Chương 25 Dưới mắt người Tây phương
Ở một mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều lo lắng đến chuyện người ngoại quốc và người lạ nghĩ gì về chúng ta. Nhưng nếu mối lo lắng đó lớn đến mức làm chúng ta đau đớn, làm mờ mối liên hệ của chúng ta với thực tại, thì đó là một vấn đề. Quan tâm của tôi về chuyện người ngoại quốc nhìn thành phố của tôi như thế nào – hầu hết người Istanbul đều vậy – thì thật rắc rối; như tất cả những nhà văn Istanbul khác lúc nào cũng có một con mắt nhìn về Tây phương, đôi lúc tôi thấy thật là mù mờ.
Khi Ahmet Hamdi Tanpɪnar và Yahya Kemal đi tìm một hình ảnh của thành phố và một thứ văn chương nơi người Istanbul có thể nhìn thấy chính mình, hai người bèn cặm cụi nghiên cứu những ghi chép du lịch của Nerval và Gautier. Phần viết về Istanbul trong Năm thành phố của Tanpɪnar là văn bản quan trọng nhất của một nhà văn bản địa viết về thế kỷ hai mươi, và có thể coi đó như là một cuộc trò chuyện, đôi khi gay cấn đến biến thành cãi lộn, giữa Nerval và Gautier. Ở một đoạn, Tanpɪnar nhắc tới Lamartine, một nhà văn Pháp, còn là một chính trị gia, cũng đã từng viếng thăm Istanbul; sau khi ghi nhận về bức “chân dung rất tỉ mỉ” về sultan Abdülmecit, và nhân đó đưa ra gợi ý, cuốn Lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ của Lamartine (trong thư viện của ông tôi có một bộ thật đẹp gồm tám cuốn) có thể đã được chính Abdülmecit thuê ông viết, Tanpɪnar cảnh báo những gì Nerval và Gautier viết về Abdülmecit không có gì là sâu sắc, ấy là vì hai người này là ký giả viết cho các độc giả “đã có sẵn ý kiến ở trong đầu”; các nhà du lịch này không có chọn lựa nào khác ngoài chuyện phải thỏa mãn độc giả. Thành thử khi Gautier khoe rằng sultan quan tâm đến bạn đường của ông, một phu nhân người Ý, hay là những đoạn ông huênh hoang về hậu cung của nhà vua - Tanpɪnar nhận thấy những điều này (cũng y hệt những lời của rất nhiều nhà du lịch Tây phương sau đó) thuộc về “đạo đức đáng nghi vấn,” tuy nhiên ông cho rằng cũng phải bỏ qua cho Gautier, bởi vì hậu cung “thực sự có thực”.
Nhận xét nhỏ này của ông làm bật ra mọi nan đề mà những người dân có học của thành phố Istanbul đụng phải khi đọc những nhận xét của người Tây phương về thành phố của họ. Bởi đất nước cố gắng Tây phương hóa, thành thử những gì mà nhà văn Tây phương viết về thành phố quá đỗi quan trọng, thế nhưng, một khi nhận xét của họ đi quá xa, thì độc giả Istanbul, trong nỗ lực cố làm quen với nhà văn và văn hóa mà người này đại diện, cảm thấy rất đau lòng. Nói cho cùng, khó mà tính đếm được “đi quá xa” là đi tới đâu. Một thành phố, có thể nói, có được đặc tính của mình nhờ vào các cách thức “đi quá xa” của nó, và khi một kẻ ngoại cuộc lọc những sự kiện ra khỏi toàn thể soi mói vào một vài chi tiết đặc dị, thì biết đâu, chính vài chi tiết đặc dị này làm bật ra bản chất của thành phố. (Thí dụ, khi khách du lịch Tây phương coi các nghĩa địa như một phần cuộc sống mỗi ngày của thành phố, thì họ đã “đi quá xa.” Nhưng, như Flaubert ghi nhận, chúng sẽ biến mất cùng với đà Tây phương hóa của thành phố; ngày nay, nhờ đọc những miêu tả của khách du lịch Tây phương về các nghĩa địa mà chúng ta mới biết thành phố trông ra sao vào hồi ấy).
