← Quay lại trang sách

Chương 37 Mẹ con trò chuyện:-Kiên nhẫn, cẩn trọng và nghệ thuật

Trong nhiều năm dài, mẹ tôi trải qua những buổi tối của bà một mình trong phòng khách, đợi cha tôi về. Cha tôi trải qua những buổi tối của ông tại câu lạc bộ chơi bài bridge, xong những trận bài ông có thể đi tới những chốn ăn chơi khác, và trở về thật trễ, thường là vào lúc mẹ tôi đã quá mệt vì chờ đợi và đành đi ngủ. Sau khi hai mẹ con ngồi hai bên bàn đối diện nhau cùng ăn bữa tối (cha tôi khi đó đã điện thoại về: Anh bận quá, ông sẽ nói như thế, anh sẽ về trễ; hai mẹ con cứ ăn trước đi), mẹ tôi sẽ chia bộ bài của bà trên tấm khăn bàn màu kem để đoán tương lai của mình. Bà rút ra từng cây từ bộ bài, mỗi lần một lá, theo chuỗi thay đổi màu đen đỏ mà không hề có ước muốn gì dành cho việc tìm kiếm các dấu hiệu, bà cũng chẳng có ý định sắp xếp các dấu hiệu của những quân bài thành một câu chuyện mang lại cho tương lai một dáng vẻ thú vị. Với bà đây là một trò chơi của sự kiên nhẫn. Khi tôi đi vào phòng khách và hỏi bà đã thấy được gì ở tương lai chưa, bà luôn trả lời như sau:

“Mẹ đâu có bói bài để đoán tương lai, con yêu ạ, mà để cho qua thời giờ. Mấy giờ rồi? Mẹ xào bài một lần nữa rồi đi ngủ đây.“

Vừa nói bà vừa đưa mắt theo dõi một bộ phim cũ trên chiếc ti vi đen trắng của chúng tôi (một điều mới mẻ ở Thổ Nhĩ Kỳ) hoặc một cuộc bàn luận về những ngày lễ Ramadan thuở xưa (hồi ấy, chỉ có một kênh duy nhất, mọi thứ được chiếu đều tuân theo quan điểm của nhà nước), và nói tiếp, “Mẹ không coi đâu; nếu thích thì con cứ tắt đi.“

Tôi sẽ ngồi coi một chốc lát bất cứ cái gì hiện ra trên màn hình; có thể là một trận đá banh, hay là cảnh những con phố đen trắng thời con nít của tôi. Tôi ít quan tâm tới tivi hơn là tới một quãng ngơi nghỉ cho nỗi quay cuồng bên trong tôi và căn phòng của tôi, và tôi ngồi phòng khách là để nói chuyện tào lao với mẹ tôi.

Đôi khi ba chuyện tào lao thành ra nặng nề, cay đắng. Sau đó, khi trở về phòng khóa cửa lại tôi sẽ vừa đọc sách vừa ngậm ngùi với nỗi ăn năn của mình cho tới sáng. Đôi khi, sau một cuộc cãi lộn với mẹ, tôi sẽ đi ra đường, nhập vào cái lạnh của đêm và lang thang khu Taksim, hay Beyoğlu, hút thuốc lá liên tục trên những con phố nhỏ đen tối, ma quái cho đến khi cảm thấy cái lạnh ăn tới tận xương tận tuỷ, chờ đến khi mẹ tôi và mọi người khác trong thành phố đi ngủ, mới trở về nhà. Tôi rơi vào thói quen cứ đến bốn giờ sáng mới lên giường nằm và ngủ tới trưa; tôi sẽ giữ thói quen này liên tục hai chục năm sau đó.

Điều hai mẹ con tôi thường cãi cọ vào những ngày đó – đôi khi thẳng thừng, đôi khi chẳng ai thừa nhận đã cãi lộn – là tương lai chưa biết ra làm sao của tôi; vào mùa đông 1972, giữa năm thứ nhì môn kiến trúc, tôi hầu như không đi học nữa. Ngoại trừ một dúm ngày bắt buộc, vì nếu không đi là bị đuổi, tôi kể như không bén mảng tới khoa kiến trúc ở Taşkışla.

