Chương VIII BĂNG QUA NHỮNG HANG ĐỘNG HÔI THỐI
Thẳng về hướng bắc, ngày và đêm, la bàn định hướng dẫn chúng tôi theo chiếc máy bay bỏ trốn trên đó vẫn là nhóm người hệt như lúc nó rời khỏi pháo đài của bọn tu sĩ lần đầu.
Vào đầu đêm thứ hai, chúng tôi nhận thấy không khí bắt đầu lạnh hơn rõ rệt, và từ khoảng cách chúng tôi đã đi được từ vùng xích đạo, có thể chắc chắn rằng chúng tôi đang nhanh chóng tới gần khu vực bắc cực.
Kiến thức của tôi về những nỗ lực đã được thực hiện trong vô số cuộc thám hiểm để khám phá vùng đất chưa ai biết tới đó buộc tôi phải cảnh giác, vì chưa từng có phi công nào vượt qua khoảng cách xa xôi bên ngoài cái lũy chắn bằng băng bao bọc quanh phía nam miền băng giá này có thể quay về.
Không ai biết được kết cục của họ ra sao - chỉ biết rằng họ đã biến mất mãi mãi khỏi tầm mắt của con người sau khi đi vào vùng đất địa cực bí ẩn khắc nghiệt này.
Một chiếc máy bay bay nhanh có thể vượt qua khoảng cách từ cái lũy chắn cho tới địa cực trong vài giờ. Người ta cho rằng một tai ương đáng sợ nào đó đang chờ đón những ai đi tới “miền đất cấm” - cái tên mà những người Hỏa tinh ở thế giới bên ngoài gọi nó.
Do vậy, tôi bay chậm lại khi tới gần cái lũy chắn. Tôi dự định là sẽ di chuyển một cách thận trọng, vượt qua cái lũy băng đó trong ánh sáng ban ngày để có thể phát hiện trước khi tôi rơi vào một cái bẫy nếu thật sự có một đất nước có dân cư nằm ở miền bắc cực, vì tôi chỉ có thể tưởng tượng ra một địa điểm nơi Matai Shang có thể cảm thấy an toàn thoát khỏi tay John Carter xứ Helium.
Chúng tôi bay chậm như ốc sên bò, chỉ cách mặt đất vài bộ, mò mẫm tìm đường băng qua bóng tối, vì cả hai vầng trăng đều lặn, và đêm đen như mực với những đám mây chỉ có thể tìm thấy ở hai đầu địa cực Hỏa tinh.
Một bức tường trắng cao lớn đột ngột dựng lên ngay trên đường tiến của chúng tôi. Dù tôi bẻ nhanh bánh lái để bảo toàn chiếc máy bay, cũng đã quá muộn để có thể tránh một cú va chạm. Chúng tôi đâm sầm vào vật cản cao lớn lờ mờ đó.
Chiếc máy bay lật nghiêng, động cơ ngưng hoạt động, bồn chứa tia đẩy bốc cháy, và chúng tôi lao chúi đầu xuống mặt đất cách hai mươi bộ bên dưới.
Thật may, không ai bị thương cả, và khi chúng tôi loay hoay bò ra khỏi chiếc máy bay hỏng, vầng trăng nhỏ mọc lại ở chân trời. Chúng tôi nhận ra mình đang ở dưới chân của một lũy chắn to lớn bằng băng, từ đó trồi lên những ngọn đồi đá hoa cương ngăn không cho nó lấn thêm về hướng nam.
Định mệnh thật trớ trêu! Hành trình đã hầu như hoàn tất lại bị phá hỏng ngay phía bên này bức tường đá và băng dựng đứng, không thể trèo qua.
Tôi nhìn Thuvan Dihn. Ông ta chỉ lắc đầu.
Suốt phần đêm còn lại, chúng tôi run cầm cập trong những lớp lụa và da thú trên mặt tuyết dưới chân cái lũy băng.
Với ánh ngày lên, tinh thần mòn mỏi của tôi có lại chút hy vọng quen thuộc, dù tôi phải thừa nhận rằng chúng quá đỗi ít oi.
Thuvan Dihn hỏi:
“Chúng ta phải làm gì? Làm sao chúng ta vượt qua cái rào chắn không thể vượt qua này?”
