Chương XII “THEO SỢI THỪNG”
Nó có nghĩa là gì?
“Theo sợi thừng”. Sợi thừng nào?
Tôi nhớ ngay tới sợi dây đính vào cái gói khi tôi sờ thấy nó ở cạnh tôi. Sau một lúc mò mẫm, tay tôi lại chạm vào nó. Nó được thòng xuống từ bên trên, và khi tôi kéo thử, tôi phát hiện ra nó đã được buộc chặt, có lẽ là ở miệng hố.
Khi kiểm tra, tôi nhận thấy sợi dây, dù mỏng manh, đủ sức chịu đựng trọng lượng của nhiều người đàn ông. Rồi tôi phát hiện thêm một điều: có một thông điệp thứ hai thắt nút trên sợi thừng ở độ cao ngang đầu tôi. Tôi giải mã câu này dễ hơn nhiều vì lúc này đã nắm được chìa khóa.
“Mang theo sợi thừng. Có nguy hiểm sau các nút thắt.”
Thông điệp này chỉ có thế. Rõ ràng nó được tạo ra trong lúc vội vã, một ý nghĩ nảy ra quá muộn.
Sau khi đọc được thông điệp thứ hai tôi không chần chừ nữa. Và dù tôi không chắc về ý nghĩa của lời cảnh báo cuối cùng, “có nguy hiểm sau các nút thắt,” tôi chắc rằng trước mặt tôi là một con đường thoát, rằng càng sớm tận dụng nó, tôi càng có khả năng tự do.
Ít nhất, tôi cũng không thể nào tệ hơn lúc ở trong Căn ngục Ê Hề.
Tuy nhiên, tôi phải tìm ra trước khi trèo khỏi cái hố chết tiệt này rằng nếu tôi buộc phải ở lại đó thêm hai phút thì có gì tệ hại xảy ra chăng.
Khi leo được khoảng năm mươi bộ trong khoảng thời gian đó, có một tiếng động bên trên thu hút sự chú ý của tôi. Tôi chán nản khi thấy rằng cái nắp hố đang được dời ra, và trong ánh sáng của cái sân trong, tôi thấy có một số chiến binh da vàng.
Có thể nào tôi vất vả thế này chỉ để đi vào một cái bẫy mới nào đó? Rốt cuộc, phải chăng hai thông điệp này là giả mạo? Thế rồi, đúng lúc hy vọng và lòng can đảm của tôi chùng xuống mức thấp nhất, tôi nhìn thấy hai điều.
Thứ nhất là thân hình của một con khỉ đột to lớn đang gầm gừ cố đuổi theo tôi từ dưới hố; thứ hai là một khe hở trên vách hố - một khe hở to hơn thân hình của một người đàn ông, sợi dây của tôi chạy vào đó.
Đúng lúc tôi trườn vào cái lỗ tối trước mặt, con khỉ đột trèo ngang qua tôi, thò hai bàn tay to lớn ra để vồ tôi, và nó táp, gầm gừ, rống lên với cung cách đáng sợ nhất.
Lúc này tôi thấy rõ cái kết thúc mà Salensus Oll đã ấn định cho tôi. Sau khi hành hạ tôi với sự đói khát, hắn cho thả con thú dữ tợn này vào căn ngục để kết thúc công việc mà trí tưởng tượng hắc ám của một tên vua đã nghĩ ra.
Rồi một sự thật khác lóe lên trong đầu tôi: tôi đã sống chín ngày trong mười ngày ấn định trước khi Salensus Oll có thể biến Dejah Thoris thành vợ hắn. Mục đích của con khỉ đột này là để đảm bảo chắc chắn cái chết của tôi trước ngày thứ mười.
Tôi suýt bật cười to khi nghĩ rằng cái cách bảo đảm an toàn của Salensus Oll khéo sao lại bổ sung thêm cho sự thất bại của cái kết thúc mà hắn tìm kiếm. Vì khi chúng phát hiện ra con khỉ đột trong Căn ngục Ê Hề chỉ có một mình, chúng không thể nghĩ khác hơn rằng nó đã ăn tươi nuốt sống tôi, và vì thế sẽ không có sự nghi ngờ nào về sự tẩu thoát của tôi để dẫn tới một truy lùng.
Lần theo sợi thừng đã đưa tôi đi xa tới mức này trong chuyến hành trình kỳ lạ, tôi tìm kiếm đầu dây còn lại, nhưng nhận ra khi tôi theo nó đi tới, nó luôn kéo dài ra phía trước. Vậy đây chính là ý nghĩa của mấy từ: “Theo sợi thừng.”
Cái địa đạo mà tôi đang bò qua thấp và tối. Khi đã bò được vài trăm mét, tôi cảm thấy một cái nút bên dưới mấy ngón tay.
“Có nguy hiểm sau các nút thắt.”
Lúc này tôi tiến tới với sự cảnh giác cao độ. Giây lát sau một khúc quanh gắt đưa tôi tới lối vào một căn phòng to, sáng rực.