Cùng với đà Tây phương hóa và hiện tượng đối nghịch của nó, chủ nghĩa quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, liên hệ yêu-ghét với cái nhìn Tây phương ngày càng trở nên rắc rối. Những đề tài ám ảnh nhất đối với các quan sát viên Tây phương đặt chân lên Istanbul vào giữa thế kỷ mười tám và xuyên suốt thế kỷ mười chín là hậu cung của nhà vua; chợ nô lệ (trong Ngây ngô hải ngoại27, Mark Twain tưởng tượng một cách tiếu lâm rằng trang tài chính các tờ báo lớn của Mỹ báo cáo giá cả và những thống kê quan trọng về mùa thu hoạch mới nhất của các cô gái Circassia và Georgia); những đám hành khất trên đường phố; những gánh nặng không thể nào tưởng tượng đè lên lưng những người phu khuân vác (khi tôi còn nhỏ, chúng tôi đều thấy phát sợ khi nhìn họ băng qua cầu Galata với cả một núi hộp sắt ở trên lưng. Ai cũng cảm thấy khó chịu khi du khách Âu châu chụp hình họ, nhưng chẳng ai bực mình, dù chỉ mảy may, khi một nhiếp ảnh gia Istanbul, thí dụ Hilmi Şahenk, chụp cùng đề tài ấy); các tekke thầy tu Hồi giáo (một pasha nói với vị khách Nerval, người bạn của ông, là các thầy tu Rufai múa xoay xoay, chạy vòng vòng, tự đâm vào thân thể họ bằng những cái xiên sắt, đều “khùng”, và khuyên ông đừng mất thì giờ đi coi tekke của họ); và những cấm đoán đối với phụ nữ. Những người Istanbul bị ảnh hưởng Tây phương cũng phê phán các tập tục trên. Nhưng một nhà văn Tây phương vừa chỉ nêu một phản đối nho nhỏ là họ thấy đau lòng và niềm tự hào quốc gia chủ nghĩa của họ bị đụng chạm liền.
Cái vòng tròn luẩn quẩn còn được nuôi dưỡng bởi các nhà trí thức Tây phương hóa, những người mong mỏi nghe những nhà văn nổi tiếng và những nhà xuất bản ca tụng họ là giống như người Tây phương. Những nhà văn, như Pierre Loti, ngược lại, chẳng hề giấu giếm tình yêu Istanbul, và dân Thổ Nhĩ Kỳ vì lý do ngược hẳn với đám nhà văn bản xứ: Ông yêu Istanbul và dân chúng Thổ vì gìn giữ được bản chất đặc biệt Đông phương và cưỡng lại Tây phương hóa. Vào những ngày Pierre Loti chỉ trích người dân Istanbul để mất sự gắn bó với truyền thống của họ, chỉ có rất ít người Thổ Nhĩ Kỳ hò theo ông, tức cười làm sao, những người này nằm trong thiểu số vọng Tây phương. Thế nhưng cứ mỗi lần đất nước lâm vào một trận đấu khẩu quốc tế, đám tinh anh văn học lại làm lành một cách thật thô bỉ với các tác phẩm “yêu quý Thổ Nhĩ Kỳ” rất ư tình cảm đậm chất hương xa cỏ lạ.
Những gì André Gide viết trong Nhật ký về những chuyến du lịch qua Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1914 chẳng hề có chút gì “tình yêu nước Thổ” như của Pierre Loti. Ngược hẳn lại: khi nói là ông ghét người Thổ; thì ông không sử dụng từ này theo nghĩa quốc gia chủ nghĩa đầy tự hào, khi ấy đang dần trở thành thời thượng, mà như một nỗi nhục về chủng tộc – quần áo của người Thổ thì thật tệ, nhưng giống dân Thổ cũng chẳng khá hơn. Ông tán dương rằng những chuyến đi dạy cho ông một điều, văn minh Tây phương, đặc biệt văn minh Pháp, cao hơn hết thảy mọi thứ văn minh khác. Khi cuốn Cuộc đi Thổ Nhĩ Kỳ28 ra mắt lần thứ nhất, Yahya Kemal, lúc đó là nhà thơ số một của Thổ Nhĩ Kỳ, tức giận lắm, nhưng thay vì cho in một lời câu trả lời công khai trên báo chí như ngày nay một nhà văn hẳn sẽ làm, ông và các trí thức Thổ khác âm thầm chịu nỗi nhục, giống như một bí mật tội lỗi. Điều này chỉ có thể muốn nói rằng trong tận cùng trái tim, họ sợ những lời lăng nhục của Gide có cơ sở. Một năm sau khi những gì Gide viết được xuất bản thành sách, Atatürk, một trong những nhà Tây phương hóa lớn lao nhất trong tất cả, tiến hành một cuộc cách mạng về ăn mặc, cấm hết mọi thứ quần áo không phải Tây phương.