Đôi khi tôi tự an ủi, “Dù sẽ không bao giờ hành nghề kiến trúc, mình vẫn có mảnh bằng đại học,“ một nhận xét được cha tôi và bạn bè lặp đi lặp lại nhiều lần, và họ là những người có chút ảnh hưởng lên tôi, nhưng như vậy chỉ làm cho tương lai của tôi bấp bênh thêm, ít ra là dưới mắt của mẹ tôi. Tôi đã nhìn thấy tình yêu hội họa của tôi chết đi và cảm nhận sự trống rỗng đau thương mà nó để lại đằng sau, thế nên tôi thề với lòng mình là tôi sẽ không bao giờ vẽ nữa, với tư cách là kiến trúc sư. Cùng lúc, tôi phát giác ra là mình không thể nào thiên thu vĩnh viễn đọc sách hết cuốn này qua cuốn khác, hết cuốn tiểu thuyết này tới cuốn nọ tới tận sáng, hay thức trọn đêm lang thang trên đường phố. Chúng chẳng thể làm cho tôi thoát ra khỏi thế giới này và nhập vào thế giới thứ nhì. Đôi khi tôi quá hoảng hốt khi nghĩ tới đó, và bật dậy khỏi bàn, để cùng mẹ tôi đối diện với các sự kiện. Vì tôi cũng không chắc chắn tại sao mình làm như vậy, và cũng chẳng biết mình đang thuyết phục bà chấp nhận điều gì, thành thử đôi lúc hai mẹ con cãi lộn mà cứ như cả hai cùng bịt mắt mình.

“Mẹ cũng y hệt như con, khi còn ít tuổi,“ mẹ tôi sẽ bảo với tôi như vậy, như để làm tôi bực mình – sau này tôi sẽ nghĩ như vậy. “Mẹ cũng chạy trốn cuộc đời, như con bây giờ. Trong khi mấy người cô của con thì lên học đại học, sống giữa đám người trí thức, tham dự những buổi dạ tiệc, khiêu vũ, thì mẹ ngồi nhà như con, trải qua hàng giờ để coi tờ Họa báo một cách ngu ngốc. Tờ báo đó, ông ngoại con cũng mê lắm.“ Bà rít một hơi thuốc lá và nhìn tôi nhu thể đang đánh giá coi những lời nói của bà có chút hiệu quả nào không. “Mẹ đã từng e ngại, sợ hãi cuộc đời.“

Khi mẹ tôi nói như vậy, tôi biết bà muốn nói cũng như con, và thế là cơn giận dữ bùng nổ ở trong tôi, nhưng tôi cố dằn lại bằng cách nghĩ rằng mẹ tôi nói như vậy là cũng chỉ vì “muốn điều tốt cho tôi.“ Nhưng mẹ tôi diễn tả những điều vừa kể, bằng một sự sôi nổi, nó thể hiện đây là một niềm tin, một tầm nhìn sâu đậm của bà, và tôi cảm thấy trái tim của mình tan nát khi biết mẹ mình cũng chia sẻ, cũng tham dự cùng mình cùng một nỗi sợ hãi cuộc đời. Trong khi rời mắt khỏi chiếc tivi để nhìn qua ánh đèn của những chiếc phà chiếu qua chiếu lại để dò đường trên mặt vịnh Bosphorus, tôi tự lặp đi lặp lại cái tính chất mẹ nào con nấy và cảm thấy thù ghét nó biết là bao.

Tôi biết điều này không phải do mẹ tôi, bà không bao giờ diễn tả thẳng thừng ra như thế, mà từ giới trưởng giả lười biếng Istanbul và các tay nhà báo giữ mục thường kỳ trên nhật báo có lối nghĩ tương tự, những người kết luận vào những thời điểm bi quan nhất và láo xược nhất của họ, “Làm gì có được một điều tốt lành từ một nơi như nơi này.“

Nỗi bi quan này được nuôi dưỡng bởi cái nỗi buồn từ lâu đã bẻ gãy ý chí của Istanbul. Nhưng nếu nỗi buồn trào tuôn ra mất mát và nghèo đói, thì tại sao đám nhà giàu cũng ôm lấy nó? Có thể là bởi họ nhờ cơ may mà thành dân nhà giàu. Cũng có thể còn là do bản thân họ chẳng tạo ra được một điều gì sáng giá để cạnh tranh với nền văn minh Tây phương mà họ hy vọng bắt chước được.

Tuy nhiên ở trường hợp mẹ tôi, một người suốt đời sử dụng thứ ngôn ngữ thận trọng, đanh thép, của tầng lớp trung lưu, có một khía cạnh để biện minh, và là nền tảng của nó. Gần như liền lập tức sau khi lấy nhau, sau khi anh tôi và tôi ra đời, cha tôi hành hạ mẹ tôi một cách thật là tàn nhẫn, có thể nói như vậy. Sự vắng mặt của ông, cộng thêm chuyện của cải trong nhà từ từ đội nón ra đi – khi lấy cha, mẹ tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng bà sẽ phải vật lộn với những chuyện như thế, và tôi luôn cảm thấy những nỗi bất hạnh này đã khiến bà phải tự tạo ra cho mình một tư thế phòng vệ để đối diện với xã hội. Trong những năm còn thơ ấu, bất cứ khi nào mẹ tôi dẫn hai anh em chúng tôi đi phố, đi sắm đồ ở Beyoğlu, đi coi phim, hay đi công viên, và khi bà để ý thấy có những người đàn ông nhìn bà, thái độ cảnh giác của bà khiến tôi cảm được sự thận trọng tối đa mà mẹ tôi bày tỏ trước bất cứ một ai không phải là người trong gia đình. Nếu hai anh em tôi cãi lộn trên đường phố, ngoài giận giữ, buồn phiền, tôi vẫn thấy bà có ao ước được bảo vệ chúng tôi.