“Trước hết chúng ta phải chứng minh là không phải không thể vượt qua nó,” tôi đáp. “Tôi cũng không thừa nhận là nó không thể vượt qua trước khi tôi đi một vòng quanh nó và lại đứng ngay chỗ này, tuyệt vọng. Chúng ta nên khởi sự càng sớm càng tốt, vì tôi thấy không còn cách nào khác, và chúng ta sẽ phải mất một tháng để đi hết nhiều dặm mệt mỏi băng giá nằm trước mặt.”
Suốt năm ngày lạnh cóng, khổ sở và thiếu thốn, chúng tôi vượt qua con đường gập ghềnh băng giá nằm dưới chân cái lũy băng. Những sinh vật có lông dữ tợn tấn công chúng tôi cả ban ngày lẫn ban đêm. Chúng tôi không có một khoảnh khắc an toàn nào trước sự tấn công đột ngột của một con thú to lớn nào đó ở miền bắc.
Khỉ đột là kẻ thù thường xuyên và nguy hiểm nhất của chúng tôi.
Nó là một sinh vật khổng lồ, lông trắng, có sáu chi, trong đó bốn chi ngắn vạm vỡ đưa nó đi rất nhanh qua mặt tuyết và băng, hai chi còn lại mọc ra từ vai ở hai bên cái cổ dài mạnh mẽ, kết thúc với những bàn tay trắng, không có lông mà nó dùng để tóm và giữ con mồi.
Đầu và mồm của nó tương tự như của một con hà mã hơn bất kỳ thứ sinh vật trái đất nào khác, ngoại trừ việc từ hai bên của cái xương hàm dưới có hai cái sừng uốn cong về phía trước.
Đôi mắt to tướng của nó khiến tôi tò mò nhất. Chúng mở rộng thành hai phiến to hình bầu dục từ giữa đỉnh sọ ở hai phía đầu cho tới tận gốc của cặp sừng. Thế nên hai thứ vũ khí này thật sự mọc ra từ phần dưới của hai mắt. Mỗi con mắt bao gồm hàng ngàn con mắt đơn.
Cấu trúc mắt này có vẻ đáng chú ý ở một con thú cư ngụ trên một cánh đồng băng tuyết sáng lòa, và dù qua những kiểm tra tỉ mỉ nhiều con khỉ đột mà chúng tôi đã giết, tôi nhận ra rằng mỗi con mắt đơn có mí mắt riêng, và con vật có thể nhắm bao nhiêu con mắt đơn trong cặp mắt kép to của nó tùy ý, tôi tin chắc rằng thiên nhiên đã trang bị cho nó như thế vì hầu hết cuộc đời của nó trải qua trong những nơi hẻo lánh âm u trong lòng đất.
Hiện giờ chúng tôi đang đối đầu với con khỉ đột lớn nhất từ trước tới nay. Vai con vật cao tới tám bộ, trông sạch sẽ, bóng mượt tới mức tôi có thể thề rằng nó vừa mới được chải lông.
Nó đứng dán mắt vào chúng tôi trong lúc chúng tôi tiến tới gần, vì chúng tôi nhận thấy chỉ phí thì giờ khi cố tẩu thoát khỏi sự giận dữ tàn bạo dường như luôn chiếm hữu những sinh vật quỷ quái này. Chúng đi lang thang khắp vùng đất miền bắc ảm đạm, tấn công mọi sinh vật lọt vào cặp mắt có thể nhìn rất xa của chúng.
Ngay cả khi no căng bụng, không thể ăn thêm, chúng cũng giết chóc chỉ vì niềm vui khi tước đoạt đi sự sống, vì thế khi con khỉ đột này không tấn công chúng tôi và quay lưng bỏ chạy lúc chúng tôi tới gần, tôi sẽ rất kinh ngạc nếu như không tình cờ thoáng nhìn thấy ánh lấp lánh của một cái vòng cổ bằng vàng quanh cổ nó.
Cả Thuvan Dihn cũng trông thấy cái vòng cổ, và nó mang tới cùng một thông điệp tràn trề hy vọng cho cả hai chúng tôi. Chỉ có con người mới có thể đặt cái vòng cổ lên đó, và không có chủng người sao Hỏa nào mà chúng tôi biết từng nỗ lực thuần hóa loài khỉ đột dữ dằn, nó phải thuộc về một giống người ở miền bắc, những người mà chúng tôi chưa biết gì về sự tồn tại của họ - có thể đó là những người da vàng trong truyền thuyết của Barsoom; chủng tộc một thời hùng mạnh và được cho là đã tuyệt chủng, dù đôi khi, theo các lý thuyết gia, vẫn còn tồn tại ở vùng cực bắc giá băng.
