← Quay lại trang sách

Chương 22 Về những con tàu đi ngang qua vịnh Bosphorus, những trận cháy nổi tiếng, dọn nhà, và các thảm họa khác

Chuyện làm ăn thất bại liên tiếp của cha và chú, những cuộc cãi lộn giữa hai đấng sinh thành ra tôi, những tranh chấp âm ỉ giữa bà con trong đại gia đình mà bà tôi là trụ cột – đó là một số trong những điều chuẩn bị sẵn cho tôi cái hiểu biết rằng, mặc cho mọi thứ thế giới này dâng tặng (hội họa, tình dục, tình bạn, ngủ, yêu, thực phẩm, trò chơi, nhìn ngắm các sự vật), và dù cơ may hạnh phúc có muôn vàn, hiếm khi một ngày qua đi mà tôi không khám phá thêm một thú vui mới, cuộc sống vẫn đầy những thảm họa bất thình lình, không mong muốn, đủ mức độ lớn nhỏ. Tính chất ngẫu nhiên của thảm họa ấy làm tôi nhớ tới những tin của đài phát thanh hàng hải, nhắc nhở những con tàu (và luôn cả phần còn lại, là chúng tôi), về những “trái mìn trôi tự do” ở cửa vịnh Bosphorus, và cho biết vị trí chính xác của chúng.

Bất cứ lúc nào cha mẹ tôi cũng có thể khởi sự cãi cọ về một điều gì đó vô cùng dễ đoán trước, hoặc là một cuộc tranh chấp tài sản bùng nổ giữa bà con trong nhà ở tầng lầu bên trên, hay ông anh, bực bội bất tử, lôi thằng em ra dạy cho một bài học chẳng thể nào quên được. Rồi lại còn chuyện này nữa, cha tôi có thể về nhà, bình thản tuyên bố là ông đã bán căn nhà của chúng tôi, hoặc ông bị siết nợ, hoặc chúng tôi sẽ phải dọn nhà, hoặc ông quyết định đi chơi xa một chuyến.

Và những ngày đó, chúng tôi dọn nhà xoành xoạch. Mỗi lần như thế, không khí trong nhà lại căng thẳng, nhưng để đổi lại mẹ tôi phải lui cui gói ghém từng bát đĩa, từng thứ đồ sành, đồ sứ bằng những tờ nhật báo cũ, thành thử bà không còn thì giờ để ý đến hai ông con trai, thế nên chúng tôi tha hồ chạy nhảy khắp nhà. Nhìn thợ dọn nhà khiêng bàn ghế, tủ, kệ, những món đồ luôn có mặt trong cuộc sống của chúng tôi, và khi từ giã căn hộ đã từng là nhà của chúng tôi, tôi bắt đầu cảm thấy buồn bã, điều an ủi duy nhất là tôi có thể kiếm thấy cây bút chì đã mất từ lâu, một viên bi, hay là một món đồ chơi thật thân thương, bên dưới một thứ đồ. Căn nhà mới của chúng tôi có thể không ấm áp hay thoải mái so với tòa nhà Nhà Pamuk ở Nişantaşɪ, tuy nhiên, những căn nhà ở Cihangir và ở Beşiktaş có vị trí thật đẹp trông ra Bosphorus, vì vậy, tôi chẳng hề cảm thấy không hạnh phúc khi sống ở đó, và thời gian trôi đi, ngày ngày tôi càng bớt quan tâm đến sự sa sút của gia đình mình.

Tôi có một số mánh làm cho những thảm họa nho nhỏ như vậy không làm phiền mình. Tôi tự đặt cho mình một chế độ cấm đoán có tính mê tín thật nghiêm ngặt (thí dụ như không bước lên những vết nứt trên hè đường, và không bao giờ đóng một số cánh cửa); hay tạo cho mình một cuộc phiêu lưu chớp nhoáng (đi gặp anh chàng Orhan khác kia, chạy trốn qua thế giới thứ nhì, vẽ tranh, tự để mình lọt vô mộtthảm họa, thí dụ như tìm cớ đánh lộn với ông anh); hay là ngồi đếm những con tàu chạy qua vịnh Bosphorus.

Thực ra từ lâu nay tôi vẫn làm chuyện đếm tàu xuôi ngược vịnh Bosphorus. Tôi đếm những con tàu chở hàng Romania, tàu chiến Liên Xô, thuyền đánh cá từ Trabzon tới, thuyền du lịch Bulgaria, tàu chở hành khách của công ty hàng hải Thổ Nhĩ Kỳ tới Hắc Hải, tàu khí tượng Liên Xô, những chiếc thuyền sang trọng của Ý, thuyền chở than, tàu khu trục, những chiếc tàu chở hàng gỉ sét Varna, và những chiếc thuyền giấu lá cờ quốc gia và tên đất nước trong màu đen đúa, tàn tạ của chúng. Nói như vậy không có nghĩa là tôi đếm tất cả mọi thứ; như cha tôi, tôi không để ý đến mấy chiếc ghe máy đưa thương gia tới sở, hay chở những bà đi mua sắm với năm chục cái túi đựng đồ ở kế bên, tôi cũng không đếm những chiếc phà rời từ bến này qua bến khác, từ một đầu Bosphorus tới đầu kia, với những hành khách u ám ảm đạm, suốt chuyến phà chìm trong suy tưởng, hút thuốc và uống trà: cũng như các đồ đạc bày biện trong nhà, chúng đã có sẵn trong cuộc sống hằng ngày của tôi.

Khi còn là một đứa bé, tôi đếm những con tàu này mà trong lòng cảm thấy thấp thỏm, có khi cực nhọc, có những lúc đến khiếp đảm. Bằng cách đếm như thế, tôi cảm tưởng như mình đang thiết lập trật tự cho cuộc sống riêng; vào những lúc quá thể giận dữ, hết sức sầu thảm, tôi chạy ra khỏi chính tôi, ra khỏi trường học, ra khỏi cuộc đời mình, và lang thang trong thành phố, ngưng hoàn toàn không đếm nữa. Vào những lúc đó, tôi cảm thấy tiếc nuối làm sao, những thảm họa, những trận cháy, cuộc đời khác kia, và anh chàng Orhan khác kia.