Tôi cảm nhận được sự cẩn trọng của mẹ tôi rõ rệt nhất qua những lời dặn dò muôn lần như một, “hãy ứng xử bình thường, tự nhiên như những người khác.“ Lời dặn này mang trong nó cả một nền đạo đức có tính truyền thống – tầm quan trọng của việc tỏ ra bình dị, việc chấp nhận phần của mình, dù ít ỏi cỡ nào, và việc làm cho cái phần ít ỏi đó trở thành có ích tối đa, việc thực hành đường lối khổ hạnh Sufi, một thứ đã để một dấu ấn rất đậm đà lên toàn thể nền văn hóa – nhưng cách nhìn này thật khó làm cho mẹ tôi hiểu được tại sao một người nào đó có thể bất thình lình rời bỏ trường lớp. Theo suy nghĩ của bà, tôi thật lầm lẫn khi cường điệu tầm quan trọng của tôi, khi quá bận tâm đến những ám ảnh đạo đức và tinh thần của mình; lẽ ra mối bận tâm đầy say mê ấy cần được dồn cho việc trau dồi sự chân thực, đạo hạnh, cần cù, và cư xử giống như bất cứ một người nào khác. Nghệ thuật, hội họa, sáng tạo – những thứ đó chỉ những người Âu châu mới có quyền bận tâm tới, mẹ tôi như muốn nói vậy, những thứ đó không dành cho chúng ta, thứ người sống ở Istanbul ở nửa thứ nhì của thế kỷ hai mươi, trong một nền văn hóa sa vào sự nghèo đói, khổ sở, và do đó mất hết sức mạnh, ý chí, và ham muốn thưởng thức. Nếu trong đầu tôi không luôn luôn tâm niệm rằng “làm gì có được một điều tốt lành từ một nơi như nơi này,“ thì đời tôi sẽ khốn khổ lắm.

Vào những lúc khác, để tự đề cao vị trí của mình, mẹ tôi nói với tôi rằng bà đặt tên tôi là Orhan bởi vì trong số mọi sultan của Ottoman, Orhan là vị sultan mà mẹ tôi yêu quý nhất. Vị sultan này chẳng hề theo đuổi những dự án lớn lao và cũng không làm gì để người ta chú ý tới ông; thay vì vậy, ông sống một cuộc đời bình thường, không làm điều gì thái quá, đó là lý do khiến sử sách nói về vị sultan thứ nhì của Đế chế Ottoman này một cách kính cẩn đến vậy. Tuy mỉm cười khi nói điều đó với tôi, nhưng rõ ràng là mẹ tôi muốn cho tôi hiểu tại sao mà bà coi những đạo hạnh trên đây là quan trọng.

Vào những buổi tối khi mẹ tôi ngồi đợi cha tôi và tôi từ trong phòng đi ra để cãi lộn với bà, tôi biết điều mình cần làm là cưỡng lại cái cuộc đời thật buồn, đổ vỡ, khiêm nhường mà Istanbul mang lại và cùng với nó là sự bình thường đầy yên ổn mà mẹ tôi mong muốn cho tôi. Đôi khi tôi tự hỏi, Tại sao mình cứ đi ra đó để mà cãi lộn hoài với mẹ? và vì không tìm được một câu trả lời thuyết phục nên tôi cảm thấy ở trong tôi một cơn cuồng nộ mà tôi không sao hiểu nổi.

