← Quay lại trang sách

Chương 23 Nerval ở Istanbul:-Những cuộc đi dạo ở khu Beyoğlu

Nhiều chi tiết trong một số tranh của Melling làm tôi sững sờ. Họa sĩ đã thấy và đang trình bày những ngọn đồi Istanbul nơi sẽ mọc lên những đường, phố, nhà cửa, khu thị, những gì là khuôn viên toàn bộ ấu thời và cuộc hiện diện của tôi trên cõi đời này, khi chúng mới trinh nguyên làm sao, chưa hề biết tới dân cư đông đúc, chưa hề có xây dựng kiến trúc gì. Khi nhìn thấy, ở góc các bức tranh này, với chiếc kính lúp cầm trên tay, những nơi trên này sẽ có tên Yɪldɪz, Maçka hay Teşvikiye hồi chúng chưa có người mà chỉ có cây: những hàng sổi, tiêu huyền, những vườn rau, tôi thử tưởng tượng những người dân Istanbul cùng thời với Melling sẽ nghĩ ra sao khi họ biết các thế hệ sau này đã làm gì với thiên đàng của họ, và tôi cảm thấy mình cũng đau đớn như họ khi nhìn những khu vườn hoang tàn, những bức tường đổ nát, những mái vòm, những gì còn lại của các tòa biệt thự bị lửa thiêu hủy. Việc khám phá ra rằng những nơi chốn mà chúng ta, từ khi còn rất nhỏ, coi là trung tâm điểm của thế giới của riêng chúng ta, điểm xuất phát của mọi tri thức (một trăm năm trước khi tôi ra đời), không thể hiện hữu, tạo nên kinh ngạc và cú sốc không thể nào chịu nổi, chẳng khác gì một hồn mà nhìn lại cuộc đời mà nó bỏ lại phía sau. Đó là cái rùng mình kinh ngạc khi phải đối mặt với thời gian, và ngộ ra điều người xưa gọi là tuồng ảo hóa đã bày ra đấy.

Cũng sững sờ, bàng hoàng như vậy, là cảm giác của tôi khi đọc một số trang, trong cuốn Du ngoạn tới Đông phương, phần viết về Istanbul, của Gérard de Nerval. Nhà thơ Pháp tới Istanbul vào năm 1843, một nửa thế kỷ sau khi Melling vẽ những bức họa của ông, và trong cuốn sách của mình, ông nhớ lại cuộc tản bộ từ tu viện Mevlevi ở Galata (năm chục năm sau đổi tên là Tünel), đến khu vực mà bây giờ chúng tôi gọi là Taksim – giống hệt cuộc tản bộ mà một trăm mười lăm năm sau tôi đã làm, khi mới là một đứa bé nắm tay mẹ. Với chúng tôi, khu này bây giờ được gọi là Beyoğlu; vào Con phố Lớn Pera (đổi là İstɪklâl sau khi thành lập nền Cộng hòa), ở ngay trung tâm khu vực, trông vẫn không khác gì so với năm 1843. Nerval tả là cái đại lộ từ tu viện Mevlevi trổ ra giống như ở Paris: những tiệm quần áo thời trang, tiệm giặt ủi, tiệm nữ trang, những đường khung cửa kính bày biện hàng hóa sáng choang, những cửa hàng bánh kẹo, những khách sạn Anh và Pháp, những quán cà phê, những tòa đại sứ. Nhưng, quá nơi mà nhà thờ Pháp gọi là Bệnh viện Pháp (bây giờ là Trung tâm văn hóa Pháp), thành phố chấm dứt một cách thật ngỡ ngàng, đáng sợ, theo tôi. Bởi vì nơi hiện tại là Quảng trường Taskim, trung tâm cuộc đời của tôi, và là quảng trường lớn nhất ở khu này của thành phố, lòng vòng quanh nó là nơi tôi sống suốt cả cuộc đời của mình, được miêu tả như một khu đất rộng lớn, nơi tụ tập của những chiếc xe ngựa, những người bán thịt viên, bán dưa hấu, và bán cá. Ông còn nói tới các nghĩa địa nằm rải rác trên cánh đồng chạy quá phía trên; một trăm năm sau, tất cả đều không còn. Nhưng có một câu văn của Nerval mà tôi không bao giờ quên nổi, khi ông tả nơi mà trọn đời, tôi chỉ biết như một dải đất gồm những tòa nhà cũ, là “một đồng cỏ bát ngát rợp bóng thông và sung.”