Có lẽ nếu tôi giải thích bằng cách nào tôi lại nghiền đếm thì mọi chuyện sẽ sáng tỏ chăng. Vào thời gian ấy – chúng ta đang nói tới khoảng đầu thập niên 1960 – mẹ, cha và anh tôi và tôi đang sống ở trong một căn hộ nhỏ nhìn ra vịnh Bosphorus, trong tòa nhà của ông tôi tại Cihangir. Đó là năm sau cùng của tôi ở bậc tiểu học, như vậy là tôi lên mười một tuổi. Khoảng mỗi tháng một lần, trước khi đi ngủ, tôi vặn kim đồng hồ báo thức (cái đồng hồ có hình một quả chuông), nó sẽ đánh thức tôi dậy vài giờ trước khi trời sáng, để tôi có thể thức dậy trong những giờ cuối cùng của đêm. Trong đêm tối im lặng lạnh lẽo của mùa đông, một mình không sao đốt lại cái lò sưởi đã tắt trước khi tôi ngủ, tôi mò sang cái giường trống ít khi có người nằm ở trong phòng người làm, lấy ra mấy cuốn tập tiếng Thổ của tôi, và bắt đầu chép ra bài thơ mà tôi phải học thuộc lòng khi đi học.

“Ôi lá cờ vinh quang,

Phất phới trên bầu trời!”

Như bất kỳ ai phải học thuộc một lời cầu kinh hay một bài thơ đều biết, nếu muốn ghi nhớ chúng, tốt nhất đừng để ý đến những gì bạn đang nhìnthấy trước mắt. Một khi các từ đã tự ghi rõ ra rồi, trí óc bạn sẽ tha hồ tìm kiếm các hình ảnh làm chỗ dựa. Cặp mắt bạn có thể hoàn toàn thoát khỏi những suy nghĩ của bạn để tự thỏa thích nhìn ngắm thế giới. Vào những buổi sáng mùa đông, nằm co ro trong chăn mền ghi nhớ bài thơ, tôi đưa mắt qua cửa sổ nhìn vịnh Bosphorus, lung linh trong bóng tối giống như một giấc mơ.

Tôi có thể nhìn thấy Bosphorus qua những kẽ hở giữa các tòa nhà bốn hay năm tầng phía dưới nhà của chúng tôi, qua những mái nhà, những ống khói của những căn nhà gỗ rệu rạo chỉ chừng mười năm nữa là cũng bị thiêu rụi, những ngọn tháp của Thánh đường Hồi giáo Cihangir; vào giờ này chưa có những chuyến phà qua lại trên vịnh, vàbiển thì tối sẫm, đến nỗi chẳng có một ánh đèn, một tia sáng nào có thể chọc thủng nó. Quá bên kia bờ phía Á châu của Bosphorus, tôi có thể thấy những chiếc cần cẩu cổ lỗ của Haydarpaşa và ánh đèn một con tàu chở hàng đang lặng lẽ qua vịnh; nhờ trăng hay ánh đèn của một chiếc ghe máy đơn độc, đôi lúc tôi có thể nhìn thấy những chiếc sà lan khổng lồ, kềnh càng, gỉ sét, già cằn, sò hến phủ đầy, một người chài cô đơn trên chiếc thuyền câu, màu trắng ma quái của ngọn tháp Kɪzkulesi. Nhưng gần như toàn bộ biển vẫn chìm ngập trong bóng tối. Ngay cả khi – trước khi mặt trời mọc thật lâu – những tòa nhà, những nghĩa địa với đám cây bách ở phía bên bờ Á châu của con vịnh Bosphorus bắt đầu sáng lên, vịnh Bosphorus vẫn tối thui – và có vẻ như đối với tôi, nó sẽ mãi mãi như thế.

Trong khi tôi lẩm nhẩm bài thơ của tôi trong bóng đêm, trong trí óc tôi, tự nó khuấy động, tự nó bận rộn với những trò chơi hồi nhớ lạ lùng, cặp mắt của tôi sẽ cố bám vào một cái gì đó đang chuyển động thật là chậm theo những dòng nước của con vịnh – một con tàu trông thật lạ, một chiếc thuyền câu ra biển sớm. Cặp mắt của tôi không thực sự chú mục vô con tàu, như thói quen cố hữu của chúng; chúng thoáng nhìn con tàu chuyển động, rồi mới nhận ra nó. Đúng rồi, đây là một cái tàu chở hàng, tôi tự nhủ; đúng rồi, đây là chiếc thuyền câu ra biển sớm, nó cũng chẳng thèm thắp lên ánh đèn độc nhất của nó nữa; đúng rồi, đây là chiếc ghe máy chở những hành khách đầu tiên của nó từ Á châu qua Âu châu; đúng rồi, đây là chiếc tàu chiến Liên Xô, tới từ một cảng xa lắc nào…

Trong một buổi sáng như vậy, trong khi co ro trong mền ghi nhớ bài thơ như thường lệ, mắt tôi nhìn thấy một vật chưa từng nhìn thấy bao giờ. Tôi nhớ rõ lúc ấy tôi đang ngồi đó, lạnh cứng, quên hẳn cuốn sách đang cầm trên tay. Một vật khổng lồ, như từ hố thẳm của đêm đen nhô lên, lớn dần lớn dần, và cứ thế sáp lại gần ngọn đồi gần nhất – ngọn đồi từ đó tôi đang nhìn – đó là một con quái vật biển24 khổng lồ, có kích cỡ và hình dạng của một bóng ma trong những cơn ác mộng tệ hại nhất của tôi, một tàu chiến Liên Xô! – từ đêm đen, từ sương mù ló ra, như thể trong một câu chuyện cổ tích, một pháo đài to lớn lừng lững trên mặt biển. Máy tàu để số nhỏ, con tàu chạy lừ lừ, lặng lẽ, nhưng chấn động của nó mới dữ dằn làm sao, làm cửa kính rung lên bần bật, đồ đạc trong nhà, những cây kẹp đồ treo không đúng chỗ bên cạnh bếp lò, những nồi niêu xoong chảo trong căn nhà bếp tối thui, cửa sổ phòng mẹ tôi, cha tôi, và phòng anh em tôi cũng rung lên, luôn cả lối đi rải sỏi dẫn xuống bãi biển; ngay cả những chiếc lon rỗng trong thùng rác ở phía trước nhà cũng kêu loảng xoảng, cứ như thể cái xóm nhỏ yên bình đang trải qua một cuộc động đất nho nhỏ. Như vậy có nghĩa là những câu chuyện rì rầm của cư dân thành phố, kể từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, đã thành thực sự. Những chiếc tàu chiến lớn nhất của Nga Xô đã đi qua vịnh Bosphorus, sau nửa đêm, được che giấu bởi màn đêm đen tối.