“Ngay hồi còn nhỏ con đã hay trốn học rồi,“ mẹ tôi vừa nói vừa xào thật nhanh những cây bài. “Con sẽ viện cớ, ‘Con bịnh, con đau bụng, con sốt.’ Khi chúng ta rời tới khu Cihangir, chuyện trốn học của con đã trở thành một thói quen. Một buổi sáng, khi con nói, ‘Con bịnh, con không đi học đâu,’ mẹ đã la con, ‘Bịnh hay không bịnh thì con cũng phải đi học, liền bây giờ, mẹ không muốn nhìn thấy con ở nhà!’“

Tới khúc này trong câu chuyện, mà mẹ tôi kể đi kể lại rất nhiều lần, bất cứ khi nào bà có thể, mẹ tôi sẽ ngưng lại một chút – như thể bà biết đang làm cho thằng con cáu giận – mẹ tôi sẽ mỉm cười; bà làm một hơi thuốc lá, và rồi, không nhìn tôi, bằng một giọng nhịp nhàng như chim hót, mẹ tôi sẽ thêm vô, “Sau buổi sáng hôm ấy, không bao giờ mẹ nghe con nói, ‘Con bịnh, con không đi học đâu’ nữa.“

“Vậy thì mẹ sẽ nghe con nói, ngay bây giờ,“ tôi làm liền một hơi. “Con không bao giờ bước chân vô khoa Kiến trúc nữa.“

“Rồi con sẽ làm gì? Ở nhà như mẹ?“

Thế là thằng con thấy rất cần phải đứng bật dậy, đóng cửa đánh sầm một cái, bỏ ra ngoài đường, đi lang thang đến rã rời hai chân ở những con phố nhỏ của khu Beyoğlu, uống đến nửa say nửa khùng, hút thuốc đến phọt khói ra lỗ tai, thù hận hết mọi người và tất cả mọi thứ trên đời. Những cuộc đi như vậy trong những năm tháng đó kéo dài hàng giờ đồng hồ, và đôi khi, nếu tôi đi lang thang đủ cữ – liếc mắt nhìn vô những cửa kính cửa tiệm, quán ăn, quán cà phê ánh đèn mờ ảo, những cây cầu, những cửa rạp chiếu phim, những tấm biển quảng cáo, những dòng chữ, sự dơ dáy, bùn, những giọt nước mưa nhỏ xuống các vũng nước tối đen trên hè đường, ánh đèn nê ông, ánh đèn xe hơi, cả một đàn chó xục tung tóe đống rác – đôi khi, một hối thúc khác xục tới: về ngay nhà, biến ngay những hình ảnh đó thành những con chữ, tìm ra ngôn ngữ cho thứ tinh thần tối thui này, cơn hỗn độn mệt mỏi và bí ẩn này. Đây là một sự hối thúc không sao cưỡng lại, giống như nỗi khát khao vẽ thuở ban đầu, và toàn thân tôi rúng động bởi cảm giác hạnh phúc, niềm vui và hăng say hớn hở, nhưng tôi cũng không biết làm gì với nó.

“Thang máy đang lên, có phải không?“ mẹ tôi hỏi.

Cả hai ngưng lại, lắng nghe, nhưng chẳng có gì. Cha tôi chưa về. Tôi nhìn mẹ tôi trong khi bà chìm đắm vào trong việc đọc những lá bài với một sự kiên nhẫn mà tôi chưa từng thấy, và điều này làm tôi kinh ngạc. Trong hai bàn tay, hai cánh tay của mẹ tôi, cách bà chuyển động chúng, có một điều gì đó thật dịu dàng, tôi biết điều này từ khi còn nhỏ, và điều đó làm tôi quấn quít với mẹ, mặc dù những khi mẹ tôi không để ý gì đến tôi, ngắm nhìn bà chuyển động dịu dàng như vậy tôi cảm thấy hết sức đau lòng. Giờ đây, tôi không thể đọc được mẹ tôi nữa. Và tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt ở giữa một tình yêu và sự giận dữ không bến bờ. Bốn tháng trước đó, sau khi dò hỏi, điều tra một thời gian dài, mẹ tôi kiếm ra chỗ mà cha tôi giấu giếm cô nhân tình, ở Mecidiyeköy. Thật khéo léo, thật tài tình, bà lấy được chiếc chìa khóa căn phòng từ người gác dan, và đã mở cửa phòng, đi vô, và sau đó tả lại cho tôi bằng một giọng lạnh như băng, quanh cảnh căn phòng trống rỗng, và mùi vị của nó còn đọng lại. Một bộ đồ ngủ trên chiếc gối, trên chiếc giường khác cái giường ở nhà, và bên cạnh giường là những cuốn sách về môn chơi bài bridge được chất giống như cây tháp, y hệt như cây tháp ở nhà, bên cạnh giường ngủ.

