← Quay lại trang sách

Chương 24 Gautier và những cuộc tản bộ buồn trong thành phố

Théophile Gautier, nhà văn, ký giả, nhà thơ, nhà dịch thuật, và tiểu thuyết gia, là bạn trung học của Nerval. Hai người trải qua thời trai trẻ cùng nhau, cả hai đều mê chủ nghĩa lãng mạn của Victor Hugo, và có một dạo, họ ở rất cận kề nhau ở Paris, và chẳng bao giờ có chuyện sứt mẻ. Một vài ngày trước khi tự tử, Nerval đi thăm bạn, và sau khi Nervaltự treo mình lên một cái cột đèn đường, Gautier viết một bài tưởng niệm rất cảm động về người bạn đã mất của mình.

Hai năm trước đó, năm 1852 (chín năm sau chuyến đi của Nerval và đúng một trăm năm trước khi tôi ra đời), những biến động sau này sẽ khiến nước Nga đối nghịch với Anh, đem nước Pháp đến gần với Đế quốc Ottoman hơn, và mở ra cuộc chiến Crimea lại một lần nữa khiến cho những cuộc du hành về phương Đông trở nên thích thú đối với độc giả Pháp. Khi Nerval mơ tưởng một chuyến đi thứ nhì về phía Đông, thì chính Gautier lại tới Istanbul. (Nhờ tàu hơi nước bắt đầu chạy ở Địa Trung Hải hồi đó, chuyến đi của ông xuất phát từ Paris chỉ còn mười một ngày.)

Gautier ở Istanbul bảy mươi ngày. Lúc đầu, ông viết về chuyến đi cho nhật báo, vì ông là tay chuyên viết fơi-dơ-tông và sau đó, cho in thành sách mà ông đặt tên là Constantinople. Cuốn sách rất phổ thông này được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và được coi là chuẩn mực cho những cuốn sách viết về Istanbul vào thế kỷ mười chín (cùng với cuốn Constantinopoli của Edmondo de Amici, xuất bản tại Milan, ba chục năm sau).

So với Nerval, Gautier tay nghề cao, sắp xếp tốt, và trôi chảy hơn. Chẳng có gì là lạ: Là một người chuyên viết fơi-dơ-tông, một nhà phê bình, và một ký giả phụ trách về nghệ thuật, ông còn viết loại tiểu thuyết từng kỳ cho nhật báo (có lần ông ví mình như nàng Scheherezade bắt buộc mỗi đêm phải bịa ra một chuyện). Do phải viết hằng ngày như thế, Gautier tạo cho mình được tốc độ, và sự sống động (và đây là điều Flaubert chê ông). Nhưng nếu chúng ta bỏ qua những điều đã trở thành sáo mòn, được lặp đi lặp lại đến trơ ra, về các vị sultan, những hậu cung của họ, những nghĩa địa, thì cuốn sách của ông thật tuyệt về mặt phóng sự. Nếu cuốn sách lúc nào cũng ngân nga ở trong đầu Yahya Kemal và Tanpɪnar, giúp họ tạo ra được một hình ảnh về thành phố, ấy là vì Gautier, ngoài tài năng của một ký giả nhà nghề, còn là người biết lắng nghe lời khuyên của Nerval, để tâm tới điều mà bạn ông gọi là “hậu trường,” lặn lội vào những khu phố tối tăm, nghèo khổ, khai phá những điêu tàn đổ nát, những tối tăm, dơ dáy, để chỉ cho độc giả Tây phương hiểu ra rằng, những khu vực nghèo khổ đó quan trọng chẳng thua gì những khung cảnh nguy nga, tráng lệ.