Trong lúc hoảng loạn, tôi nghĩ mình nên làm một điều gì đó. Cả thành phố đều say ngủ, chỉ một mình tôi thức, và nhìn thấy tàu chiến Liên Xô đi ngang qua, làm sao biết nó nhắm tới đâu và thực hiện hành động khủng khiếp nào. Tôi phải hành động liền, để cảnh báo Istanbul, để cảnh báo toàn thể thế giới. Đó là cái điều mà tôi thấy những đứa trẻ can đảm trên các tờ tạp chí đã từng làm – đánh thức toàn thành phố để họ lo dự phòng đồ ăn thức uống, cứu họ khỏi những trận cháy nhà, và đoàn quân xâm lăng. Nhưng tôi chẳng làm sao có được ý chí để ra khỏi cái giường ấm áp.

Quá bồn chồn, phấn khích, tôi làm một hành động ngăn chặn dữ dằn, và nó đã trở thành một thói quen: Tôi tập trung hết cái đầu của mình, quyết tâm ghi nhớ, hướng về tàu chiến Liên Xô, đưa nó vào ký ức của tôi, và đếm. Như vậy nghĩa là gì? Tôi làm đúng điều mà các điệp viên huyền thoại Mỹ đã từng làm, khi họ ẩn mình trên những ngọn đồi Istanbul và chụp hình từng tàu chiến Cộng sản đi qua vịnh (đây cũng là một huyền thoại khác nữa, có chút căn cơ thực tại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh): Tôi đưa vào bảng catalogue tất cả những điểm nổi bật của con tàu nói trên. Trong trí tưởng tượng, tôi so sánh những dữ liệu mới với những con tàu khác, với dòng chảy của Bosphorus, và có lẽ thậm chí cả với tốc độ quay của thế giới; tôi đếm nó, và làm như vậy, tôi biến con tàu khổng lồ thành một điều bình thường. Và không chỉ con tàu Liên Xô: Bằng cách đếm tất cả những con tàu“đáng được đếm” như vậy, tôi có thể sửa đổi bức tranh của tôi về thế giới, và chỗ đứng của riêng tôi ở trong đó. Vậy là đúng, điều họ dạy chúng tôi ở trường học: Bosphorus là chìa khóa, trái tim của thế giới địa chính trị, và đó là lý do tại sao tất cả những quốc gia trên thế giới, tất cả quân đội của họ và đặc biệt nhất là người Nga, muốn chiếm hữa Bosphorus xinh đẹp của chúng tôi.

Cả đời, bắt đầu từ khi còn là một đứa bé, tôi luôn sống trên những ngọn đồi cao ngó xuống vịnh Bosphorus – dù luôn là từ xa, qua những khoảng trống giữa các toà nhà, những vòm cung thánh đường, và những ngọn đồi. Để có thể nhìn thấy Bosphorus, cho dù là từ xa – đối với cư dân của thành phố Istanbul, đây là một vấn đề tâm linh, điều này giải thích tại sao những cửa sổ nhìn ra vịnh thì giống những ban thờ tại các thánh đường Kitô giáo, những mihrab trong các nhà thờ Hồi giáo, hay là các tevanở trong những giáo đường Do Thái, và tại sao tất cả những chiếc ghế, những chiếc sofa, và những bàn ăn trong các phòng khách đối diện với Bosphorus của chúng tôi, tất cả đều được sắp xếp làm sao để có được một cái nhìn ra vịnh. Một hậu quả khác nữa của niềm đam mê có được một cái nhìn ra vịnh của chúng tôi: Nếu bạn đang ở trên một con tàu tới từ Marmara nhắm hướng Bosphorus, con vịnh sẽ mở ra trước mặt bạn với muôn vàn cửa sổ của thành phố Istanbul, chen chúc nhau, xô đẩy nhau, cái nọ chồng cái kia, cố ngoi ra phía trước để có được một cái nhìn đẹp hơn xuống cái con tàu có bạn ở trên, và những làn nước chuyển động cùng con tàu.

Đếm những con tàu đi qua vịnh Bosphorus có thể là môt thói quen kỳ cục, nhưng khi có dịp nói chuyện đó với những người khác, tôi mới biết hóa ra đó là một thói quen rất thông thường của người dân đủ mọi hạng tuổi của thành phố. Trong một ngày bình thường, một con số rất lớn người trong chúng tôi làm nhiều chuyến đi đều đặn ra cửa sổ hay bao lơn để kiếm những con tàu, và chúng tôi làm như thế để có được cảm nhận về những thảm họa, chết chóc, tai ương có hoặc không thể bất thình lình giáng xuống đầu chúng tôi, và làm đảo ngược mọi chuyện. Ở Beşiktaş, nơi chúng tôi đã có thời gian rời tới lúc tôi là một cậu thiếu niên, có một người bà con xa, sống trong một căn nhà tại Serencebey, trên một ngọn đồi nhìn ra vịnh Bosphorus, ông ghi chú thật tỉ mỉ về từng con tàu khiến bạn có cảm tưởng đây là công việc của ông ấy. Một người bạn học cùng lớp của tôi thời gian học trung hoc chắc chắn rằng bất cứ một con tàu nào có vẻ mờ ám – cũ rích, gỉ sét, bỏ bê không chịu tu sửa, hay nguồn gốc không làm sao biết được – đều là một con tàu chuyên chở vũ khí lậu của quân đội Liên Xô cho những kẻ nổi loạn tại đất nước nào đó, hay là chở dầu cho một đất nước khác để làm đảo lộn thị trường xăng dầu trên thế giới.

Vào những ngày trước khi có truyền hình, đó là một cách thú vị để qua thời giờ. Nhưng cái thói quen đếm tàu mà tôi chia sẻ với rất nhiều người đúng là do sợ hãi mà ra, cái sợ hãi cũng ăn dần ăn mòn rất nhiều tâm tư người dân khác của thành phố. Sau khi nhìn tất cả của cải của vùng đất Trung Đông đội nón ra đi khỏi thành phố, sau khi chứng kiến sự suy tàn dần dần, bắt đầu bằng những thất trận của Đế quốc Ottoman trước người Nga, và sau đó Tây phương, và chấm dứt bằng việc thành phố trở nên nghèo khổ, buồn bã và tàn tạ, người dân Istanbul trở thành những con người quốc gia luôn nhìn vào nội tâm của họ; do vậy chúng tôi đều là những kẻ luôn tỏ ra nghi ngờ trước bất cứ cái gì mới, và đặc biệt là trước bất cứ cái gì có mùi ngoại (ngay cả khi chúng tôi thèm muốn nó). Trong vòng 150 năm qua, chúng tôi luôn sống trong sự hãi những tai ương thảm họa sẽ mang đến những thất bại, điêu tàn mới. Và cũng thật quan trọng cái việc phải làm sao khu trục sự sợ hãi, nỗi buồn phiền, đó là lý do tại sao chúng tôi coi việc ngồi thừ ra nhìn ngắm con vịnh Bosphorus như là một bổn phận.