Trong lúc này, chúng tôi theo dấu của con thú lớn. Woola nhanh chóng hiểu ra mong muốn của chúng tôi, vì thế không nhất thiết phải cố dõi mắt theo con thú đang chạy rất nhanh trên mặt đất gồ ghề và chẳng bao lâu đã ra khỏi tầm mắt của chúng tôi.
Trong suốt hai giờ, con đường mòn đi song song với bức lũy, rồi đột ngột ngoặt về phía nó qua một vùng đất gồ ghề và dường như không thể vượt qua mà tôi từng nhìn thấy.
Những tảng đá hoa cương khổng lồ khóa kín con đường từ mọi phía; những khe nứt sâu trên mặt băng đe dọa sẽ nhấn chìm chúng tôi trong mỗi bước chân không đặt đúng chỗ; và từ hướng bắc một làn gió nhẹ hắt vào mũi chúng tôi một mùi hôi thối suýt làm chúng tôi mắc nghẹn.
Trong hai giờ kế tiếp, chúng tôi dành hết tâm trí để đi qua khoảng cách vài trăm thước Anh tới chân của bức lũy.
Sau đó, ngoặt theo một góc của vách đá hoa cương trông như một bức tường thành, chúng tôi đi tới một khu vực bằng phẳng rộng chừng hai ba mẫu Anh ở phía trước bệ của khối băng và đá lớn đã ngăn trở chúng tôi suốt nhiều ngày nay, và trước mặt chúng tôi là một cửa hang tăm tối.
Mùi hôi thối thoát ra từ cái cửa hang này, và khi Thuvan Dihn nhìn thấy nó, ông dừng lại với một tiếng kêu vô cùng kinh ngạc:
“Nhờ ơn tất cả tổ tiên của tôi! Tôi đã sống để chứng kiến sự có thật của Những Hang Động Hôi Thối huyền thoại! Nếu đây thật sự là chúng, chúng ta sẽ tìm được một con đường đi ngang qua bức lũy băng.
“Biên niên sử cổ xưa của những sử gia đầu tiên ở Barsoom - cổ xưa đến nỗi suốt nhiều thế kỷ chúng tôi đã xem chúng là huyền thoại - ghi chép lại về cuộc di cư của người da vàng để thoát khỏi những cuộc cướp phá của các bầy người da xanh lan tràn khắp Barsoom khi sự khô cạn các đại đương lớn đã xua đuổi các chủng tộc thống trị đó khỏi các thành trì của họ.
“Chúng kể về các cuộc hành trình của số người còn lại của chủng tộc một thời hùng mạnh này, bị quất rối liên tục, cho tới khi họ tìm được một con đường xuyên qua bức lũy băng của miền bắc để đi vào một thung lũng trù phú ở địa cực.
“Ở cửa ngỏ đi vào con đường ngầm dẫn tới nơi trú ẩn của họ đã diễn ra một trận đánh lớn và người da vàng đã chiến thắng, và trong những hang động mở đường tới quê hương mới của họ, họ đã chất những thi thể của cả người da vàng lẫn da xanh, để mùi hôi thối cảnh cáo kẻ thù của họ đừng truy đuổi xa hơn.
“Và kể từ cái ngày xa xăm đó, những người chết ở miền đất truyền thuyết này được mang tới Những Hang Động Hôi Thối, để trong cái chết và sự thối rữa họ vẫn phục vụ cho đất nước và xua đuổi các kẻ thù xâm lược. Theo truyền thuyết, tất cả mọi thứ rác rưởi bỏ đi của quốc gia - tất cả mọi thứ bị phân hủy, và có thể bổ sung cho mùi hôi thối đang tấn công lỗ mũi của chúng ta - đều được mang tới chỗ này.
“Và cái chết lẩn lút trong từng bước đi giữa những xác chết thối rữa, vì những con khỉ đột dữ tợn làm hang ổ tại đây, bổ sung thêm cho việc tích lũy mùi hôi thối với những mảnh thịt của con mồi mà chúng không ăn hết. Đây là một con đường khủng khiếp để đi tới mục tiêu của chúng ta, nhưng nó là con đường duy nhất.”