Nerval đến Istanbul khi ông ba mươi lăm tuổi. Hai năm trước đó, ông trải qua những sa sút tinh thần đầu tiên cuối cùng sẽ khiến ông treo cổ tự tử mười hai năm sau đó, sau khi ở một số nhà an dưỡng dành cho bệnh nhân tâm thần. Sáu tháng trước khi ông tới đây, nữ nghệ sĩ Jenny Colon, tình yêu lớn đơn phương của ông ấy, mất. Du lịch Đông phương, đưa ông từ Alexandria và Cairo tới Cyprus, Rhodes, Izmir và Istanbul, mang đậm dấu ấn những buồn đau ấy, cùng những giấc mơ hương xa cỏ lạ Đông phương mà những Chateaubriand, Lamartine và Hugo đã nhanh chóng làm cho trở thành thành một truyền thống lớn lao của nước Pháp. Như những nhà văn trước ông, ông ao ước miêu tả Đông phương, và bởi vì Nerval được đồng nhất với nỗi buồn ở trong văn chương Pháp, chúng ta có thể cho rằng ông đã tìm thấy nỗi buồn ấy ở Istanbul.

Khi Nerval tới Istanbul vào năm 1843, ông thực sự ít quan tâm đến nỗi buồn của mình, mà mê mẩn với những sự vật giúp ông quên được nó. Trong một lá thư gửi cho ông thân sinh, ông thề với cha là cuộc điên khùng hai năm trước khiến ông phải đi an dưỡng và sẽ không bao giờ trở lại, điều này còn để “chứng tỏ với mọi người rằng vụ đó chỉ là một tai nạn bất ngờ”; và ông viết thêm, giọng đầy hi vọng, rằng sức khỏe của ông hiện rất tốt. Chúng ta có thể nghĩ một điều, tuy ngắc ngoải vì bại trận, nghèo khổ, và nhục nhã vì bị Tây phương coi là yếu xìu, nhưng Istanbul chưa vội vàng phô cho nhà thơ Pháp thấy nỗi buồn của nó. Chúng ta đừng quên là cái màu ảm đạm u ám chưa đáp thẳng xuống thành phố, mà phải đợi những lần thất trận lớn lao sau đó. Đây đó trong cuốn sổ du lịch, Nerval thông báo ông nhìn thấy ở Đông phương điều mà sau này trong một bài thơ nổi tiếng nhất của mình ông gọi là “mặt trời đen của nỗi buồn” – thí dụ, về những bến bờ của sông Nile. Nhưng tại Istanbul giàu sang xa lạ của năm 1843, ông đang là một ký giả hăm hở tìm tòi nguyên liệu ròng.