Những kiểu thảm họa mà thành phố nhớ rõ nhất, và chờ đợi với mức lo lắng lớn lao nhất, lẽ dĩ nhiên, là những tai nạn liên quan tới những con tàu trên vịnh Bosphorus. Những điều này làm cho thành phố tụ hội lại, và làm cho nó giống như một cái làng lớn. Bởi vì các tai nạn ấy treo lửng những luật lệ liên quan đến cuộc sống thường nhật, và bởi vì, sau cùng, chúng chừa “những con người như chúng tôi” ra, thành thử trong thâm tâm (và cũng có chút áy náy), tôi lại khoái chúng.

Tôi mới tám tuổi vào cái đêm tôi suy ra – từ tiếng động ồn ào và những ngọn lửa xé toạc nền trời sao – hai con tàu chở đầy dầu đụng nhau ở giữa vịnh Bosphorus và bốc cháy sau một tiếng nổ lớn; nhưng tôi háo hức nhiều hơn là khiếp sợ. Chỉ sau đó, qua điện thoại, chúng tôi mới biết, vụ nổ do hai con tàu đụng nhau lây lan tới những khi xăng dầu kề cận, khiến thành phố có nguy cơ bị thiêu rụi. Như ở tất cả những vụ cháy lớn xảy ra vào thời ấy, đã có sẵn một trật tự diễn tiến: Thoạt đầu chúng tôi nhìn thấy vài cụm lửa, một ít khói, rồi tới những lời đồn thổi, hầu hết đều sai, và sau cùng, mặc dù bị các bà mẹ và các bà cô bà bác phản đối, cấm đoán, chúng tôi bắt đầu nhập cuộc, tự mình tận mắt chứng kiến vụ cháy.

Đêm đó, chú tôi là người khẩn cấp đánh thức chúng tôi dậy, đẩy tất cả vô xe của ông, đưa chúng tôi tới Tarabya theo con đường đi qua những ngọn đồi bọc phía sau Bosphorus. Ngay trước một khách sạn lớn (đang được xây cất), con đường bị cảnh sát chặn lại; điều này làm tôi cảm thấy buồn và phấn khích, chẳng thua gì so với bản thân trận cháy. Sau đó, tôi thực sự ghen tị khi nghe chuyện một anh bạn học cùng lớp có tính huênh hoang đã cùng ông bố đi qua được trạm gác, sau khi ông bố chìa thẻ phóng viên trước tay cảnh sát, miệng la lớn “Báo chí!” Đó là trận cháy của năm 1960, ngay vào lúc đêm vừa tàn và trời sửa soạn sáng một ngày mùa thu, cuối cùng tôi ngắm vịnh Bosphorus rực cháy, tò mò, háo hức, giữa một đám đông, quần pyjama ống thấp ống cao, chân đi dép ngủ, trẻ con ôm trong lòng, tay xách bị. Tôi sẽ rất thường xuyên nhìn thấy, trong những năm sau này, ở các đám cháy huy hoàng thiêu rụi những căn yalɪ, tàu thuyền và đôi khi cả chính mặt nước biển, những người bán hàng rong xuất hiện không biết từ đâu, len lỏi giữa đám đông để bán helva, simit, những chai nước uống, hạt rang, nướng, thịt viên, xi rô.

Theo tin tức báo chí, Peter Zoranich, một con tàu chuyên chở hơn mười ngàn tấn25 dầu đốt, đi từ cảng Tvapse của Liên Xô sang Nam Tư, do đi lộn lằn đường dành cho nó khi vô vịnh Bosphorus nên đã đụng với chiếc World Harmony, một tàu Hi Lạp đi đúng đường nhắm hướng Liên Xô để lấy khí đốt; chỉ chừng một hay hai phút sau khi chúng đụng nhau, xăng rò từ chiếc tàu Nam Tư tràn ra mặt biển, phát nổ dữ dội đến nỗi cả thành phố đều nghe thấy. Hoặc bởi vì các thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của họ đã rời khỏi con tàu, hoặc là họ đã chết cùng vụ nổ, thành ra cả hai con tàu đều không có người lái, bắt đầu loạng choạng, lắc la lắc lư, chúi vào những dòng nước mạnh mẽ, bí ẩn, và những vùng xoáy; xoay trái xoay phải, chúng biến thành hai trái banh lửa đe dọa Kanlɪca, các yalι ở Emirgân, và Yeniköy, những kho xăng dầu ở Çubuklu, và những căn nhà bằng gỗ chạy dài theo bến cảng Beykoz. Những bến cảng mà ngày nào Melling đã từng miêu tả như là thiên đàng hạ giới và A. Ş. Hisar gọi là Văn minh Bosphorus, tất cả đều nằm trong biển lửa và khói.

Ở chỗ nào mà hai trái banh lửa tiến đến quá gần bờ, mọi người túa ra khỏi các yalι, những căn nhà gỗ, quần áo chăn mền một tay, con nhỏ một tay, chạy càng xa mặt biển chừng nào được chừng đó. Khi chiếc tàu Nam Tư lạng từ bờ Á qua bờ Âu của con vịnh, nó đụng vô chiếc Tarsus, một chiếc tàu chở hành khách Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang bỏ neo tại İstinye, và chẳng phải đợi lâu, chiếc tàu này bèn bốc lửa. Khi những con tàu cháy đùng đùng dạt quá Beykoz, đám đông ôm chăn mền quần áo, mặc áo mưa che bộ quần áo mặc hối hả trong đêm, chạy lên những ngọn đồi. Mặt biển rực sáng với ánh lửa màu vàng. Những con tàu chở thành những đống sắt to lớn bị nung chảy đỏ rực, những cột buồm, những ca bin, những chiếc cầu đổ sập xuống, tan vào lửa, khói. Nền trời đỏ rực một thứ ánh sáng như từ bên trong phát ra. Lâu lâu lại có một tiếng nổ lớn làm bắn tung những mẩu gỗ, mẩu sắt xuống biển; từ bờ biển, từ những ngọn đồi, inh ỏi tiếng người la, tiếng trẻ khóc.