Tôi kêu lên:
“Vậy ông chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra con đường tới miền đất của người da vàng?”
“Có thể chắc chắn phần nào,” ông ta đáp, “khi chỉ có truyền thuyết cổ xưa để củng cố cho niềm tin của tôi. Nhưng cho tới lúc này, mỗi tình tiết đều rất gần với câu chuyện cũ về kỷ nguyên của chủng tộc da vàng. Phải, tôi chắc rằng chúng ta sẽ phát hiện ra con đường đi tới nơi ẩn náu cổ xưa của họ.”
“Nếu đó là sự thật, chúng ta hãy cầu nguyện cho trường hợp đó. Có thể ở đây chúng ta sẽ vén mở được bí mật trong sự mất tích của Tardos Mors, vua xứ Helium và Mors Kajak, con trai của ông, vì không còn nơi nào khác trên Barsoom chưa được khám phá bởi nhiều chuyến thám hiểm và vô số gián điệp đã tìm kiếm họ gần hai năm nay. Lời cuối cùng đến từ họ là họ đã đi tìm Carthoris, đứa con trai dũng cảm của tôi, ở mé ngoài bức lũy băng.”
Trong lúc trò chuyện, chúng tôi đã tới cửa hang. Khi bước qua cửa hang, tôi dừng lại để tự hỏi phải chăng những kẻ thù da xanh cũ của người da vàng đã bị ngăn lại bởi những sự kinh hoàng của con đường này.
Xương của những người chết chất cao trên nền hang rộng thứ nhất, và khắp nơi là chất sền sệt của thịt bị rã nát. Lũ khỉ đột đã mở một con đường ghê tởm qua đó để tới cái hang thứ hai.
Mái của cái hang đầu tiên này thấp, những cái hang sau đó chúng tôi đi qua cũng vậy. Vì vậy mùi thối đậm đặc và nồng nặc tới mức dường như chúng là một vật chất hữu hình. Gần như người ta bị thôi thúc phải rút thanh đoản kiếm ra và xẻ đường để tìm kiếm không khí trong lành ở mé ngoài.
Thuvan Dihn hỏi, nghèn nghẹn:
“Con người có thể hít thứ không khí ô nhiễm này mà vẫn sống không nhỉ?”
“Tôi cho là không lâu lắm,” tôi đáp. “Vì vậy chúng ta phải vội lên. Tôi sẽ đi trước, ông đi chặn hậu, còn Woola đi giữa.” Nói xong, tôi lao tới trước qua đống xương thịt thối rữa tanh hôi.
Chúng tôi đi qua bảy cái hang có kích thước khác nhau nhưng mùi tanh hôi thì vẫn nồng nặc và không gặp một sự trở ngăn vật chất nào. Thế rồi, trong cái hang thứ tám, chúng tôi bắt gặp cả một ổ khỉ đột.
Có tới hai mươi con thú to lớn trong hang. Một số đang ngủ, số khác đang bứt xé các xác chết còn tươi của con mồi vừa mang về, hoặc đánh nhau trong lúc giao phối.
Tại đây, trong ánh sáng lờ mờ của ngôi nhà dưới lòng đất, giá trị của những con mắt to tướng của chúng rất rõ ràng, vì những cái hang phía trong này chỉ thua bóng tối như mực chừng đôi chút.
Việc cố đi qua bầy quái thú hung tợn đó là một chuyện cực kỳ điên rồ, ngay cả đối với tôi. Vì thế tôi đề nghị với Thuvan Dihn rằng ông ta nên trở về thế giới bên ngoài với Woola, rằng cả hai có thể tìm đường về chốn văn minh và quay lại với một lực lượng không chỉ đủ để vượt qua đàn khỉ đột mà cả bất kỳ chướng ngại nào khác có thể nằm giữa chúng tôi và mục tiêu.
“Trong lúc đó,” tôi nói tiếp, “tôi có thể tìm ra một phương tiện nào đó để một mình tìm đường tới miền đất của người da vàng. Nhưng nếu tôi thất bại, chỉ phải hy sinh một mạng sống. Nếu cả nhóm chúng ta tiếp tục đi và bỏ mạng, sẽ không có ai để hướng dẫn một đoàn quân để cứu viện cho Dejah Thoris và con gái của ông.”