Khi những người quan sát Tây phương nói xấu về thành phố, tôi thường thấy mình thích thú, thấy đám này chịu chơi hơn so với sự ngưỡng mộ hạ cố của Pierre Loti, lúc nào cũng xuýt xoa vẻ đẹp Istanbul, sự lạ kỳ, độc nhất vô nhị của nó. Hầu hết những nhà du lịch Tây phương ca ngợi vẻ đẹp của thành phố, sự lịch lãm duyên dáng của người dân, nhưng sự tình đâu phải như vậy: Luôn luôn, vấn đề không hệ tại ở cái đẹp của nơi chốn, phong cảnh đô thị, tính tình người bản địa, và cái nhìn của du khách Tây phương, mà là, nhà văn mong đợi gì ở thành phố, và độc giả chờ đợi gì ở văn bản về thành phố của nhà văn. Từ nửa thế kỷ mười chín trở đi, văn chương Pháp và Anh sản xuất ra một hình ảnh giàu có hơn về Istanbul. Những căn nhà của các vị thầy tu, những đám cháy, vẻ đẹp của các nghĩa địa, hoàng cung và những hậu cung, những người hành khất, những đàn chó chạy rông, luật cấm uống rượu, sự cấm cung của phụ nữ, vẻ bí ẩn của thành phố, du lịch vịnh Bosphorus, và vẻ đẹp của dáng hình thành phố – những điều này đem đến cho thành phố cái vẻ đẹp hương xa cỏ lạ, và bởi vì các nhà văn tới thăm Istanbul thường ở cùng những nơi giống nhau, và dùng cùng những người dẫn đường, họ khó có thể gặp những hình ảnh làm tan vỡ ảo tưởng của họ. Một thế hệ mới những nhà du lịch dần dà nhận ra sự kiện Đế quốc Ottoman đang suy sụp, kém phát triển so với Âu châu, và không còn mấy tò mò tìm hiểu bí mật sự thành công của quân đội Ottoman hay là những việc làm không hề được công bố của chính quyền; thay vì coi thành phố như là đáng sợ và không thể xâm nhập như vây, họ bắt đầu thấy nó lạ lùng nhưng thú vị, quyến rũ khách du lịch. Với họ, như vậy là đủ để tới thăm; và khi đã viết mãi đến nhàm chán cùng những sự việc mà những người đi trước đã từng viết, họ bắt đầu tìm cách đào bới tới những tầng sâu hơn.
Khi xe lửa và tàu hơi nước đem Istanbul tới gần với Tây phương, bỗng chốc, người ta nhận thấy có nhiều du khách Tây phương trên đường phố Istanbul, và điều này khiến nhiều người tự hỏi vì cớ gì những người kia lại tới một nơi khủng khiếp như thế này. Và vậy là, vào một thời kỳ chỉ có sự ngu dốt, thói đỏm dáng, ăn nói liều lĩnh, nghĩ sao nói vậy, thay vì cố gắng tìm hiểu sự khác biệt về văn hóa, sự lạ lùng, kỳ quái về phong tục, tập quán, và tính chất cấu trúc xã hội của xứ sở và văn hóa, các du khách “có văn hóa” theo kiểu André Gide khám phá ra rằng họ có quyền, như là một nhà du lịch, đòi hỏi được giải trí, được vui thú ở Istanbul. Tự tin vào chính mình đến nỗi họ dám tuyên bố, nếu họ chẳng thấy gì thích thú, đáng quan tâm ở nơi Istanbul thì đó là do Istanbul (chứ đâu phải do họ) quá buồn chán, không có chút độc đáo nào, những nhà văn du khách của thời kỳ sau cùng này chứng tỏ, các chiến thắng quân sự và kinh tế của văn minh Tây phương đã đem đến cho họ niềm kiêu ngạo, và tự tin rằng Tây phương là chuẩn mẫu cho toàn nhân loại.