Thật đau lòng nhưng cũng thật sáng tỏ khi chiêm ngưỡng thiên đàng của những cây bách, những khóm thông, những khu vườn rợp bóng dâu, ngát mùi kim ngân, mùi hoa judas, cái thế giới bàng bạc trong ánh trăng nơi vào những buổi chiều tối mùa hè, mặt biển lung linh như dát lụa, không khí ngân nga tiếng nhạc, nơi một người đàn ông trẻ tuổi chậm rãi chèo chiếc thuyền qua một mê cung được xây dựng lên bằng những lá thuyền có thể nhì thấy những ánh bạc rớt ra từ đầu hai cây chèo – khi nhìn tất cả tan biến theo các cột khói trong khi những con người trong bộ đồ ngủ khóc lóc, dắt díu nhau chạy ra khỏi các yalιlớn bằng gỗ cuối cùng chưa bị biến thành tro dưới nền trời đỏ rực.

Sau này, khi ngoái nhìn lại, tôi vẫn nghĩ tai họa lớn lao như thế vẫn có thể được ngưng chặn, nếu tôi đừng lơ là đếm tàu. Cảm thấy tội lỗi đầy mình, tôi nghĩ, mình không có quyền bỏ chạy, mà phải ở gần những con người đáng thương kia, phải được tận mắt chứng kiến nỗi đau của họ. Sau này, như rất nhiều người dân Istanbul khác, tôi còn gần như đi đến chỗ cầu mong tai họa, và lòng ước muốn này càng khiến cho tôi cảm thấy tội lỗi hơn khi tai họa kế tiếp xảy tới.

Ngay cả Tanpɪnar – người có những cuốn sách đem đến sự hiểu biết sâu xa nhất về chuyện sống trong một xứ sở Tây phương hóa một cách mau lẹ, giữa những điêu tàn đổ nát của văn hóa Ottoman, điều đó có nghĩa gì, và ông cũng chỉ ra bằng cách nào mà con người ta, thông qua ngu ngốc và tuyệt vọng, sau cùng tự cắt mọi dây mơ rễ má với quá khứ - cũng thừa nhận rằng ông cảm thấy thích thú khi nhìn một biệt thự cổ bằng gỗ cháy rụi, và trong Năm thành phố, ở phần viết về Istanbul, ông tự so sánh mình, như Gautier đã từng làm, với bạo chúa Nero. Quái dị hơn, chỉ vài trang sách trước đó, Tanpɪnar nghẹn ngào viết: “Cái nọ tiếp cái kia, những tuyệt phẩm mà tôi nhìn thấy trước mắt tôi cứ thế tan rã ra, như những cục muối bỏ vô nước, cho tới khi những gì còn lại chỉ là một mớ tro than và cát bụi.

Tanpɪnar viết những dòng trên vào thập niên 1950, khi ông sống tại Tavuk-Uçmaz khu Cihangir, con phố mà tôi từng sống khi đếm chiến hạm Liên Xô nói trên. Cũng từ đó, ông ngắm đám cháy đã thiêu hủy tòa lâu đài bên bờ biển của Công nương Sabiha, và tòa nhà bằng gỗ đã từng được sử dụng làm Nghị viện Ottoman và sau là Viện Bảo tàng Mỹ thuật, nơi ông là giảng sư. Đám cháy hung hãn kéo dài một tiếng đồng hồ, mỗi lần nổ lớn lại tỏa một trận mưa miểng lửa và “với những cột lửa, cột khói bốc lên nền trời, có cảm giác tưởng như Ngày Phán xét là đây.” Có lẽ ông cảm thấy sự cần thiết phải làm hòa niềm vui sướng của ông khi chiêm ngưỡng đám cháy, với nỗi tuyệt vọng khi phải chứng kiến một trong những tòa nhà đẹp đẽ nhất từ triều đại Mahmud II bị hủy diệt, mang theo cùng với nó nhiều bộ sưu tập vô giá (trong đó có bộ sưu tập của kiến trúc sư Sedad Hakkɪ, gồm những bộ hồ sơ lưu và bản vẽ thiết kế tỉ mỉ các công trình Ottoman được cho là số một thời của ông), vì sau đó ông kể cho chúng ta nghe các pasha Ottoman cũng có niềm thích thú tương tự khi ngắm nhìn những đám cháy lớn lao trong thời của họ. Nghe ai đó la lên “Cháy, cháy!” thế là họ nhảy vội lên xe ngựa phóng thẳng tới hiện trường, một tội lỗi dị kỳ, Tanpɪnar trong một cảm giác phạm tội kỳ quặc kể cho chúng ta nghe hành trang mà họ mang theo để chống lại cái lạnh lẽo của đêm tối: mền, khăn lông, và – nếu họ trông chờ trận cháy này sẽ kéo dài – bếp lò cùng xoong nồi để nấu cà phê và hâm nóng đồ ăn.

Không chỉ có các pasha, đám hôi của, trộm cắp, và trẻ con chạy đi coi những đám cháy của Istanbul: các nhà văn du lịch Tây phương cũng không cưỡng lại được cái thú quan sát và miêu tả chúng. Một trong những nhà văn này là Théophile Gautier, người chứng kiến năm vụ cháy trong vòng hai tháng ông ở tại đây vào năm 1852, và miêu tả tất cả một cách chi tiết đến tuyệt vời. (Ông đang ngồi tại nghĩa địa Beyoğlu để làm thơ thì nghe tin đám cháy đầu tiên.) Ông thích các đám cháy bộc phát vào ban đêm hơn, vì như vậy ngắm đã hơn. Ông miêu tả cái “cảnh tuyệt diệu” của muôn vàn ngọn lửa bùng lên từ một nhà máy sơn ở Mũi Vàng, và con mắt họa sĩ của ông không bỏ qua từng chi tiết chi li của đám cháy: những cái bóng của con tàu nhảy nhót trên mặt biển, những đốm lửa vỡ ra, chuyển động của những đám người hiếu kỳ, những ngôi nhà gỗ bén lửa bùng lên. Sau đó, ông quay lại chỗ đám cháy, chứng kiến cảnh hàng trăm gia đình cố gắng vật lộn với cuộc sống, trong những căn lều được dựng lên chỉ trong hai ngày, giữa những mùng mền, chiếu gối, xoong chảo, tất cả những gì họ giật lại được từ bà hỏa; sau khi biết được rằng họ chấp nhận rủi ro của mình như là số phận, ông cảm thấy ngỡ ngàng trước một thói quen lạ lùng của những người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù những đám cháy thì rất nhiều, và xảy ra thường xuyên suốt năm trăm năm của Đế quốc Ottoman, phải tới thế kỷ mười chín người dân thành phố mới bắt đầu sửa soạn cho tai ương. Các cư dân của những căn nhà bằng gỗ trên những con phố chật hẹp của Istanbul không nghĩ các đám cháy là những tai ương có thể tránh khỏi, thành thử họ không có cách nào khác ngoài chuyện đối mặt với chúng. Ngay cả nếu Đế quốc Ottoman không sụp đổ thì những trận cháy hoành hành trong toàn thành phố ở những năm đầu của thế kỷ hai mươi – thiêu hủy hàng ngàn căn nhà, toàn bộ nhiều khu dân cư, những mảng rộng lớn của thành phố, khiến cho hàng ngàn con người không còn nhà cửa và tiền bạc – cũng sẽ lấy đi sức mạnh và để lại rất ít thứ ngõ hầu nhắc nhở chúng tôi về các vinh quang trong quá khứ.