Ông tới thành phố đúng vào tháng Ramanda. Dưới mắt ông, điều này chẳng khác gì tới Venice để dự lễ carnevale. (Ông tả Ramanda là nhịn đói và carnival.) Nerval trải qua những đêm Ramanda bằng cách đi xem trình diễn kịch bóng Karagöz, nhìn ngắm thành phố dưới ánh đèn lồng, và đi tới tiệm cà phê nghe những tay chuyên nghề kể chuyện trước công chúng. Cái cảnh tượng mà ông miêu tả sẽ tạo cảm hứng cho nhiều khách du lịch Tây phương nối gót chân ông; một thế kỷ sau, vì khoa học kỹ thuật hiện đại, vì quá trình Tây phương hóa và sự nghèo nàn gia tăng, những gì đã được miêu tả bị người Istanbul lãng quên đi, nhưng rồi các nhà văn Istanbul bắt đầu viết rất nhiều về “Những đêm Ramanda cổ xưa.” Ở dưới nền của văn chương này, mà tôi đọc với niềm hoài nhớ cái lần chính tôi nhịn ăn, là hình ảnh một thành phố Istanbul mắc nợ rất nhiều ở tính chất hương xa cỏ lạ, đầu tiên là do Nerval thiết kế, rồi sau đó là các nhà văn du lịch Tây phương ảnh hưởng bởi Nerval. Mặc dù ông chọc quê mấy nhà văn Anh tới Istanbul chỉ để ở ba ngày, đi thăm viếng hết những “danh lam thắng cảnh,” rồi sau đó liền lập tức ngồi xuống bàn viết một cuốn sách, Nerval cũng không hề lơ là trong việc tham quan, ông đã đi coi những thầy tu Hồi giáo cầu nguyện, nhìn từ xa cảnh sultan rời hoàng cung (ông khăng khăng kể rằng mắt Abdülmecit có đụng mắt ông), ông còn làm nhiều chuyến tản bộ đi thăm viếng các nghĩa địa, vừa đi thăm vừa trầm ngâm về cách ăn mặc, quần áo, phong tục và nghi lễ Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong cuốn Aurelia, hay là cuộc đời và mộng mơ, một thứ tự thuật với nét đặc dị, mà ông so sánh với cuốn Đời mới của Dante, được đám nhà văn siêu thực như André Breton, Paul Éluard và Antonin Artaud rất ái mộ, Nerval thú nhận, sau khi bị người đàn bà mà ông yêu hắt hủi, ông quyết định, đời chẳng còn gì đáng sống ngoài dăm ba trò “giải trí tầm phào,” và ông sẽ chọn trò giải trí nhảm nhí du lịch năm châu bốn biển, chỉ để nhìn cách ăn mặc, quần áo, và những phong tục khác thường của các xứ sở xa lạ. Ý thức được khía cạnh phiến diện, dễ dãi, tóm gọn và sơ sài trong những tường thuật về phong tục, quang cảnh và đàn bà Đông phương, các ghi nhận về đêm hội Ramanda thì rẻ tiền và thô lỗ, trong Du lịch Đông phương – như rất nhiều nhà văn đã từng làm khi cảm thấy cách kể chuyện của họ mất đi sức sống động – Nerval thêm vào đó những câu chuyện dài của riêng ông, do ông bịa ra, để bù vào chỗ trống. (Trong một bài viết dài về các mùa ở thành phố cho Istanbul, một cuốn sách viết chung với những ông bạn văn buồn của mình là Yahya Kemal và A. Ş. Histar, Tanpɪnar cho biết ông đã dành rất nhiều công sức để tìm hiểu, trong những câu chuyện của Nerval đó, chuyện nào do ông tưởng tượng, chuyện nào thực sự Ottoman). Những câu chuyện do Nerval bịa ra cho thấy quyền năng sâu thẳm của trí tưởng tượng ở ông, nhưng lại ít nói cho chúng ta biết về Istanbul, chúng tạo một khuôn khổ theo lối Sheherazade. Sự thực, mỗi khi cảm thấy một bức tranh của mình không đủ sức quyến rũ, Nerval lại nhắc nhở người đọc rằng thành phố “giống như Ngàn Lẻ Một Đêm”; sau khi giải thích rằng tại sao ông “không cần phải bàn luận về hoàng cung, những thánh đường, những bãi tắm, những hamam… đã từng được rất nhiều nhà văn khác nói đến quá nhiều,” ông đưa ra một nhận xét sẽ được những nhà văn như Yahya Kemal và Tanpɪnar lặp lại y chang sau đó một thế kỷ, và các nhà du lịch Tây phương biến thành một sáo ngữ: “Vẻ bên ngoài của nó thuộc loại đẹp nhất thế giới nhưng người ta có thể chê trách […] sự nghèo nàn của một số khu phố và sự bẩn thỉu của rất nhiều khu phố khác” trước khi so sánh thành phố với “một cảnh trí sân khấu, mà người ta nên xem trong phòng chứ không nên thăm thú hậu trường.”

Tám mươi năm sau, khi Yahya Kemal và Tanpɪnar sáng tạo ra một hình ảnh của Istanbul, lung linh, rung động ở trong mỗi dân người của nó – một hình ảnh mà họ chỉ có thể tạo ra được, với sự tiếp tay của sự nghèo đói “ở hậu trường” – chắc chắn là họ có Nerval ở trong đầu. Nhưng để hiểu được điều mà hai nhà văn lớn này (cả hai đều mê Nerval) khám phá ra, những gì mà họ bàn luận, những gì họ thêm thắt – để hiểu thế hệ nhà văn Istanbul tiếp theo đã làm thế nào để giản dị hóa và biến sự thêm thắt này trở nên phổ thông, và để hiểu tại sao cách làm của họ không chuyên chở vẻ đẹp của Istanbul nhiều bằng nỗi buồn về sự suy tàn của thành phố - chúng ta phải viện tới tác phẩm của một nhà văn khác, người tới Istanbul sau Nerval.