vấn đề không phải là phô trương thanh thế, mà đây là những dịp để cho những người giàu tụ họp với nhau và quên đi, ít ra là trong một buổi tối, những nỗi sợ hãi và phiền muộn, lo lắng về một nhà nước tham lam và bắng nhắng. Khi dự những bữa tiệc cưới như vậy, khi còn là một đứa bé, mặc dù bối rối, tôi cũng cảm thấy thích thú được hiện diện cùng với những con người tuyệt diệu ấy. Tôi đọc thấy trong ánh mắt của mẹ tôi cùng sự thích thú đó, khi bà bước xuống bậc thềm nhà để đi dự tiệc, sau khi để ra trọn một ngày trời để sửa soạn, trang điểm. Không phải là cái viễn tượng sẽ được hưởng một buổi tối vui vẻ, mà là sự mãn nguyện vì được hiện diện ở giữa những người giàu – và hiểu rằng, dù bất cứ lý do nào chăng nữa, thì bạn cũng đã thuộc về cùng một giới với họ.

Sau khi đi vô tòa đại sảnh, đèn đuốc sáng trưng, hay (vào mùa hè), đi vô một khu vườn lộng lẫy, trong lúc bước đi giữa những hàng bàn ghế, những căn lều, những thảm hoa, những người bồi bàn, nam và nữ, tôi nhận ra một điều, ngay cả những người giàu có, họ cũng cần có một người nào đó cùng sóng đôi với họ, và nếu kẻ đi sóng đôi với họ là những nhân vật nổi tiếng thì càng đẹp. Nhìn đám đông, như mẹ tôi thường nói, để coi xem có “ai nữa nhỉ” đang ở đó, tất cả mọi người đều thấy hãnh diện khi thấy “đúng là những con người ấy.” Hầu hết trong số họ không phải thuộc loại kiếm ra đồng tiền một cách khó khăn, cực nhọc, mà là nhờ cú may mắn, hay là nhờ một cú lường gạt mà họ muốn quên đi, và sự yên tâm tin tưởng của họ nằm ở chỗ họ đã có nhiều tiền đến nỗi tiêu bao nhiêu cũng không hết. Tất cả những người đó, nói một cách khác, là những con người chỉ cảm thấy thoải mái, cảm thấy dễ chịu về chính họ nếu được ở cùng một chỗ với những con người giống như họ.

Một lần, tôi làm một chuyến tản bộ giữa đám họ, một ngọn gió lạ không biết từ nơi chốn nào chợt thổi tới, và tôi bỗng cảm thấy mình xa lạ, cảm thấy đây không phải là nơi chốn của mình. Hay là khi thấy một món đồ khác thường, một món hàng xa xỉ (thí dụ, con dao chặt thịt chạy bằng điện) vượt trên khả năng tài chính của chúng tôi, và tôi cảm thấy chán ngán; hà cớ ra làm sao mà cha mẹ của tôi lại có thể tỉ tê, thân mật hòa mình cùng với họ, những con người có được của cải nhờ một hành động ô nhục, nhờ một thảm họa, hay là do lường gạt. Sau này, tôi sẽ khám phá ra rằng mẹ tôi, người thực sự cảm thấy thích thú, dễ chịu khi ở giữa những người đó, và cha tôi, người có thể đã từng tán tỉnh một trong những cô bồ của ông tại đó, cả hai làm sao quên những lời nói cay nghiệt độc địa của chính mình về họ khi ở nhà, nhưng đã để qua một bên, dù chỉ là cho một đêm. Nhưng nói cho cùng, liệu có phải tất cả những người giàu có đều làm như vậy? Có thể, tôi nghĩ, và đây là một phần của việc giàu có: luôn luôn hành động “như thể.” Những người giàu trải qua những bữa tiệc của họ bằng cách phàn nàn về những món ăn họ được phục vụ, chuyến bay gần đây nhất – như thể đây là một vấn đề thật đáng quan tâm, thật quan trọng, như thể tất cả những thức ăn mà họ đã từng ăn đâu có tệ như thế. Những người giàu có này, thoải mái như vậy, tự tin như vậy, ấy là vì tâm hồn của họ, họ đem giấu ở một nơi chốn thật chắc chắn, thật xa nơi chốn này và thật khó có ai có thể sờ mó được, giống như tiền bạc của họ được để ở trong các ngân hàng Thụy Sĩ (hay dùng từ của cha mẹ tôi, tiền bạc của họ được “hút vô” đó). Và tôi thật thèm cái sự tự tin của họ.

Cái khoảng cách giữa họ và chúng tôi cũng chẳng lớn lao vĩ đại gì như tôi từng nghĩ: Tôi khám phá ra điều này là nhờ cha tôi. Khi đó, tôi hai mươi tuổi, và bắt đầu lao vào một cuộc chỉ trích dài thật kịch liệt nhắm vào những sự ngu si đần độn của những người giàu không có tâm hồn, những kẻ hãnh tiến ăn phải bả Tây phương, những kẻ - thay vì chia sẻ những bộ sưu tập nghệ thuật với công chúng, cung hiến cho viện bảo tàng, theo đuổi những đam mê của mình – thì sống những cuộc đời nhút nhát, tầm thường, vô vị, và tôi chỉ đích danh một số trong họ, thuộc vài gia đình cũng có quen biết, qua lại, những người bạn thời thơ ấu của cha mẹ tôi, hay là cha mẹ của một số bạn của chính tôi. Cha tôi ngắt lời tôi giữa chừng và – có thể bởi vì ông sợ rằng tôi đang chuốc lấy cho mình một cuộc đời bất hạnh, hay có lẽ ông chỉ đơn giản là muốn cảnh cáo tôi – nói “thực ra” người phụ nữ mà con nhắc tới đó (một người đàn bà rất đẹp), là một người có thiện tâm, một “cô gái” rất tốt, và nếu có dịp thân cận, quen biết cô nhiều hơn, tôi sẽ dễ dàng hiểu được tại sao.