Nhưng với những người trong số chúng tôi, đã từng nhìn thấy các yalι cuối cùng của thành phố, những biệt thự, những khu nhà gỗ bị thiêu rụi vào thập niên 1950 và 1960, nỗi thích thú chúng tôi có được bắt nguồn từ một trạng thái tinh thần khác hẳn các pasha thời kỳ Ottoman, những người thuần túy thưởng thức cảnh tượng; niềm thích thú của chúng tôi còn bao gồm cảm giác tội lỗi, mất mát, và ghen tức, trước sự hủy diệt bất thình lình những dấu vết cuối cùng của một nền văn hóa lớn và một nền văn minh lớn mà chúng tôi không xứng hợp hay chưa được sửa soạn để mà thừa hưởng, trong khi chúng tôi điên cuồng biến Istanbul thành một thành phố hạng hai bắt chước một đô thị Tây phương, nhợt nhạt, nghèo đói.

Vào thời thơ ấu và trai trẻ của tôi, bất cứ khi nào một trong những yalι ở khu vịnh Bosphorus bốc cháy, là đám đông lập tức ùa tới vây quanh, những người muốn có một cách nhìn thật gần thì dùng ghe, thuyền máy, để nhìn nó từ phía biển. Bạn bè tôi và tôi thì lập tức điện thoại cho nhau, rồi nhảy vội vô xe, chạy ra Emirgân, thí dụ vậy, đậu xe ngay bên vệ đường, mở máy nghe nhạc (mốt thời thượng lúc đó), và nghe Creedence Clearwater Revival, gọi trà, bia và bánh nướng phết phó mát từ một tiệm ngay kế đó, trong khi ngắm những ngọn lửa huyền bí bốc lên từ bên bờ Á châu của con vịnh.

Chúng tôi kể những câu chuyện xảy ra trong quá khứ, thí dụ như chuyện những cái đinh sắt từ những căn nhà đang bốc cháy đó bắn tung lên bầu trời Á châu như những tia lửa, rồi cứ thế bay qua vịnh Bosphorus châm lửa vào những ngôi nhà gỗ ở bên bờ Âu châu. Chúng tôi còn ba hoa đủ thứ chuyện vừa mới xảy ra, chuyện tình yêu, tin đồn chính trị, tin tức thể thao, và ca cẩm đủ thứ chuyện ngu si đần độn mà cha mẹ chúng tôi đã gây ra. Quan trọng nhất là, giá như có một chiếc tàu tối om chạy qua căn nhà đang cháy, thì cũng chẳng ai thèm để ý đến, chưa nói gì tới chuyện đếm: Tai ương đã xảy ra rồi, đếm làm gì nữa? Khi ngọn lửa lên đến cao trào và phạm vi thiệt hại đã rõ ràng, tất cả chúng tôi đều im lặng, và tôi có thể tưởng tượng ra được rằng đứa nào cũng đang nghĩ tới một tai ương đặc biệt của riêng nó, đang rình rập ngay phía trước.

Nỗi sợ sệt một tai ương mới, một tai ương mà mọi người sống ở Istanbul đều biết là sẽ tới từ vịnh Bosphorus: Tôi nghĩ nhiều về điều này khi nằm trên giường. Vào lúc ban mai, tiếng còi của một con tàu sẽ đánh thức tôi. Và nếu nghe thêm một tiếng còi thứ nhì – dài, sâu và mạnh đến mức dội tiếng lại từ những ngọn đồi xung quanh – tôi sẽ biết ngay là mặt biển lúc đó đầy sương mù. Vào những đêm có sương mù, cách quãng thật đều đặn, tôi còn nghe được tiếng còi ầm ì từ ngọn hải đăng Ahɪrkapɪ, nơi vịnh Bosphorus mở vào với Biển Marmara. Trong khi tôi lơ mơ ngủ như thế, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh một con tàu lớn đang gắng hết sức tìm ra đường đi qua những dòng nước phản trắc.

Con tàu này thuộc về nước nào, nó to lớn ra làm sao, nó chở hàng gì? Có bao nhiêu người ở trên boong cùng viên hoa tiêu, và tại sao họ lại lo lắng đến vậy? Con tàu của họ bị mắc vô dòng nước, hay là họ đụng một khối đen từ sương mù ló ra ngay trước mũi? Hay là họ đóng còi để báo động cho những con tàu kế cận, khi đi lệch con đường được chỉ định, hay lạc tay lái? Khi nghe tiếng còi tàu mà đang nằm trên giường, nửa thức nửa ngủ, sự thương hại mà người dân Istanbul dành cho con tàu và thủy thủ đoàn nhập vào nỗi sợ sệt tai ương để tạo ra một giấc mơ đáng sợ về việc mọi chuyện sẽ rất tồi tệ trên vịnh Bosphorus. Vào những ngày mưa bão, mẹ tôi thường nói: “Cầu Chúa giúp đỡ họ ở ngoài biển kia, vào những lúc như thế này!” Mặt khác, phương thức thần diệu nhất cho những người đêm khuya giật mình thức dậy là một tai ương quá xa không làm sao chạm được tới cuộc sống của riêng họ. Trong số những người đêm khuya giật mình thức dậy ở Istanbul, phần lớn dỗ lại giấc ngủ bằng cách đếm những tiếng còi tàu. Và có lẽ trong giấc ngủ say nồng tiếp theo sau đó, họ mơ họ đang ở trên một con tàu đi giữa sương mù dày đặc và đang ở bên bờ tai ương.