Những nhà văn này tới Istanbul vào thời kỳ mà thành phố hết còn cái vẻ hương xa cỏ lạ, do đà tăng tiến Tây phưong hóa, và do sự cấm đoán của triều đại Atatürk – bãi bỏ chế độ sultan, đóng cửa hậu cung, tekke của các thầy tu, thiêu hủy những khu nhà gỗ và những nơi giải trí du khách khác, và việc thay thế Đế chế Ottoman bằng một nền Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Sau một thời gian dài không có lấy một người quan trọng nào thèm tới Istanbul, khi bất cứ du khách nào ghé khách sạn Hilton là được báo chí địa phương săn sóc tận tình, xin được phỏng vấn, nhà thơ Mỹ gốc Nga Joseph Brodsky cho in một bài viết dài trên tờ The New Yorker, nhan đề “Chuyến bay từ Byzance.”
Bị ảnh hưởng bởi một văn bản rất mỉa mai về Iceland của nhà thơ W. H. Auden29, Brodsky bắt đầu bài viết của mình bằng cách kể ra cả lô những lý do khiến ông tới thăm Istanbul (bằng máy bay). Vào thời gian tôi ở xa thành phố và chỉ muốn đọc những điều tốt đẹp về nó, giọng điệu chế nhạo của bài viết khiến tôi như bị dội một thùng nước lạnh, tuy nhiên tôi thực là vui khi ông viết, “Mọi thứ ở đây đều chất chồng năm tháng! Không già, không cổ, ngay cả cổ lỗ sĩ cũng không, mà là chất chồng năm tháng!” Ông nói đúng quá. Khi đế quốc sụp đổ, nền tân Cộng hòa rất an tâm về mục tiêu của nó, nhưng lại chẳng chắc chắn gì về căn cước của mình; cách độc nhất để tiến về phía trước, những nhà thành lập nền tân Cộng hòa nghĩ vậy, là nỗ lực tạo dựng nên một khái niệm mới cho tính chất Thổ Nhĩ Kỳ, và điều này có nghĩa là cắt đứt với phần còn lại của thế giới, bằng một vòng vây khoanh vùng bịnh dịch. Và như vậy là chấm dứt thời đại vương quyền của một Istanbul lớn lao, đa ngôn ngữ; thành phố trở nên co cụm, đóng váng, tự nó làm cho nó trở nên rỗng tuếch, và sau cùng trở thành đơn điệu, độc ngữ, với màu đen trắng.
Thành phố thế giới Istanbul mà tôi biết khi còn là một đứa trẻ biến mất vào lúc tôi vừa bước vào tuổi trưởng thành. Vào năm 1852, Gautier, như rất nhiều du khách vào thời kỳ đó, đã đưa ra nhận xét rằng đi trên đường phố Istanbul bạn có thể nghe tiếng Thổ, tiếng Hy Lạp, tiếng Armenia, tiếng Ý, tiếng Pháp và tiếng Anh (và, nhiều hơn cả hai thứ tiếng sau cùng vừa kể ra đó, là tiếng Ladino, thứ ngôn ngữ Tây Ban Nha thời Trung cổ của những người Do Thái tới Istanbul sau thời Tòa án Dị giáo). Ghi nhận rằng rất nhiều người ở “tháp Babel” này thông thạo vài ngôn ngữ, Gautier, như rất nhiều người đồng hương của ông, có vẻ hơi xấu hổ về chuyện mình chỉ có biết một thứ tiếng mẹ đẻ.