Trong một thời gian khá lâu, mẹ tôi không kể cho bất cứ một ai câu chuyện trên; mãi mấy tháng sau đó, một buổi tối ngồi bói bài, hút thuốc, coi tivi từ một khóe con mắt, và khi tôi từ trong phòng riêng ra góp chuyện với mẹ, bất thình lình bà kể cho tôi hay. Thấy tôi đau lòng, bà chỉ kể vắn tắt. Mỗi lần nhớ tới câu chuyện này, hình ảnh một căn nhà thứ nhì mà cha tôi hằng ngày về ở vẫn làm tôi rùng mình; như thể cha tôi đã làm được điều mà tôi không bao giờ làm nổi – ông đã tìm được con người kép, kẻ sinh đôi của ông, và không phải ông tới căn nhà thứ hai để gặp cô bồ nhí, mà để gặp kẻ sinh đôi của ông; ảo ảnh này chỉ làm tôi nhận ra rằng có một trống vắng lớn ở trong cuộc đời tôi, ở trong tâm hồn tôi.

“Muốn gì thì muốn, con cũng phải học xong đại học,“ mẹ tôi vừa nói vừa trải những lá bài xuống mặt bàn. “Con không thể nuôi thân bằng cái nghề vẽ tranh; con phải kiếm một việc làm. Gia đình chúng ta đâu có giàu có như ngày xưa.“

“Không phải như vậy,“ tôi nói, đã từ lâu tôi hiểu ra rằng dù cho tôi có không làm gì trong cuộc đời thì gia đình vẫn có thể nuôi tôi.

“Con muốn nói con có thể tự nuôi sống mình bằng nghề vẽ?“

Nhìn cách mẹ tôi cáu kỉnh dụi mẩu thuốc vào cái gạt tàn, nghe giọng nói của bà, nửa chế nhạo, nửa khinh miệt và nhìn cách bà tiếp tục xào bài trong khi nói về một vấn đề quan trọng như vậy, tôi cảm thấy giông tố sắp sửa nổ ra.

“Đây đâu phải Paris, mà là Istanbul,“ mẹ tôi nói, giọng có vẻ hạnh phúc vì chuyện đó. “Ngay cả nếu con là nghệ sĩ số một trên thế giới thì cũng chẳng ai thèm để ý gì đến con, dù chỉ một mảy may. Con sẽ trải qua cuộc đời của con một mình, cô đơn vòi või. Chẳng ai hiểu cho con tại sao bỏ hết cả một tương lai sáng sủa để vẽ tranh. Giả như xã hội của chúng ta là một xã hội giàu có, trọng nghệ sĩ, trọng hội họa – nếu thế thật thì tại sao lại không? Nhưng ngay cả ở Âu châu, ai cũng biết rằng những thứ họa sĩ như Van Gogh và Gauguin nghèo rớt mồng tơi.“

Chắc chắn mẹ tôi đã từng nghe tất cả những câu chuyện cha tôi kể về văn chương hiện sinh mà ông mê mẩn vào thập niên 1950. Có một cuốn từ điển bách khoa – những trang sách ở trong đó bây giờ vàng ố, tơi tả – mà mẹ tôi vẫn thường mở ra tra cứu một số sự kiện một cách đầy tin tưởng, một thói quen giờ đây khiến tôi thấy thật nực cười.

“Có phải cuốn Petit Larousse của mẹ viết rằng mọi nghệ sĩ đều điên khùng?“

“Ôi, cái đó thực sự mẹ không biết, con trai của mẹ. Nếu một người rất có tài, chịu khó làm việc, và nếu may mắn, có thể người đó sẽ nổi tiếng ở Âu châu. Nhưng ở Thổ Nhĩ Kỳ, thì không khùng cũng điên thôi. Đừng nghĩ sai đi về những điều mẹ nói. Mẹ nói những điều ấy chỉ là để sau này con không cảm thấy ân hận.“

Nhưng đâu cần sau này, mà ngay bây giờ, tôi đã cảm thấy ân hận rồi; không những thế, mẹ tôi nói những điều làm tôi đau lòng đến như thế mà vẫn cứ vô tư xào đi xào lại mấy lá bài.

“Sự thực, mẹ tính rủa con điều gì? Mẹ nói luôn ra đi.“ Tôi nói, hy vọng bà sẽ nói điều gì đó làm tôi đau đớn hơn nữa.

“Mẹ không muốn bất cứ ai nói con có vấn đề về tâm lý,“ mẹ tôi nói. “Chính vì vậy mẹ không nói với bạn bè mẹ là con bỏ học. Họ không phải là những người hiểu được tại sao một người như con lại quyết định bỏ ngang việc học đại học để trở thành họa sĩ. Họ nghĩ con không bình thường; họ nói đằng sau lưng con những chuyện như vậy.“

“Mẹ có thể nói với bạn của mẹ bất cứ điều gì mẹ muốn,“ tôi nói. “Con thà mất tất cả, chứ không muốn trở nên ngu đần như họ.“

“Con sẽ không làm những chuyện bậy bạ như vậy,“ mẹ tôi nói. “Xét cho cùng thì con vẫn chỉ làm đúng cái việc con từng làm hồi nhỏ thôi: xách túi lên và lủi khỏi trường học.“