Cho dù có mơ mộng như thế nào thì hầu hết sáng hôm sau cũng sẽ thức giấc mà chẳng còn nhớ là đã nghe thấy những tiếng còi trong đêm; những cơn ác mộng thường rời bỏ chúng ta theo kiểu như vậy. Chỉ những đứa trẻ, và những người lớn trẻ con là còn nhớ được những sự việc kiểu đó. Và rồi, giữa một ngày bình thường nào đó, trong lúc bạn đứng xếp hàng tại bưu điện, tại tiệm bánh nướng, hay đợi ăn trưa, một người nào đó bỗng nói bâng quơ, “Tối qua có tiếng còi báo sương mù đánh thức tôi ra khỏi một giấc mơ.”

Đó chính là lúc tôi biết rằng có hàng triệu người sống trên các ngọn đồi quanh vịnh Bosphorus bị ám ảnh bởi cùng một giấc mơ, vào những đêm sương mù.

Còn có điều khác nữa ám ảnh những người như chúng tôi, sống ở bờ biển, và chuyện này mắc mớ tới một tai nạn khác cũng không sao xóa ra khỏi trí nhớ, như vụ con tàu lớn chở dầu phát hỏa trên vịnh Bosphorus. Một đêm, sương mù dày đặc đến nỗi bạn không thể nào nhìn quá mười mét phía trước – chính xác là vào lúc bốn giờ sáng ngày 4 tháng Chín năm 1963 – một con tàu chở hàng trọng tải 5.500 tấn của Liên Xô đang mang vũ khí sang Cuba thì đâm vào bóng tối của Baltɪliman sâu tới mười mét và phá sập hai căn yalι bằng gỗ, làm chết ba người.

“Chúng tôi bị đánh thức bởi một tiếng động khủng khiếp, và nghĩ yalιbị sét đánh trúng; nhà bị bể ra làm hai. Nhờ may mắn mà chúng tôi thoát chết. Khi chúng tôi túm tụm được với nhau và mò vào phòng khách ở tầng ba thì thấy sờ sờ ngay trước mắt một con tàu khổng lồ.”

Báo chí phụ thêm vào những lời kể của những kẻ sống sót bằng hình về con tàu ở nơi phòng khách: Trên tường là bức chân dung của người ông pasha của họ; ngự trên cái tủ tường là một đĩa nho. Bởi vì một nửa căn phòng đã biến mất cùng với cú đụng độ, tấm thảm lót sàn rủ xuống giống như bức màn cửa, gió thổi bay lất phất, và ngay đó, ở giữa những bàn, tủ, bức thư họa lộng kính, chiếc đi văng lật ngửa, là cái mũi tàu chết chóc. Điều làm những bức hình này mang vẻ bí hiểm và khiến người coi cảm thấy ghê rợn là đồ đạc ở trong căn phòng khách đó – bàn, ghế, tủ, sofa – giống y chang đồ đạc ở trong phòng khách của chúng tôi. Khi đọc lại tin tức của ba mươi năm về trước về một cô nữ sinh trung học trẻ đẹp vừa mới đính hôn bị chết trong tai nạn ấy – những điều cô gái nói đêm hôm trước khi xảy ra tai nạn với những người sống sót, nỗi buồn đau của người thanh niên lối xóm tìm thấy xác cô gái giữa đống vụn nát – tôi nhớ là trong suốt nhiều ngày cả thành phố không còn nói đến chuyện gì khác nữa.

Vào thời gian đó, dân số Istanbul không phải mười triệu như bây giờ, mà chỉ một triệu. Những tai nạn mà người dân trải qua không giống như các tai ương bình thường, trong một thành phố sôi động nơi con người biến mất vào trong đám đông, mà là những câu chuyện kể của lối xóm và chúng cứ thế lan rộng mãi ra bằng cách truyền miệng, rỉ tai. Khi nói với nhiều người rằng tôi đang viết về Istanbul, tôi ngạc nhiên khi nghe họ nói với tôi bằng một giọng hoài nhớ, khi câu chuyện chuyển qua những tai ương thảm họa đã từng xảy ra trong quá khứ Bosphorus. Mắt họ đều rơm rớm,như thể họ đang nhớ về những kỷ niệm êm đềm, những quãng đời hạnh phúc nhất của họ, và có người còn năn nỉ tôi hãy nhắc tới những tai ương thảm họa ưng ý nhất của họ.

Chính là để thỏa mãn một trong những đòi hỏi như vậy mà tôi bắt buộc phải ghi lại, vào tháng Bảy năm 1966, nếu tôi không nhầm, một chiếc thuyền máy chở các thành viên của Hội Thân hữu Thổ-Đức đã đụng với một chiếc tàu khác chở gỗ, ở giữa Yeniköy và Beykoz làm ba người rớt xuống vùng nước tối thui của Bosphorus mà chết.

Tôi còn được yêu cầu nhắc đến chuyện một người quen biết của tôi, trong khi đứng ở bao lơn của tòa yalι của mình, vào một đêm đếm tàu nhẫn nhục như thường lệ, thì ngay trước mắt anh ta, một thuyền đánh cá bị chiếc tàu chở hàng hóa của Romania, chiếc Ploiesti, chẻ ra làm đôi.

Về phần những tai ương mới hơn, có một con tàu chở hàng của Romania (chiếc Indepente) đã đụng với một chiếc tàu khác (một tàu Hy Lạp tên là Euryadi), ngay trước Haydarpaşa (ga xe lửa chính của thành phố Á châu), và khi xăng bị rò rỉ ra bắt lửa, con tàu chở đầy xăng đã nổ tung, tiếng nổ lớn đến nỗi làm tất cả chúng tôi thức giấc – tôi hứa không bỏ qua tai nạn này. Và tôi đã không quên, vì có lý do để không quên: Mặc dù chúng tôi sống xa nơi xảy ra tai nạn hàng chục dặm, một nửa kính cửa sổ nhà khu vực chúng tôi ở bị bể vì tiếng nổ, và mặt đường đầy mảnh vụn của chúng.

