← Quay lại trang sách

Chương 26 Nỗi buồn của hoang phế:-Tanpɪnar và Yahya Kemal tại các xóm nghèo Istanbul

Tanpɪnar và Yahya Kemal thường sóng đôi trong những chuyến tản bộ dài ở những khu vực trơ trọi, xa xôi và nghèo khổ của Istanbul. Một lần, trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến, một mình trở lại những nơi chốn xưa, trong “khu vực rộng lớn và khốn cùng giữa Kocamustafapaşa và những bờ tường của thành phố,” Tanpɪnar bồi hồi nhớ lại những cuộc đi dạo ngày trước đó đã hữu ích cho ông biết chừng nào. Cũng là từ những khu vực nghèo khổ này mà Gautier nhìn ra vẻ sầu muộn, nỗi buồn tỏa xuống khắp thành phố vào quãng 1853; Tanpɪnar và Yahya Kemal bắt đầu các chuyến dã ngoại vào “những năm đình chiến” tủi nhục.

Khi hai nhà văn lớn của Thổ bắt đầu những chuyến tản bộ đầu tiên của họ, bảy mươi năm đã qua đi kể từ những cuộc viếng thăm của hai nhà văn Pháp là Nerval và Gautier mà họ đều ngưỡng mộ tác phẩm; vào thời gian đó, Đế chế Ottoman đang từ từ mất dần những đất đai của nó ở vùng biển Balkan và Trung Đông, ngày một nhỏ đi, nhỏ đi, và sau cùng biến mất; những nguồn thu nhập nuôi sống Istanbul khô kiệt dần; mặc dù có làn sóng di dân Hồi giáo thường trực chạy trốn họa diệt chủng tại các nước cộng hòa của Balkan, con số người chết do cuộc Đệ nhất Thế chiến lên tới hàng trăm ngàn, thành thử dân số cũng như của cải của thành phố cứ teo nhỏ lại. Cùng thời gian này, Âu châu và Tây phương giàu có thêm lên, nhờ những tiến bộ về kỹ thuật lớn lao. Khi mà Istanbul trở nên nghèo khổ hơn bao giờ hết, nó mất đi sự quan trọng của mình trên thế giới, và chỉ là một nơi chốn xa xôi, nghẹt thở với gánh nặng thất nghiệp. Khi còn là một đứa trẻ, tôi không hề có được cảm giác sống trong một thủ đô lớn của thế giới, mà chỉ là tỉnh thành vùng nhà quê, nghèo đói.

Khi viết “Một chuyến tản bộ qua những xóm nghèo của thành phố,” Tanpɪnar không chỉ miêu tả chuyến viếng thăm mới nhất của riêng ông và những chuyến tản bộ trước đó. Mục đích của ông không chỉ là tìm cách làm quen trở lại với các khu vực nghèo khổ nhất, xa xôi nhất của Istanbul; ông còn thử tự đặt mình vào trong cuộc sống của một xứ sở nghèo khổ, vào trong một thành phố mà thế giới bên ngoài chẳng còn thèm để ý tới nữa. Như vậy, thám hiểm những xóm nghèo như là một phong cảnh đồng nghĩa với việc đưa ra một thực tại là bản thân Istanbul, và Thổ Nhĩ Kỳ, cũng chỉ là các xóm nghèo.