“Con không muốn trở thành kiến trúc sư, cái đó thì con biết rất rõ.“

“Hãy cứ học thêm hai năm nữa, con trai ạ, lấy mảnh bằng đại học, rồi sau đó tùy con quyết định trở thành kiến trúc sư hay họa sĩ.“

“Không.“

“Mẹ nói cho con biết Nurcihan nói gì khi biết con tính bỏ ngang đại học để trở thành họa sĩ nhé?“ Mẹ tôi nói, và tôi biết mẹ đang dùng ý kiến của một người bạn vô nghĩa lý của bà để tìm cách làm tôi bị tổn thương. “Thằng con trai của chị nó khùng là bởi vì nhìn thấy ông bô bà bô cãi lộn tối ngày, và vì ông bô cả đời chạy theo gái – Nurcihan nói vậy đấy.“

“Con chẳng thèm để ý đến đám bè bạn óc bé như quả nho của mẹ nghĩ gì về con!“ tôi la lớn. Ngay cả khi biết rất rõ rằng bà đang chọc quê mình, tôi vẫn bước ngay vô bẫy, tự mình chuyển từ đóng trò qua giận dữ thực sự.

“Con rất kiêu ngạo, con của mẹ,“ mẹ tôi nói. “Nhưng mẹ thích con như vậy. Bởi vì ở đời, quan trọng không phải là cái thứ nghệ thuật vô nghĩa mà con say mê, hay bất cứ thứ nào khác mà mẹ không biết, mà là sự kiêu ngạo. Có rất nhiều người ở Âu châu trở thành nghệ sĩ bởi vì họ kiêu ngạo và đáng kính. Ở Âu châu, họ không nghĩ về một nghệ sĩ như là một nhà buôn hay là một tên móc túi, họ đối xử với nghệ sĩ như đây là một thứ người đặc biệt. Nhưng con có nghĩ rằng ở một xứ sở như đây con có thể là nghệ sĩ mà vẫn giữ được sự kiêu ngạo về mình? Để được những con người ở đây chấp nhận, những con người chẳng hề biết nghệ thuật là cái gì, để được họ mua tác phẩm của con, con phải bợ đỡ, xu nịnh nhà nước, đám giàu có, và tệ hại nhất trong những tệ hại, con phải hạ mình với đám ký giả. Liệu con có làm được như thế không?“

Cơn giận dữ làm tôi quay cuồng đến mất hết bình tĩnh; tôi cảm thấy một ham muốn cháy bỏng – mức độ mạnh mẽ tới mức chính tôi cũng kinh ngạc – là được rời khỏi nhà chạy ra đường. Nhưng tôi cố cưỡng lại, biết rằng nếu mình tiếp tục ở lại đây dù chỉ thêm một lúc nữa thôi để tiến hành cuộc chiến đấu bằng lời này, hủy diệt nhiều tới mức nào tôi có thể, nổi loạn với tất cả sức lực, ban phát đau thương và nhận về đau thương, thì sau khi cả hai mẹ con đã trút hết tất cả những gì tệ hại nhất của mỗi bên, tôi vẫn có thể lao mình vào đêm đen bẩn thỉu tới những con phố nhỏ. Đôi chân tôi sẽ đưa tôi lên xuống những vỉa hè khấp khểnh, qua những ngọn đèn đường nhợt nhạt, hay chẳng có ánh đèn đường, tới với nỗi buồn của những lối đi hẹp rải sỏi, và tại đó, tôi sẽ tha hồ thưởng thức một thứ hạnh phúc bệnh hoạn vì thấy mình thuộc về một nơi chốn buồn thiu, nhơ bẩn, và nghèo đói. Đi mà chẳng biết tới đâu, sùng sục một nỗi hờn oán, giận dữ, những ý nghĩ và hình ảnh cứ thế qua đi giống như những hình tượng trong một vở kịch, khi tôi mơ tưởng về những điều lớn lao mình sẽ thực hiện một ngày nào đó.