Còn có vụ chiếc tàu chở cừu. Vào ngày 15 tháng Mười một năm 1991, chiếc tàu chuyên chở súc vật của Lebanon tên là Rabunion, chở trên hai chục ngàn con cừu, từ Romania tới, đã đụng với chiếc Madonna Lili, một loại tàu chở hàng đăng ký cờ Philippin, tàu này chở lúa mì từ New Orleans tới Nga; tàu chìm, mang theo cùng với nó hầu như toàn bộ số cừu nói trên. Những người chứng kiến kể lại là có một vài con nhảy được ra khỏi tàu và cố bơi vô bờ, và được mấy người khách ngồi uống cà phê, đọc báo tại một quán gần đó cứu sống, số còn lại của hơn hai chục ngàn con cừu vẫn còn chờ một người nào đó ra tay nghĩa hiệp cứu vớt ra khỏi vực nước.

Cú đụng tàu xảy ra ngay bên dưới cây cầu Fatih, cây cầu thứ nhì của vịnh Bosphorus. Nhưng dân thành phố thường lựa chọn cây cầu thứ nhất để nhảy xuống biển tự tử.

Trong khi viết cuốn sách này, tôi có bỏ ra chút ít thời gian mò vô thư viện lục lọi những tờ nhật báo mà tôi đã từng đọc khi còn là một đứa trẻ, và trên một tờ ra mắt độc giả vào quãng thời gian tôi sinh ra, tôi kiếm thấy nhiều bài viết về một hình thức khác của tự tử, phổ thông hơn nhiều so với nhảy cầu xuống vịnh Bosphorus. Thí dụ:

Một chiếc xe hơi chạy qua Rumelihisan đã chạy luôn xuống biển. Hôm qua [24 tháng Năm, 1952], cuộc tìm kiếm dài đã kể như thất bại, không làm sao cứu vớt được cái xe hơi nói trên và các hành khách của nó. Khi chiếc xe bắn mình xuống biển cả, nghe nói là tài xế đã mở được cửa xe và la lên, “Cứu, cứu!” nhưng không hiểu vì lý do gì, anh ta lại đóng cửa xe vào, và bằng lòng chết cùng chiếc xe. Những dòng nước ngầm đã đẩy chiếc xe ra khỏi bờ, tới những vùng nước sâu, có thể như vậy, cho nên không làm sao kiếm thấy xe và những hành khách trong đó.

Và đây là một bài viết khác, bốn mươi lăm năm sau đó, ngày 3 Tháng Mười một năm 1997:

Trên đường trở về nhà sau khi tham dự một đám cưới, một chiếc xe hơi tính ghé Tellibaba để dâng lễ, và người tài xế, do say rượu, lạc tay lái, để chiếc xe hơi lao xuống biển Tarabya, cùng với chín người ngồi trong xe, trong có một phụ nữ là mẹ của hai đứa nhỏ.

Tuy nhiều xe hơi đã bay xuống vịnh Bosphorus, nhưng câu chuyện lúc nào cũng giống nhau: Các hành khách của xe đều lọt xuống những vùng nước sâu thẳm nhất của vịnh, và không ai quay trở về. Không phải tôi chỉ nghe, đọc, mà còn chính mắt chứng kiến một vài người xuống dưới đó, rồi không trở về! Cho dù là hành khách là ai – những đứa bé la hét; một cặp tình nhân đang cãi cọ; một băng nhậu xỉn quắc cần câu; một ông chồng vội vàng về nhà; một ông già không nhìn thấy đường do trời tối thui; một tài xế ngủ gật ngưng xe tại bến tàu để uống trà với bạn bè, và, thay vì đạp số de lại nhấn số tới; Şefik, một người thủ quỹ già với cô nữ thư ký xinh đẹp của mình; một ông cảnh sát mải đếm tàu qua vịnh Bosphorus; một ông tài xế tập tọng, đưa gia đình đi dạo chơi, trên chiếc xe hơi mượn đỡ của xưởng mà không xin phép; một ông chuyên sản xuất vớ ni lông, tình cờ lại là người quen biết với một bà con xa của gia đình chúng tôi; một ông bố và người con trai mặc áo mưa y hệt nhau; một tay găngxtơ nổi tiếng ở Beyoğul cùng với người yêu; một gia đình người Konya lần đầu tiên nhìn được nhìn thấy những cây cầu Bosphorus – thì khi những chiếc xe lao xuống nước, chúng cũng không bao giờ chìm nghỉm ngay như một tảng đá. Có cảm giác như chúng ở lại trên mặt nước trong một khoảng thời gian ngắn. Đó có thể là ban ngày, hoặc ban đêm, nhưng có ánh đèn ló ra từ một meyhane gần đó, và khi những con người ở phía bờ sự sống của vịnh Bosphorus nhìn vào mặt những con người sắp sửa bị biển cả nhận chìm, họ nhìn thấy một nỗi sợ hãi đầy hiểu biết. Chỉ một thoáng sau, chiếc xe chìm dần xuống biển cả sâu thẳm, tối đen, đang lồng lộn ở ngoài mãi tít xa kia.

Có lẽ tôi cũng nên nhắc nhở độc giả rằng một khi xe hơi chìm, không thể nào mở cửa được, do sức ép của nước đè lên cửa xe. Một dạo, khi bỗng có quá nhiều xe hơi bay xuống vịnh Bosphorus, một ký giả tinh tế và rất có đầu óc, do muốn nhắc nhở độc giả về vấn đề này, đã làm một việc khá thông minh: Ông cho in một cuốn sách hướng dẫn sống sót, đi kèm với những hình minh hoa rất đẹp:

LÀM THẾ NÀO ĐỂ THOÁT RA KHỎI MỘT CHIẾC XE HƠI RỚT XUỐNG VỊNH BOSPHORUS

1. Đừng hốt hoảng. Đóng cửa sổ xe, và đợi cho chiếc xe ngập đầy nước. Bảo đảm cửa xe không khóa. Bảo đảm hành khách không nhốn nháo, ai ngồi đâu ngồi đó.

2. Nếu xe tiếp tục chìm xuống đáy vịnh Bosphorus, kéo thắng tay của xe.

3. Một khi nước sắp sửa ngập tới trần xe, hít thật mạnh lần cuối mớ không khí còn lại trong xe, rồi không hoảng loạn, từ từ mở cửa xe, và chuồi ra bên ngoài.

Tôi tính thêm vô một chỉ dẫn số bốn: Nếu Trời thương, áo gió của bạn sẽ không bị móc vào thắng tay của xe.

Nếu biết bơi và ngoi được lên mặt nước, bạn sẽ nhận ra môt điều là, mặc dù mọi chuyện buồn bã đến chết người như thế, Bosphorus đẹp vô cùng, chẳng thua gì cuộc đời.