“Tôi sẽ không quay lại và bỏ mặc anh một mình, John Carter,” Thuvan Dihn đáp. “Dù anh đi tới thắng lợi hay cái chết, vua xứ Ptarth vẫn sát cánh bên anh. Tôi đã nói xong.”
Từ giọng nói của ông ta, tôi biết có cố bàn cãi vấn đề cũng chỉ vô ích mà thôi. Vì vậy tôi thỏa hiệp bằng cách cử Woola trở lại với một lá thư viết vội được cất trong một cái hộp kim loại nhỏ và cột vào cổ nó. Tôi lệnh cho con vật trung thành đi tìm Carthoris ở Helium, và dù cả nửa thế giới cùng vô số nguy hiểm nằm ở giữa, tôi biết nếu công việc này có thể thực hiện được thì Woola sẽ thực hiện nó.
Được thiên nhiên trang bị cho tốc độ và sự đẻo dai, và với sự dữ tợn đáng sợ không thua kém bất kỳ một kẻ thù đơn lẻ nào trên đường, trí thông minh và bản năng kỳ diệu của nó sẽ thực hiện dễ dàng mọi nhiệm vụ cần thiết khác để hoàn thành sứ mệnh.
Rõ ràng con vật to lớn rất miễn cưỡng rời khỏi tôi theo mệnh lệnh, và trước khi nó đi, tôi không thể cưỡng lại mong muốn vòng tay quanh cổ nó với một cái ôm từ biệt. Nó cọ má vào má tôi với một cử chỉ âu yếm lần cuối, và giây lát sau đã nhanh chóng băng qua những cái hang hôi thối để tìm về thế giới bên ngoài.
Trong lá thư gửi cho Carthoris, tôi đã đưa ra những hướng dẫn rõ ràng để xác định vị trí của Những Hang Động Hôi Thối. Nhấn mạnh với nó sự cần thiết phải tìm đường tới vùng đất mé ngoài qua con đường này, và dù dưới hoàn cảnh nào cũng không được băng qua cái lũy băng với một phi đoàn. Tôi bảo nó rằng tôi không thể đoán được cái gì nằm ở bên ngoài cái hang thứ tám; nhưng tôi chắc chắn rằng ở đâu đó mé bên kia cái lũy băng, mẹ nó đang nằm trong tay của Matai Shang, có khả năng cả ông nội và ông cố của nó nữa, nếu họ còn sống.
Ngoài ra, tôi khuyên nó nên tìm tới Kulan Tith và con trai của Thuvan Dihn mượn thêm chiến binh và tàu bay để đoàn quân viễn chinh đủ mạnh và có thể thành công ngay ở đợt tấn công đầu.
Tôi kết luận, “Và nếu có thời gian hãy đưa Tars Tarkas đi cùng con, vì nếu cha còn sống cho tới lúc gặp con, cha không thể nghĩ tới niềm vui nào lớn hơn là được một lần nữa chiến đấu sát cánh với người bạn cũ của cha.”
Khi Woola đã lên đường, Thuvan Dihn và tôi nấp trong cái hang thứ bảy, thảo luận và vạch ra nhiều kế hoạch để băng qua cái hang thứ tám. Từ chỗ đang đứng, chúng tôi thấy rằng cuộc đánh nhau giữa lũ khỉ đột đã giảm xuống và nhiều con ăn no đã thôi giành giật nhau và nằm xuống ngủ.
Lúc này, rõ ràng là chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả những con quái thú hung tợn có thể nằm ngủ một cách an bình, và đó là một cơ hội mạo hiểm để chúng tôi băng qua hang ổ của chúng.
Những con thú còn lại lần lượt duỗi người ra trên lớp thịt thối rữa che phủ những cái xương trên nền hang động, cho tới khi chỉ còn một con thức giấc. Con vật to lớn này đi tới đi lui, hít ngửi các bạn của nó và những thứ rác rưởi hôi thối trong hang.
Thỉnh thoảng, nó dừng lại để nhìn chăm chú, đầu tiên là một trong các lối thoát từ cái hang, rồi sau đó là lối thoát khác. Hành vi của nó giống như của một kẻ đang làm nhiệm vụ canh gác.
Rốt cuộc chúng tôi buộc phải tin rằng nó sẽ không ngủ trong lúc mấy con khác trong bầy ngủ. Thế là chúng tôi nặn óc tìm một kế hoạch để lừa nó. Cuối cùng, tôi đề xuất với Thuvan Dihn một kế hoạch, và vì có vẻ nó cũng tốt không kém bất kỳ kế hoạch nào chúng tôi đã thảo luận, chúng tôi quyết định thử nghiệm nó.