“Hãy nhìn Flaubert, suốt đời sống cùng với bà mẹ trong cùng một căn nhà!“ mẹ tôi tiếp tục bằng một giọng nửa yêu thương, dẫn dụ, nửa khinh khi, chế nhạo, trong khi vẫn thận trọng nghiền ngẫm các lá bài. “Còn mẹ, mẹ không muốn con trải qua suốt cuộc đời sống cùng mẹ trong cùng một căn nhà. Đây đâu phải nước Pháp. Ở đây, một họa sĩ bỏ ngang học hành và sống bám váy mẹ cuối cùng sẽ trở thành một tên nghiện rượu hoặc tàn đời trong nhà thương điên.“ Và rồi, bà đổi chiến thuật, bồi thêm một cú nữa: “Nếu con có một nghề nghiệp, tin mẹ đi, thì con sẽ còn thích vẽ tranh hơn nữa cơ.“

Tại sao chính vào những giờ phút bất hạnh, cáu giận, và thê lương ấy, tôi lại có thể tìm thấy niềm vui ở những buổi tản bộ buổi tối qua những con phố hoang tàn, đổ nát, và bạn đường chỉ là những giấc mơ của tôi? Tại sao, thay vì những cảnh đẹp huy hoàng, ngợp nắng như trong những tấm bưu thiếp du khách đều mê, tôi lại chọn những con phố nhỏ tối tăm, những buổi chiều và những buổi tối mùa đông giá lạnh, những con người như những bóng ma dưới ánh dèn đường nhợt nhạt, những cảnh tượng sỏi đá và sự hiu quạnh của chúng?

“Nếu không trở thành một kiến trúc sư hoặc tìm ra một con đường nào đó để tự nuôi sống, con sẽ trở thành một trong những tên nghệ sĩ Thổ nghèo khổ, điên khùng, những kẻ không có một cách nào khác ngoài sống nhờ lòng hảo tâm của đám người giàu có, và những kẻ có quyền thế – con có hiểu không hả? Dĩ nhiên là con hiểu – ở cái xứ sở này, không ai có thể sống bằng những bức tranh. Con sẽ sống lay lắt, bị khinh miệt, cảm thấy đời mình thê lương, ảm đạm, và sẽ trải qua hết cuộc đời của mình trong mặc cảm, thua thiệt, không lẽ đó là cuộc sống xứng đáng với con, một con người thông minh, đáng yêu, tràn đầy nhựa sống?“

Tôi đi xuống khu Beşiktaş, dọc theo những bức tường Cung điện Dolmabahçe tới sân vận động, đến chỗ trạm dolmuş. Tôi thích đi bộ dọc theo những bức tường cung điện cổ lỗ rong rêu cao ngất ấy vào ban đêm. Tôi sẽ cảm thấy cơn giận đập thình thình như những tiếng trống trận, mỗi lúc một thêm dữ dằn cho tới lúc tôi tới Dolmabahçe, và từ đó, tôi đi lên một lối nhỏ và chừng mươi phút sau, tôi sẽ thấy mình ở khu Taksim.

“Khi con còn nhỏ, ngay cả những lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ, con vẫn luôn tươi cười, vui vẻ, yêu đời, lạc quan – ôi, con mới là một đứa bé trai đáng yêu làm sao. Ai nhìn thấy con cũng phải mỉm cười. Không phải vì con xinh xắn, mà vì con không biết buồn nghĩa là gì. Chẳng bao giờ thấy con buồn chán, ngay cả vào những lúc tệ hại nhất, con vẫn kiếm ra được một cách để mà vui chơi hàng giờ đồng hồ; con luôn luôn vui vẻ sôi động như thế. Một con người như vậy mà lại trở thành một nghệ sĩ có trí óc trục trặc, với một cuộc sống thê lương đành phải cúi đầu trước kẻ giàu có – ngay cả, nếu mẹ không phải là mẹ của con, mẹ cũng không thể nào chịu được. Chính vì vậy, mẹ muốn con hãy lắng nghe lời mẹ và đừng bực bội, đừng nổi sùng.“