Sau khi nền Cộng hòa được thành lập và sự trỗi dậy dữ dội của công cuộc Thổ hóa, sau khi nhà nước áp dụng những biện pháp cấm đoán đối với các sắc dân thiểu số – những biện pháp mà một số người coi là giai đoạn cuối của sự “chinh phục” thành phố, còn những người khác coi là diệt chủng – hầu hết những ngôn ngữ trên biến mất. Tôi chứng kiến vụ diệt ngôn ngữ trên khi còn là một đứa trẻ, và mỗi lần có một người nào đó lớn tiếng trên đường phố bằng tiếng Hy Lạp hay tiếng Armenia, là có một người nào đó la lớn, lặp lại những khẩu hiệu nhan nhản, “Này, công dân ơi, hãy nói tiếng Thổ” (rất hiếm khi nghe người Kurd tự xưng danh họ ở chốn công cộng vào thời kỳ ấy).
Sự quan tâm đầy bối rối của tôi đối với ngay cả những ký sự không đáng tin cậy nhất của các nhà văn du lịch Tây phương không xuất phát từ mối liên hệ đơn giản yêu-ghét hay một tình cảm hỗn độn vừa nhức nhối thương đau vừa ước mong được chấp nhận. Bỏ qua một bên những tài liệu chính thức này nọ, hay những lời chỉ trích người dân về thái độ ứng xử tệ hại trên đường phố của một dúm nhà bỉnh bút về thành phố, cho tới đầu thế kỷ hai mươi, cư dân Istanbul rất ít viết về thành phố của mình. Cái thành phố sống động, phập phồng – những con phố, không gian, mùi vị, cuộc sống ngồn ngộn mỗi ngày – là một cái gì đó chỉ văn chương mới chuyển tải được, và bao thế kỷ qua đi, thứ văn chương độc nhất mà thành phố gợi hứng được lại do những người ngoại quốc chấp bút. Chúng ta phải nhìn những bức hình của Du Camp và những bức tranh khắc của các nghệ sĩ Tây phương để hiểu phố xá Istanbul trông ra sao vào thập niên 1850, và cư dân của nó ăn mặc như thế nào; nếu muốn biết chuyện gì xảy ra trên những con phố, đại lộ, quảng trường tôi từng sống trọn đời, một trăm, hai trăm, bốn trăm năm trước khi tôi ra đời; nếu muốn biết quảng trường nào trước đây là đồng không mông quạnh, và cánh đồng nào hiện nay đã có thời là những quảng trường có hàng cột; nếu muốn có một chút cảm nhận về việc con người ngày đó sinh sống ra sao – trừ phi bỏ ra nhiều năm trời lục lọi mê cung hồ sơ Ottoman, tôi chỉ có thể tìm thấy các câu trả lời, cho dù bị lệch lạc, trong những gì người Tây phương viết ra.
Trong “Sự trở về của người dạo chơi,” Walter Benjamin bắt đầu bài điểm cuốn Những cuộc tản bộ Berlin của Franz Hessel bằng nhận xét, “Nếu chúng ta phải chia mọi sự miêu tả đã có về các thành phố thành hai nhóm theo nơi sinh của họ, chắc chắn chúng ta sẽ thấy nhóm bản địa của các thành phố đó chỉ là thiểu số.” Theo ông, ở phần lớn các nhà văn từ nơi khác tới, điều làm họ hào hứng hơn cả là những cảnh tượng hương xa cỏ lạ và đẹp đẽ. Ở những kẻ bản địa của một thành phố, sự nối kết luôn được thông qua các hồi tưởng.