Để thực hiện mục đích này, Thuvan Dihn tiến tới sát vách động, bên cạnh lối vào cái hang thứ tám, trong lúc tôi cố tình lộ diện trước con khỉ canh gác khi nó nhìn về phía chúng tôi. Rồi tôi lao tới phía đối diện của lối vào, ép sát người vào vách động.
Không một tiếng động, con thú to lớn di chuyển nhanh tới cái hang thứ bảy để xem kẻ xâm nhập nào đã lọt tới tận hang ổ của nó.
Khi nó ló đầu qua cái khe hở hẹp nối liền hai hang động, một thanh trường kiếm đang chờ đợi nó, và trước khi nó có cơ hội phát ra một tiếng gầm gừ duy nhất, cái đầu đứt lìa của nó đã lăn lông lốc dưới chân chúng tôi.
Chúng tôi nhìn nhanh vào cái hang thứ tám - không có con khỉ đột nào nhúc nhích. Bò qua cái xác của con vật to lớn nằm che kín lối đi, Thuvan Dihn và tôi thận trọng bước vào cái hang đầy nguy hiểm.
Thận trọng và lặng lẽ, chúng tôi đi vòng vèo như hai con ốc sên giữa những thân hình to lớn đang nằm. Âm thanh duy nhất nổi lên trên tiếng thở là tiếng bước chân nhóp nhép của chúng tôi trong lúc chúng tôi nhấc chúng lên khỏi lớp thịt thối rữa dọc đường đi.
Ở giữa hang, một con thú nằm ngay trước mặt tôi chợt trở người đúng vào lúc bàn chân tôi giơ bên trên đầu nó vì tôi phải bước qua nó.
Tôi nín thở chờ, giữ thăng bằng trên một chân, cũng không dám nhúc nhích một bắp thịt nào. Trên tay phải tôi là thanh đoản kiếm, mũi kiếm treo lơ lửng cách lớp lông dày chừng một in-sơ mà bên dưới là quả tim đang đập của con vật.
Cuối cùng con khỉ đột nằm im lại, thở dài, như vừa qua một cơn ác mộng, và chìm vào giấc ngủ sâu. Tôi đặt bàn chân đang nhấc lên ra mé ngoài cái đầu to tướng và chỉ thoáng sau đã bước qua con thú.
Thuvan Dihn theo tôi sát gót, giây lát sau chúng tôi tới một lối ra khác, không bị phát hiện.
Những Hang Động Hôi Thối bao gồm hai mươi bảy lòng hang nối liền nhau, có vẻ như đã bị nước xói mòn ở một thời đại xa xưa nào đó, khi một dòng sông lớn tìm đường thoát về nam qua khe hở độc nhất này trên bức lũy bằng đá và băng bao quanh miền địa cực.
Thuvan Dihn và tôi đi qua mười chín cái hang còn lại một cách bình an vô sự.
Sau này chúng tôi biết rằng tất cả khỉ đột trong Những Hang Động Hôi Thối chỉ tập trung trong một cái hang duy nhất mỗi tháng một lần.
Vào những thời điểm khác, chúng vào ra mấy cái hang một mình hay thành từng cặp. Vì vậy, trên thực tế hai người đàn ông không thể vượt qua toàn bộ hai mươi bảy cái hang mà không chạm trán một con khỉ đột nào. Mỗi tháng một lần, chúng ngủ suốt cả ngày, và chúng tôi đã rất may mắn khi tình cờ vào hang đúng ngay một trong các thời điểm đó.
Bên ngoài cái hang cuối cùng, chúng tôi bước vào một vùng đất hoang vu toàn băng tuyết, nhưng tìm thấy một con đường mòn dẫn về phía bắc. Con đường rải rác đá tảng giống như ở phía nam bức lũy, vì vậy chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy một quãng cách ngắn trước mặt mỗi lần.
Hai giờ sau, chúng tôi đi ngang qua một tảng đá lớn, tới một con dốc dẫn xuống một thung lũng.
Ngay trước mặt, chúng tôi nhìn thấy sáu người đàn ông - những gã dữ dằn, râu đen, với nước da có màu vỏ chanh chín.