Tanpɪnar viết dài về những con phố bị đốt rụi, những điêu tàn và những bức tường đổ, tất cả đều quá đỗi thân thuộc với tôi khi còn là một đứa trẻ. Trong chuyến đi, ông nghe thấy tiếng nói của phụ nữ (theo thói quen, ông gọi đó là “tiếng rì rào của hậu cung”) vẳng đến từ một “biệt thự bằng gỗ từ thời Abdülhamit, không hiểu nhờ đâu vẫn còn đứng vững,” nhưng, để cho hợp với chương trình chính trị – văn hóa mà ông tự xây dựng cho mình, ông buộc phải giải thích rằng chúng không phải là những âm thanh từ thời Ottoman, mà là của những người phụ nữ làm việc trong nền kỹ nghệ dệt may mới mẻ của thành phố - “một xưởng làm giày vớ, hay cửa hàng vải sợi.” Nơi này là một trong những khu xóm “mà chúng ta biết từ khi còn nhỏ xíu,” Tanpɪnar viết, và bất cứ trang viết nào của Rasim cũng đều gợi cho chúng ta nhớ lại “một khu xóm với giếng nưóc rợp bóng giàn nho xanh, giàn quần áo phơi nắng, nằm hóng mát bên dưới là mấy chú mèo, chú chó, những thánh đường nhỏ, những nghĩa địa.” Nỗi buồn mà Tanpɪnar khám phá ra qua những quan sát sững người của Nerval và Gautier về các xóm nghèo, những điêu tàn, những khu vực nhà ở xám xịt, những bức tường thành phố, và đến lượt mình, ông biến nó thành một hüzün bản địa, thông qua đó mà xem xét một khung cảnh địa phương, và đặc biệt hơn nữa, cuộc sống thường nhật của một nữ công nhân hiện đại.

Chúng ta không thể biết được liệu ông có hoàn toàn ý thức được những điều mà ông làm hay không. Nhưng rõ ràng ông ý thức được rằng những khu đất bị lửa thiêu rụi, những xưởng thợ, những kho chứa, những biệt thự bằng gỗ, những điêu tàn hoang phế, những ngôi biệt thự đổ nát mà ông nhìn thấy tại các phố xá hoang phế và bị bỏ quên của những khu vực “bị cô lập” đó có một vẻ đẹp đặc biệt, và một ý nghĩa nào đó. Bởi vì, cũng trong bài viết, ông hạ xuống những dòng sau đây:

Tôi xem các cuộc phiêu lưu của những khu xóm điêu tàn hoang phế ấy như là một biểu tượng. Chỉ có thời gian và những cú sốc sắc bén của lịch sử mới có thể đem đến cho một khu lối xóm bộ mặt như thế. Ui chao, dân chúng của nó phải chịu đựng bao nhiêu chinh phục, bao nhiêu thất trận, để sáng tạo ra khung cảnh trước mắt chúng ta kia?

Chúng ta có thể đưa ra một câu trả lời có thể đã nằm trong đầu độc giả: Nếu mọi người bận tâm đến sự hủy diệt của Đế chế Ottoman và sự suy thoái của Istanbul trong con mắt của Âu châu, và mặt khác, đến nỗi buồn của-hüzün mà tất cả những mất mát lớn lao khêu dậy, thì tại sao họ không chuyển hóa nỗi đau khổ theo kiểu Nerval đó thành một thứ “thơ ca thuần khiết” thật xứng hợp? Trong Aurélia của Nerval, khi ông mất tình yêu và nỗi buồn của ông trở nên u tối, chúng ta có thể hiểu tại sao ông than thở rằng chẳng còn gì hết ở trên cõi đời này ngoài những “giải trí tầm phào.” Nerval đến Istanbul là để bỏ lại nỗi buồn ở đằng sau ông. (Gautier không hay biết mà cho phép nỗi buồn này len lén chui vào trong những quan sát của riêng ông.) Khi Tanpɪnar, tiểu thuyết gia vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, và Yahya Kemal, nhà thơ vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của Thổ Nhĩ Kỳ, cùng nhau đi tản bộ nơi những khu xóm nghèo khổ nhất của thành phố thì họ như vậy là để cảm thấy những mất mát và nỗi buồn của mình còn sâu nặng hơn nữa. Tại sao?