Khi đi dạo quanh đảo Cythera, Gautier nhớ Nerval từng nói về một xác chết mà ông nhìn thấy, được bọc trong bộ quần áo bẩn thỉu, treo lủng lẳng trên một giá treo cổ. (Hình ảnh này, cả hai đều yêu thích, và một trong hai người sau đó đã bắt chước làm theo, và sau này, còn được Baudelaire ứng tác, đưa vô một bài thơ của ông nhan đề “Cuộc hành trình tới Cythera”). Khi tới Istanbul, Gautier, giống như Nerval, vận chiếc “áo dài Hồi giáo” để tản bộ thật thoải mái trong thành phố. Như Nerval, ông tới Istanbul vào mùa lễ Ramanda, và cũng làm theo bạn, miêu tả thật nhiều về những đêm hội. Ông cũng mò tới Üsküdar ngắm những ông thầy tu Rufai cử hành các nghi lễ bí ẩn, dạo chơi nghĩa địa (nơi ông nhìn những đứa trẻ chơi đùa bên các bia mộ), đi coi kịch bóng Karagöz, viếng những cửa hàng, lặn lội trong những khu chợ đông đúc của thành phố, chăm chú theo dõi những khách bộ hành qua lại. Vẫn bắt chước Nerval, ông cố gắng bắt được cái nhìn của sultan Abdülmecit, trên đường ngài đi cầu nguyện vào thứ Sáu. Như hầu hết các nhà du lịch Tây phương, ông cũng đưa ra những lý thuyết của mình về đàn bà Hồi giáo – cuộc sống khép kín, nỗi khốn khó, không làm sao lân la được, và sự bí ẩn của họ (ông khuyên độc giả của mình: chớ, chớ bao giờ hỏi thăm sức khỏe bà xã của bất cứ một ông đàn ông Hồi giáo nào!). Nhưng ông thành thực bảo chúng ta, phố xá thì đầy đàn bà, ngay cả đàn bà đi một mình. Ông bàn dài dài về Cung điện Topkapɪ, các thánh đường, Nhà Hát, và cả những nơi Nerval không nhắc gì tới vì coi là quá nhiều tính chất du lịch. (Tuy nhiên, những địa điểm về đề tài như vậy là những thứ bắt buộc đối với khách du lịch Tây phương, cho nên chúng ta cũng đừng nên quá coi trọng nhận xét của Nerval.) Mặc dù đôi khi tỏ ra cao ngạo, nhưng nói chung Gautier say mê khái quát hóa sự kiện, quan tâm đến chi tiết khác thường, nên thật thích thú khi đọc ông, đấy là chưa kể con mắt hội họa và khả năng mỉa mai tinh tế của ông.

Cho đến khi đọc những bài thơ in trong tập Đông phương của Hugo, vào lúc mười chín tuổi, Théophile Gautier vẫn mơ ước mình sẽ là họa sĩ. Ông rất được thời của ông ngưỡng mộ với tư cách nhà phê bình nghệ thuật. Để miêu tả những cái nhìn và phong cảnh Istanbul, ông sử dụng tới một vốn từ vựng phê bình hội họa chưa từng được ai áp dụng cho Istanbul. Miêu tả bóng dáng của Istanbul, và Mũi Vàng nhìn từ ngọn đồi nơi có tu viện Mevlevi ở Galata (cũng từ chỗ này, Nerval đã từng mô tả thành phố, trước đó chín năm: đây cũng là trạm cuối của đường xe điện Maçka-Tünel, mà khi còn là một đứa bé được mẹ dẫn tới Beyoğlu mua sắm đồ tôi đã từng đi, và bây giờ là quảng trường Tünel), ông cho biết, “Cảnh đẹp đến nỗi có cảm giác cảnh không thực,” rồi ông tiếp tục mô tả những ngọn tháp, những vòm cung ở Hagia Sophia, Beyazit, Süleymaniye, Sultanahmet, những đám mây, những đợt nước của Mũi Vàng, những vườn bách ở Sarayburnu, và, đằng sau chúng, một nền trời “xanh nhạt, dịu dàng đến nỗi không thể nào chịu đựng được,” và những trò chơi ánh sáng giữa chúng – ông miêu tả tất cả những nét đó bằng niềm hân hoan thích thú của một nghệ sĩ ngắm nghía nét tinh xảo của bức tranh do chính mình tạo ra, và bằng sự tự tin của một nhà văn kinh nghiệm đầy mình. Ngay cả độc giả chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này cũng cảm thấy thích thú. Tanpɪnar, nhà văn Istanbul mẫn cảm trước phong cảnh thành phố hơn cả, cái phong cảnh của những thay đổi do “màn trình diễn rộng lớn của ánh sáng,” đã có được cả một bộ từ vựng, một con mắt chuyên về chi tiết, nhờ đọc Gautier. Trong một bài viết hồi Đệ nhị Thế chiến, Tanpɪnar chỉ trích các tiểu thuyết gia khác cùng đàn đúm với ông về việc họ không thèm để ý đến “nhìn” và “mô tả” sự vật xung quanh, và trong khi vinh danh những nhà văn viết bằng con mắt của một họa sĩ như Stendhal, Balzac, và Zola, ông nói thêm, Gautier, chính ông, cũng là một họa sĩ.