“Những người da vàng ở Barsoom!” Thuvan Dihn bật thốt, như thể ngay cả lúc này, khi ông đã nhìn thấy họ, ông vẫn khó mà tin rằng giống người mà chúng tôi mong đợi sẽ tìm thấy đang ẩn trốn trong vùng đất xa xôi và không thể xâm nhập này thật sự tồn tại.
Chúng tôi lui lại sau một tảng đá kế bên để quan sát những hành động của toán người này. Họ đứng túm tụm dưới chân một tảng đá to khác, quay lưng về phía chúng tôi.
Một trong số họ đang nhìn qua mép của khối đá hoa cương như thể đang theo dõi một ai đó đang tới gần từ phía đối diện.
Ngay lúc đó, đối tượng quan sát của y lọt vào tầm mắt của tôi và tôi thấy rằng đó là một người da vàng khác. Tất cả đều khoác trên người da thú - nhóm sáu người khoác da thú đen sọc vàng, trong lúc kẻ đang tới gần rực rỡ trong bộ da trắng tinh khôi của một con khỉ đột.
Nhóm người da vàng trang bị hai thanh kiếm, và cài trên lưng một ngọn lao ngắn, cánh tay trái đeo một cái khiên trông như một cái cốc, không to hơn một cái dĩa ăn, mặt lõm của nó quay ra hướng của một đối thủ.
Trông có vẻ như mấy cái khiên này khá yếu ớt và kém an toàn khi chống lại ngay cả một tay kiếm bình thường. Nhưng sau đó tôi mới thấy mục đích của chúng và tài năng tuyệt vời của những người da vàng khi sử dụng chúng.
Một trong hai thanh kiếm mà mỗi chiến binh cầm khiến tôi phải chú ý ngay tức khắc. Tôi gọi nó là một thanh kiếm, nhưng thật sự nó là một lưỡi kiếm sắc mép với một cái móc câu ở mũi kiếm.
Thanh kiếm còn lại có chiều dài bằng với thanh kiếm mũi cong, nằm ở khoảng giữa thanh trường kiếm và đoản kiếm của tôi. Nó thẳng và có hai mép sắc. Ngoài những thứ vũ khí tôi vừa mô tả, mỗi người còn đeo trên đai da một con dao găm.
Khi tay mặc da thú trắng tới gần, nhóm sáu người xiết chặt chuôi kiếm - thanh kiếm cong trong tay trái, thanh kiếm thẳng trong tay phải, trong lúc bên trên cổ tay trái cái khiên nhỏ được gắn chặt trên một cái vòng kim loại.
Khi người chiến binh đơn độc tới gần, nhóm sáu tên lao vào anh ta với những tiếng hét hung hãn gần giống như tiếng hét xung trận tàn bạo của tộc người Apache ở miền Tây-nam nước Mỹ.
Người bị tấn công lập tức vung cả hai thanh kiếm lên, và trong lúc sáu tên kia lao vào anh ta, tôi chứng kiến một trận đánh đẹp mắt vô cùng.
Với những mũi kiếm cong, phe tấn công cố kềm chế đối thủ, nhưng như tia chớp, cái khiên hình cốc luôn giơ lên trước mũi kiếm lao tới và cái móc câu bị hút vào phần lõm của nó.
Có một lần tay chiến binh đơn độc móc được một đối thủ, kéo hắn tới gần và phóng kiếm xuyên qua người hắn.
Nhưng lực lượng quá chênh lệch, và dù cho tới lúc này kẻ chiến đấu một mình là tay kiếm giỏi nhất và dũng cảm nhất, tôi thấy việc năm tên còn lại tìm được chỗ sơ hở của anh ta và ra đòn sát thủ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Lúc này sự đồng cảm của tôi nghiêng về phe yếu thế, và dù tôi không biết lý do của cuộc xung đột, tôi không thể hờ hững đứng nhìn một người dũng cảm bị giết chết bởi một nhóm đông người hơn.
Thật sự, tôi cho rằng tôi không để tâm mấy tới việc tìm ra một lý do, vì tôi quá yêu thích một trận đánh hay nên chẳng cần phải có một lý do nào để tham gia khi nó hiện ra trước mặt.
Thế là trước khi Thuvan Dihn biết tôi sắp làm gì, ông đã nhìn thấy tôi đứng bên cạnh người đàn ông khoác da thú trắng, chiến đấu như điên với năm tên đối thủ của anh ta.