Điều tôi đang diễn tả, sau cùng, có thể chẳng phải là đặc trưng của Istanbul, và có lẽ, với đà Tây phương hóa trên toàn thế giới, đã trở nên không thể nào tránh được. Có thể đó là lý do tại sao đôi khi tôi đọc những gì người Tây phương viết không phải như là đọc giấc mộng hương xa cỏ lạ của một người nào đó, mà thật cận kề, như thể chúng là những hồi tưởng của chính tôi. Tôi thật sảng khoái khi đọc được một chi tiết trước đó cũng đã nhận ra, nhưng do chẳng ai thèm nhắc tới nó, thế là tôi cũng cho qua luôn. Tôi thật mê nhưng đoạn miêu tả của Knut Hamsun về cây cầu Galata mà tôi biết, khi còn là một đứa bé – câu cầu được nâng đỡ bởi những cánh thuyền, và cứ thế đong đưa theo dòng người, xe cộ qua lại – y hệt như tôi mê sự miêu tả của Hans Christian Andersen về “cái bóng đen” của những hàng bách trải dài trên các nghĩa địa. Nhìn Istanbul qua những con mắt của một người ngoại quốc luôn luôn mang lại cho tôi sự thích thú, một phần không nhỏ còn bởi lẽ hình ảnh đó giúp tôi chống đỡ với thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi và những sức ép phải tuân thủ. Những miêu tả đôi khi thật chính xác (và do đó, gây phiền hà) về hậu cung, chiếc áo dài Ottoman, và những nghi lễ thời Đế chế Ottoman, chúng thật xa vời so với kinh nghiệm của riêng tôi, đến nỗi mặc dù biết chúng đều có cơ sở, chúng vẫn có vẻ như là những miêu tả về một thành phố của một người nào khác. Tây phương hóa cho phép tôi và hàng triệu cư dân của thành phố Istanbul được hưởng trò xa xỉ: thưởng thức cái quá khứ của chính chúng tôi như là một thứ “hương xa cỏ lạ,” một cảnh đẹp của một đất nước, thành phố xa lạ nào đó.
Nhìn thành phố từ nhiều điểm nhìn khác nhau, và từ đó, gìn giữ mối liên hệ luôn sống động giữa tôi và nó, đôi lúc tôi như thấy mình khùng, tự đánh lừa chính mình. Có những lần – sau khi tự cấm cung một thời gian dài không đi ra khỏi nhà, hay thậm chí chẳng thèm tìm kiếm cái thằng Orhan khác đang nóng lòng chờ đợi trong một căn nhà khác – tôi đâm lo không biết sự đậm đà quấn quít với nơi chốn này có làm bộ não của tôi biến thành đá, và, tự giam mình vào cô tịch như vậy có giết chết cái nhìn của tôi về thành phố. Rồi tôi tự hài lòng khi nhắc nhở chính mình rằng có một điều gì đó có tính ngoại lai trong cách nhìn thành phố của tôi, cái mà tôi có sau bao nhiêu ngày tháng miệt mài đọc các du khách Tây phương viết về thành phố của tôi. Đôi khi, tôi đọc về những điều chẳng hề thay đổi – những con phố chính, những lối đi nhỏ, những căn nhà gỗ không hiểu bằng cách nào vẫn còn đứng vững, những người bán hàng trên đường, những khoảnh đất trống, và hüzün, tất cả những thứ đó, mặc dù thành phố đã đông đúc gấp lên tới mười lần – tôi cứ tự đánh lừa chính mình rằng những ghi nhận của những kẻ ở bên ngoài người Tây phương, là hồi ức của riêng tôi về thành phố quê hương mình.
Nếu các du khách Tây phương điểm trang Istanbul bằng những ảo tưởng, những điều quái dị về Đông phương, thì sau cùng cũng không có điều gì gây hại cho thành phố; chúng tôi chưa hề là một thuộc địa của Tây phương. Bởi vậy, nếu Gautier để ý thấy người Thổ không khóc khi những đám cháy dữ dội bùng lên – khác người Pháp, thường là khóc dữ lắm, ấy là vì họ đối diện với thảm họa đầy phẩm giá, do họ tin vào số phận – tuy thực sự không đồng ý với ông một chút nào, nhưng tôi cũng cảm thấy, nói như vậy cũng chẳng có chi là lầm lẫn. Nhưng các độc giả người Pháp của ông, sau khi được rào đón trước như thế, làm sao họ hiểu nổi tại làm sao một trăm năm chục năm đã qua mà người dân ở đây không làm sao rũ khỏi hüzün?