Gautier hiểu làm thế nào để chuyển những cái nhìn của ông thành chữ, làm thế nào để chuyên chở những cảm nghĩ, được khơi dậy bởi các đường nét, chi tiết thật đắt, và trò chơi ánh sáng; ông đang ở đỉnh cao quyền năng nghệ thuật của mình khi kể lại những chuyến đi của ông vào “hậu trường.” Trước khi khởi sự các chuyến đi dọc theo những bờ tường của thành phố để ra vùng ngoại vi của nó, Gautier, dựa vào những nhà văn đi trước ông, đưa ra nhận xét rằng cần phải có ánh sáng và điểm nhìn thật rõ ràng thì mới có thể có được những cái nhìn tuyệt vời về thành phố, bởi vì, cũng giống như những dàn dựng trên sàn hát, chúng sẽ mất sự quyến rũ nếu nhìn thật gần: Khoảng cách đem đến cho phong cảnh sự tráng lệ, đồng thời làm nhạt nhòa đi vẻ tiều tụy, u ám, chật hẹp, quá quắt, dơ dáy của những con phố, và những mớ nhà cửa, cây cối hỗn độn, khiến chúng trở thành lung linh màu sắc, nhờ tấm “bảng màu của mặt trời.”

Nhưng con mắt họa sĩ của Gautier còn tìm ra vẻ đẹp buồn bã giữa dơ dáy và hỗn độn. Ông chia sẻ sự hân hoan của văn chương lãng mạn trước những điêu tàn Hy Lạp và La Mã, những cái còn lại của nền văn minh đã biến mất, cho dù ông khinh bỉ sự rạp mình kính sợ. Khi còn trẻ, mơ ước trở thành một họa sĩ, ông nhận ra những căn nhà trống rỗng của ngõ cụt Doyenné, từng được Balzac so sánh với các hầm mộ, và đống đổ nát của nhà thờ Saint-Thomas-du-Louvre (gần điện Lourve, kế bên nơi Nerval từng cư ngụ) thật quyến rũ trước ánh trăng.

Rời khách sạn (ở Beyoğlu bây giờ), và đi bộ xuống Galata, tới những bãi biển Mũi Vàng, rồi vượt cây cầu Galata (được tái xây cất vào năm 1853, một “cây cầu của những con thuyền,” như ông viết), Gautier và anh chàng người Pháp dẫn đường mò mẫm tới Unkapanɪ, khu Tây Bắc; chẳng mấy chốc, họ “lặn vào một mê cung của những ngõ nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ.” Càng đi xa, họ càng cảm thấy bị cô lập, đàn chó đi theo họ mà sủa mỗi lúc một thêm đông. Mỗi lần tôi đọc về những căn nhà gỗ xập xệ, không sơn sửa, tối thui, những vòi máy nước công cộng bị phá bể, những ngôi mộ không chăm sóc, mái đổ nát, và tất cả những gì họ quan sát được trong khi tản bộ như thế, là tôi lại cảm thấy hoang mang, ngỡ ngàng, bởi vì những nơi chốn mà tôi nhìn thấy, trong những lần ngồi trên xe hơi với cha tôi, một trăm năm sau, cũng y chang như vậy, chẳng có gì thay đổi cả, ngoại trừ đường đã rải nhựa. Ấy là vì Gautier, cũng như tôi, đều cho rằng chúng đẹp, thành thử ông ghi nhận cả những căn nhà gỗ ám đen hoang phế, những bức tường đá, những con phố không người, những hàng bách không thể thiếu đối với các nghĩa địa. Khi tôi bắt đầu những chuyến tản bộ của chính tôi tại các khu phố hoang tàn chưa Tây phương hóa như vậy (buồn thay, lửa và xi măng, gạch, vữa chẳng bao lâu sau đó sẽ xóa sạch), giống như Gautier, tôi nhận ra là cảnh vật làm mệt nhoài người nhìn nhưng vẫn cảm thấy sự hối thúc đi “từ đường này tới lối kia, từ quảng trường này qua quảng trường nọ.” Lời kêu gọi cầu nguyện có vẻ đối với ông, cũng như đối với tôi sau này, là nhắm vào những “căn nhà điếc, mù lòa, nằm trong im lặng và cô đơn.” Ông chắc đã nghĩ đến dòng thời gian trôi chảy, khi ngắm nhìn một vài khách bộ hành, một vài sinh vật thoáng qua: một bà già, một con thằn lằn biến mất giữa đám gạch đá, hai hay ba đứa trẻ ném sỏi xuống một bồn nước bể nát (cảnh này làm ông nhớ tới một bức tranh màu nước của Maxime du Camp26, viếng thăm thành phố hai năm trước cùng Flaubert).