Trên đường đi lên tới Taksim, tôi ngưng một chốc lát nhìn những ánh đèn Galata, cây cầu khuất chìm trong bóng tối, rồi nhằm hướng Beyoğlu để lân la vài phút trước những quầy sách ở đầu đại lộ Istiklâl, và sau đó, ghé làm một ly bia trộn vodka tại một quán bar, nơi âm thanh chiếc tivi trộn lẫn với tiếng ồn của một đám đông ầm ĩ, và hút một điếu thuốc, như mọi người ở đây đều làm (tôi nhìn quanh coi có bóng nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng nào không), và, nhận ra rằng, bộ mặt con nít của tôi coi bộ không hợp với đám đàn ông để râu – bởi vì tôi đưa mắt nhìn quanh, và vì bộ mặt trẻ con của tôi, và cô đơn một mình – thế là tôi lại bỏ ra ngoài lẩn vào đêm đen. Sau khi đi xuống đại lộ một lát, tôi nhắm những con phố nhỏ của Beyoğlu, và sau đó, tôi tới khu Çukurcuma, Galata, Cihangir, và tôi ngưng lại một lúc để nhìn quầng sáng của những ngọn đèn đường và ánh sáng từ chiếc màn hình tivi gần chỗ tôi đứng lung linh trên hè đường ướt át, và có thể, trong khi nhìn vô một cửa tiệm bán đồ cũ để coi chiếc tủ lạnh mà người chủ dùng làm chỗ bày hàng kề bên cửa sổ, một tiệm bán thuốc tây vẫn sử dụng những hình ma nơ canh từ thời tôi còn là một đứa bé, và tôi chợt phát giác ra, khi đó mình hạnh phúc biết bao. Cơn giận dữ tuyệt vời, choáng váng, tinh khiết khi nghe mẹ tôi xỉ vả đã khiến tôi lang thang cả tiếng đồng hồ nơi những con phố nhỏ của Beyoğlu – hay là mình đi tới Üsküdar, và thử lang thang nơi những con phố nhỏ của Fatih? – bất cứ nơi nào tôi tới, mỗi lúc một thấy lạnh hơn, tôi đều cảm thấy mình ấm áp hẳn lên bởi ngọn lửa nóng bỏng, giận dữ của một tương lai sáng ngời. Tới khi ấy đầu óc tôi đã nhẹ bẫng vì ly bia và cuốc đi bộ dài, và những con phố não nùng trông thật lung linh như trong một bộ phim cũ, một khoảnh khắc tôi chợt muốn đóng băng, và lẩn trốn ở một nơi nào đó – như những lần tôi giữ một trái cây, một viên bi mà tôi yêu thích ở trong miệng hàng giờ đồng hồ – và cùng lúc, tôi muốn rời tức thời những con phố vắng ngắt, trở về nhà, ngồi xuống bàn, cầm cây bút chì để viết hoặc vẽ.

“Bức tranh treo trên tường kia là của Nermin và Ali cho cha mẹ làm quà đám cưới, khi cha mẹ lấy nhau. Khi họ lấy nhau, tới lượt cha mẹ tới gặp nhà họa sĩ nổi tiếng để mua tranh mừng họ đáp lễ. Nếu con chứng kiến cảnh tượng nhà họa sĩ trứ danh người Thổ mừng rỡ như thế nào khi có người đến tận nhà ông ta để mua tranh, cảnh ông xun xoe, những cử chỉ lố bịch nhằm che giấu niềm vui, hay cảnh ông cúi rạp người tiễn cha mẹ ra về, con sẽ chẳng bao giờ mong muốn bất cứ ai trở thành họa sĩ ở trong xứ sở này. Đó là lý do mẹ không nói với bất cứ ai về chuyện con muốn bỏ học để trở thành họa sĩ. Những người mà con vừa mới chê bai óc nhỏ như quả nho, một ngày nào đó, con sẽ phải bán tranh cho họ. Khi họ biết con đã bỏ học để trở thành họa sĩ, con đã bôi đen tương lai của con, họ sẽ mua giùm con tranh, một bức, hai bức, chỉ vì lòng từ thiện, hoặc chỉ để cho thấy, mẹ và cha của con nhỏ nhoi làm sao, hoặc họ sẽ thương hại con và thay vì mua tranh thì cho con tí tiền. Nhưng chắc chắn là không hề có người nào trong số đó để cho con gái của mình lấy con. Cô gái xinh đẹp mà con vẽ tranh, con hiểu tại sao cha me nó tống nó đi Thụy Sĩ không? Trong một xứ sở nghèo đói như của chúng ta, giữa đám người yếu hèn thất bại, vô học, để có một cuộc đời mà con xứng đáng có, để không bị đè bẹp gí, để có thể ngẩng cao đầu, con phải giàu có. Bởi vậy, đừng bỏ học kiến trúc, nghe con. Con sẽ đau khổ vô cùng, nếu bỏ học. Hãy nhìn Le Corbusier. Ông ta muốn là một họa sĩ, nhưng ông ta lại học kiến trúc.“

Những con phố Beyoğlu, những góc đường u tối của nó, nỗi ước mong chạy ra ngoài đường, bỏ chạy, niềm tội lỗi, ân hận của tôi, chúng chớp chớp nháy nháy, giống như những ánh đèn nê ông ở trong đầu tôi. Tôi biết, tối nay, giữa mẹ tôi và tôi sẽ không có cuộc cãi lộn, đụng độ. Trong vài phút nữa, tôi sẽ mở cửa, lao vào đêm, chạy trốn vào những con phố, chúng vỗ về, an ủi tôi, tôi sẽ đi cho đến quá nửa đêm, và tôi sẽ trở về nhà, ngồi xuống bàn, và sẽ tóm bắt linh hồn của những con phố, biến sỏi đá của chúng thành những cơn đau…

“Tôi không muốn là một họa sĩ. Tôi sẽ trở thành một nhà văn.“