Họ có một chương trình chính trị. Họ lặn lội trong những khu phố điêu tàn là để tìm kiếm các dấu hiệu của một nhà nước Thổ mới, một chủ nghĩa quốc gia mới của Thổ Nhĩ Kỳ: Đế chế Ottoman có thể sụp đổ, nhưng dân tộc Thổ sẽ làm cho đất nước của họ trở nên lớn lao (điều mà những người Hy Lạp, Armenia, Do Thái, Kurd, và rất nhiều sắc dân thiểu số khác sẵn sàng quên đi, cùng với nền Cộng hòa), và cả hai muốn chứng tỏ, mặc dù u sầu buồn bã, họ vẫn đứng thẳng người. Không như các ý hệ gia của nhà nước Thổ, những người diễn tả chủ nghĩa quốc gia bằng một ngôn ngữ sang sảng, hùng hồn, không tha thiết, không yêu thương, họ biểu hiện lòng yêu nước của mình bằng một ngôn ngữ thơ, khác hẳn thứ ngôn ngữ nặng nề và quyền uy. Yahya Kemal đã trải qua mười năm ở Paris nghiên cứu thơ Pháp; “suy nghĩ giống như người Tây phương,” ông tìm kiếm một hình ảnh theo kiểu Tây phương ngõ hầu làm cho chủ nghĩa quốc gia “trông đẹp hơn.”

Khi Đế quốc Ottoman thất trận trong Đệ nhất Thế chiến, Đồng minh chiếm cứ Istanbul, biến nó thành một thành phố ngục tù, theo cách nói của Tanpɪnar trong tác phẩm Những kẻ đứng ở bên ngoài vở diễn, những tàu chiến của Pháp và Anh ngự trị trên vịnh Bosphorus, ngay phía trước Cung điện Dolmabahçe, có nhiều đề án chính trị đương thời không tha thiết tới vấn đề căn cước quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. (Những năm sau này, việc hai người buộc phải gia nhập chủ nghĩa quốc gia sẽ làm cho quan hệ của họ với nhà nước được thuận lợi hơn và khiến họ có được chức vụ đại sứ và dân biểu, rồi thì chủ nghĩa dân tộc của họ, sự im lặng của họ trước những bạo loạn sắc tộc chống Kitô giáo và chống Tây phương, như các vụ việc 6-7 tháng Chín, không hề gây chút phàn nàn nào.) Trong lúc cuộc chiến với quân đội Hy Lạp bùng nổ tại vùng Anatolia, Yahya Kemal, bản thân vốn không ưa chiến tranh, chính trị hay quân đội, tránh xa Ankara. Ông chọn cho mình thái độ “ở ngoài sàn diễn” khi ở lại Istanbul, nơi ông dâng hiến mình cho thi ca, viết về những chiến thắng huy hoàng của Thổ Nhĩ Kỳ trong quá khứ, tạo dựng một hình ảnh Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ. Khía cạnh văn học nằm trong chương trình chính trị thành công của ông ở chỗ ông sử dụng các thể thơ truyền thống và vần luật (aruz) theo một đường hướng sao cho bật ra được những kiểu cách và không khí của tiếng nói Thổ, cùng lúc chứng tỏ Thổ là một dân tộc đã từng tạo ra rất nhiều chiến thắng, và những công trình lớn lao. Trình bày Istanbul như là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất của dân tộc, ông nhắm hai mục tiêu. Thứ nhất, nếu, tiếp theo sau Đệ nhất Thế chiến trong những năm đình chiến, Istanbul trở thành thuộc địa của Tây phương, thì điều quan trọng là phải làm sao giải thích cho những tên thực dân biết rằng thành phố không chỉ là một nơi đáng tưởng niệm vì Hagia Sophia và những nhà thờ của nó; bọn họ phải biết đến cái căn cước “Thổ Nhĩ Kỳ” của thành phố này. Thứ nhì, sau Cuộc chiến Độc lập và việc thành lập nền Cộng hòa, Yahya Kemal nhấn mạnh tới tính Thổ Nhĩ Kỳ của Istanbul để hô hào “sáng tạo ra một quốc gia mới.” Cả hai nhà văn viết nhiều bài dài, bỏ qua di sản đa văn hóa, đa chủng tộc, đa tôn giáo của Istanbul đế hỗ trợ tinh thần “Thổ hóa” này.