Khi cảm thấy đói, ông nhận ra khu này vắng hoe những cửa tiệm và quán ăn, đành ngắt mấy trái dâu tằm từ những hàng cây hai bên đường, chúng đem màu sắc, hương vị đời sống đến cho những con phố ở đây, làm dịu đi vẻ lầm lì của những khối bê tông, ngay từ thời thơ ấu của tôi, và cả năm mươi năm sau, khi tôi đang viết những dòng này. Ông làm quen với không khí làng xã của khu vực lối xóm Hy Lạp Samatya và Do Thái Balat, nơi được gọi là Ghetto Istanbul. Mặt trước của những căn nhà ở Balat đầy vết lở lói, những con phố dơ dáy, bùn bụi, tuy nhiên, khu phố Hy Lạp Fener được chăm sóc trông đỡ hơn. Nhưng bất cứ khi nào nhìn thấy một mảnh tường còn lại từ thời kỳ Byzance, hay một khúc cống lớn, thì ông lại cảm nhận được sự phù du của gỗ nhiều hơn hẳn so với tính chất trường tồn của gạch và đá.

Những khoảnh khắc cảm động nhất trong cuộc tản bộ mệt mỏi, bối rối này là khi Gautier bắt gặp những đống đổ nát Byzance chạy ngang qua những phố xá xa xôi ấy. Gautier chuyển tải một cách thật là mãnh liệt cái sự dày, cái sự chịu đựng dai dẳng với thời gian của mấy bức tường: sự tiêu điều của chúng, những vết nứt và sự tàn phá của thời gian; những vết nứt chạy dài trọn chiều cao một ngọn tháp (khi còn là một đứa bé, tôi cũng thấy khiếp sợ); những mẩu vụn nằm rải rác ở dưới chân tường (giữa thời kỳ Gautier và của chúng ta, trận động đất lớn vào năm 1894 đã gây tổn hại nặng nề cho những bức tường của thành phố). Ông mô tả đám cỏ ở trong các vết nứt, những cây vả có lá xanh rộng làm dịu đi những đỉnh tháp, nỗi u sầu ì trệ của những khu phố đìu hiu tiếp giáp với những bức tường, sự im lặng của các lối xóm và những căn nhà xiêu vẹo của chúng. “Thật khó mà tin rằng có một thành phố đang còn sống ở đằng sau những ngổn ngang thành quách như thế này!” Gautier viết. “Tôi nghĩ chẳng có một nơi nào trên thế gian, sỏi đá khô cằn, buồn đến cháy da cháy thịt, như là con lộ này, nó chạy dài hơn ba dặm, giữa những điêu tàn ở một bên, và nghĩa địa ở bên kia.”

Hạnh phúc nào tôi lấy ra được từ những xác quyết như thế về hüzün Istanbul? Tại sao tôi hì hà hì hục cố làm sao chuyển tải tới độc giả nỗi buồn mà tôi cảm thấy ở trong cái thành phố tôi trải qua trọn cuộc đời mình?

Trong 150 năm vừa qua (1850-2000), tôi không hề hoài nghi về chuyện không chỉ hüzün đã ngự trị Istanbul, mà nó còn trải dài ra những khu vực xung quanh. Điều mà tôi cố gắng giải thích là những gốc rễ hüzün Istanbullà từ Âu châu: Ý niệm này, thoạt đầu được khai phá, diễn tả, và thi hóa ở Pháp (bởi Gautier, dưới ảnh hưởng của bạn ông, Nerval). Và nếu như thế, tại sao tôi lại bận bịu quá nhiều – tại sao bốn nhà văn của tôi lại bận bịu nhiều như thế – về cái điều mà Gautier và những nhà văn Tây phương khác nói về Istanbul?