Khía cạnh đau buồn nhất mà tôi cảm thấy sau khi đọc các du khách Tây phương viết về Istanbul là rất nhiều cảnh sắc địa phương mà những nhà quan sát này, trong số đó có rất nhiều nhà văn sáng giá, ghi nhận và cường điệu thêm lên, chúng biến mất liền sau khi được để ý tới. Đây là một sự cộng sinh tàn nhẫn: Những nhà quan sát Tây phương thích định danh những sự vật làm Istanbul trở thành hương xa cỏ lạ, các sự vật ở Tây phương chẳng hề có, trong khi những người Tây phương hóa chúng tôi lại coi chúng như là các trở ngại cần phải xóa bỏ càng nhanh chừng nào càng tốt chừng đó, ra khỏi bộ mặt của thành phố.
Đây là một danh sách ngắn:
Các “Vệ binh Thổ”, những đội quân tinh nhuệ được các nhà du lịch Tây phương hết sức quan tâm cho mãi tới thế kỷ mười chín, bị giải thể đầu tiên. Chợ nô lệ, một trong những điểm chú mục khác của sự tò mò Tây phương, biến mất chẳng mấy chốc sau khi được miêu tả. Các vị thầy tu Rufai với những cây xiên bằng sắt lủng lẳng ở trên người, và các tekke Mevlevi bị đóng cửa cùng với việc thành lập nền Cộng hòa. Quần áo Ottoman mà rất nhiều nghệ sĩ từng vẽ bị cấm liền ngay sau khi André Gide phàn nàn về nó. Hậu cung, thú ngắm nghía số một của du khách cũng đi luôn. Bảy mươi lăm năm sau khi Flaubert nói ông kể với người bạn yêu quý rằng ông tới chợ yêu cầu nghệ nhân viết tên theo lối thư pháp, Thổ Nhĩ Kỳ liền chuyển bảng chữ cái Ả Rập qua bảng chữ cái Latinh, và cái thú vui hương xa cỏ lạ này cũng chấm dứt theo luôn. Trong tất cá những mất mát đó, theo tôi nặng nề nhất là việc dời những mồ mả và nghĩa địa từ những khu vườn và quảng trường của cuộc sống mỗi ngày của chúng tôi tới những khu vực được rào giậu xung quanh bởi những bức tường cao trông thật khiếp sợ, không có những hàng bách, và không cả dáng hình thành phố. Những người phu khuân vác, với cả một khối hàng hóa trên lưng làm kinh ngạc rất nhiều du khách thời kỳ Cộng hòa – giống như những chiếc xe Mỹ cổ lỗ sĩ mà Brodsky đã từng ghi nhận – chẳng mấy chốc không còn được nhắc tới nữa, bởi vì đã biến mất.
Chỉ có mỗi một thứ phong cách riêng, đặc sản của Thổ Nhĩ Kỳ, kiên trì không chịu biến vào hư vô dưới cái nhìn của Tây phương: các đàn chó vẫn chạy rông trên đường phố. Sau khi giải tán đội vệ binh tinh nhuệ vì lý do không phù hợp với kỷ luật nhà binh theo kiểu quân đội Tây phương, Mahmut II quay qua quan tâm tới đội binh chó. Nhưng tham vọng của ông lần này đã thất bại. Sau thời Quân chủ Lập hiến, còn có một đợt “sửa đổi” khác nữa, lần này được người bô hê miêng trợ giúp, từng con chó một được tống ra hòn đảo Sivriada nhưng lạ làm sao, con nào cũng chiến thắng trong việc tìm được đường trở về. Người Pháp, tuy coi đàn chó cũng có mùi hương xa cỏ lạ, nhưng họ coi tống xuất đàn chó ra nhà tù ở ngoài đáo Sivriada còn có màu sắc hương xa cỏ lạ hơn thế nữa; nhiều năm sau này Sartre sẽ đùa cợt về chuyện này trong Tuổi biết khôn30.
Max Fruchtermann, nghệ sĩ chuyên vẽ bưu thiếp, có vẻ như ý thức được tính chất hương xa cỏ lạ của vụ việc liên quan tới chó này: Trong một loạt khung cảnh Istanbul sản xuất vào khoảng thời gian cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi, ông cẩn thận đưa vô càng nhiều chó càng tốt, cũng như các vị thầy tu xiên sắt qua cơ thể, những nghĩa địa, và những thánh đường Hồi giáo.