Nhiều năm sau, Tanpɪnar nhắc lại điều này trong một bài viết nhan đề “Chúng ta đã làm thế nào để ôm lấy những tác phẩm lớn lao của quá khứ chúng ta trong những năm đình chiến đau đớn!” Trong một tiêu luận nhan đề “Trên những bức tường của Istanbul,” Yahya nhớ lại, ông và các sinh viên của mình đã đáp một chuyến xe điện tại Topkapɪ và đi bộ “từ Marmara tới Mũi Vàng dọc theo những bức tường với những ngọn tháp, những lỗ châu mai trải ra mãi, vượt khỏi tầm nhìn,” và ngưng lại để nghỉ ngơi trên ”những đống đổ nát của bức tường đổ.” Để chứng tỏ Istanbul là Thổ Nhĩ Kỳ, hai nhà văn này ý thức được rằng sẽ không đủ nếu chỉ miêu tả dáng hình thành phố rất được khách du lịch nhà văn Tây phương yêu quý, hay bóng dáng của những thánh đường Hồi giáo, những nhà thờ. Khi bị bóng dáng của giáo đường Hagia Sophia ngự trị, cái dáng hình được ghi nhận bởi mọi nhà quan sát Tây phương từ Lamartine cho tới Le Corbusier không thể dùng làm một “hình ảnh quốc gia” cho Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ; vẻ đẹp kiểu như vậy quá có tính chất quốc tế. Các cư dân Istanbul theo quốc gia chủ nghĩa như Yahya Kemal và Tanpɪnar muốn nhắm tới đám đông nghèo khổ, bị đánh bại, và những người Hồi giáo bị tước đoạt tất cả để chứng tỏ họ chẳng mất đi dù chỉ một mẩu căn cước của họ, và để thỏa mãn lòng ao ước về một nét đẹp u sầu buồn bã có thể diễn tả được tình cảm mất mát, thua thiệt. Đó chính là lý do khiến hai nhà văn rủ nhau cùng tản bộ tới những khu xóm nghèo đói để tìm cho được những hình ảnh đẹp, nhờ đó mà cư dân Istanbul có thể trộn vào với nỗi buồn hüzün của họ về một quá khứ điêu tàn; họ đã kiếm thấy nó khi đi theo những bước chân của Gautier. Mặc dù tha thiết với chủ nghĩa quốc gia của mình, đôi khi Tanpɪnar đã sử dụng tới những từ như ”đẹp như tranh” và “phong cảnh”; để chứng tỏ những xóm nghèo này mang nét truyền thống, còn nguyên vẹn, không chút ảnh hưởng Tây phương, ông viết rằng “chúng thật điêu tàn, nghèo khổ, thật đáng thương,” nhưng chúng “gìn giữ được phong thái riêng, và cách sống riêng của chúng.”

Đó là cách hai người bạn sống ở Istanbul – một nhà thơ, người kia là tác giả văn xuôi – đã rút tỉa từ tác phẩm của hai người bạn từ Paris tới – một nhà thơ, người kia là tác giả văn xuôi – để cùng nhau đan dệt nên một câu chuyện bắt đầu bằng sự sụp đổ của Đế quốc Ottoman: chủ nghĩa quốc gia những năm đầu Cộng hòa, những điêu tàn, dự phóng Tây phương hóa, thơ ca, và phong cảnh của nó. Kết quả của cái câu chuyện có phần rối rắm này là một hình ảnh trong đó người Istanbul có thể nhìn thấy họ và một giấc mơ mà họ hoài vọng. Chúng ta có thể gọi giấc mơ này – một giấc mơ bật ra từ những khu xóm hoang vắng, trơ trọi, nghèo khổ, ở quá mãi phía bên ngoài những bức tường thành – là “nỗi buồn của hoang phế,” và nếu có người nào đó nhìn vào các cảnh này bằng con mắt của một kẻ ở bên ngoài (như Tanpɪnar đã làm), thì có thể coi chúng đẹp như tranh vẽ. Trước hết được xem như là vẻ đẹp của một phong cảnh như tranh vẽ, nỗi buồn cũng có thể diễn tả một thế kỷ bại trận, nghèo khổ của dân chúng Istanbul.