Cái địa đạo tôi đã đi qua có xu hướng hơi dốc lên, và từ điều này tôi đoán rằng căn phòng mà tôi đang ở lúc này phải ở tầng một của hoàng cung hay nằm ngay bên dưới tầng một.
Trên bức tường đối diện có nhiều thiết bị và công cụ lạ lùng, và ở giữa phòng có một cái bàn dài. Hai người đàn ông ngồi ở đó đang nghiêm chỉnh trò chuyện.
Kẻ đối diện với tôi là một người da vàng - một ông già nhỏ bé, có gương mặt nhăn nheo, nhợt nhạt với đôi mắt to toàn là tròng trắng bao quanh hai đồng tử.
Người ngồi cùng ông ta là một gã da đen, và tôi không cần nhìn thấy mặt cũng biết hắn là Thurid, vì không còn gã da đen nào khác ở phía bắc bức lũy băng.
Thurid đang nói khi tôi tới trong phạm vi nghe được tiếng chuyện trò.
“Solan, không có nguy cơ nào hết và phần thưởng thì rất to. Ông biết rằng ông ghét Salensus Oll và không gì có thể khiến ông hài lòng hơn là ngăn trở hắn thực hiện một kế hoạch yêu đương. Hôm nay hắn không mong ước gì hơn là được kết hôn với công chúa xinh đẹp xứ Helium; nhưng cả tôi cũng muốn có nàng, và với sự giúp đỡ của ông tôi có thể chiếm được nàng.
“Ông không cần ra khỏi phòng này nửa bước sau khi tôi ra ám hiệu cho ông một lúc. Tôi sẽ làm phần còn lại, rồi sau khi tôi đã đi khỏi, ông có thể tới và kéo cái cầu dao đó, và tất cả sẽ giống như lần trước. Tôi chỉ cần một giờ xuất phát để được an toàn ra khỏi cái quyền năng quỷ quái mà ông đang kiểm soát trong căn phòng bí mật bên dưới cung điện của chủ ông. Thấy nó dễ thế nào rồi đó,” và sau mấy lời đó, gã hoàng tử da đen đứng lên, băng ngang qua phòng, đặt tay lên một cái cần gạt to bóng loáng ló ra từ bức tường đối diện.
“Không! Không!” Ông già nhỏ bé kêu lên, lao theo hắn, với một tiếng hét hốt hoảng. “Không phải là cái đó! Không phải là cái đó! Cái đó điều khiển những bể chứa tia nắng mặt trời, và nếu anh kéo nó xuống quá nhanh, toàn bộ Kadabra sẽ bị sức nóng ngốn hết trước khi ta có thể kéo nó về vị trí cũ. Tránh xa ra! Tránh xa ra! Anh không biết anh đang đùa với những sức mạnh kinh khủng nào đâu. Đây mới là cái cần gạt mà anh tìm kiếm. Hãy chú ý kỹ biểu tượng khắc bằng màu trắng trên bề mặt đen bóng của nó.”
Thurid tới gần và nhìn kỹ cái tay nắm của cần gạt.
“À, một mẩu đá nam châm,” hắn nói. “Tôi sẽ nhớ. Quyết định là tiến hành nhé.”
Ông già ngần ngừ. Một ánh mắt kết hợp giữa sự tham lam và sợ hãi lan ra trên nét mặt không có gì đẹp đẽ của ông ta.
“Hãy nhân gấp đôi con số,” ông ta nói. “Thậm chí con số đó vẫn còn quá nhỏ so với sự phục vụ mà anh yêu cầu. Sao chứ, tôi phải đánh liều mạng sống để giúp vui cho anh ngay tại đây, trong khu vực trạm điều hành có tường bao của tôi. Nếu Salensus Oll biết chuyện này, hắn sẽ ném tôi cho lũ khỉ đột trước khi ngày qua hết.”
“Hắn không dám làm điều đó, và ông biết rất rõ như vậy, Solan,” gã da đen bẻ lại. “Ông nắm quyền sinh sát quá lớn đối với dân chúng ở Kadabran, Salensus Oll không bao giờ dám lấy cái chết ra để dọa ông. Trước khi lũ tay chân của hắn có thể đặt tay lên người ông, ông có thể tóm lấy chính cái cần gạt mà ông vửa cảnh báo với tôi và quét sạch toàn thành phố.”
“Và cả chính tôi nữa,” Solan nói, với một cái nhún vai.
“Nhưng dù sao, nếu ông phải chết, ông sẽ có đủ sức thực hiện nó,” Thurid đáp.
“Phải,” Solan lẩm bẩm. “Ta thường nghĩ tới điều đó. Nào, chàng trai Con Cả, nàng công chúa da đỏ của anh có đáng với cái giá mà ta yêu cầu cho sự phục vụ của ta không, hay anh sẽ đi mà không có nàng ta và nhìn thấy nàng ta trong vòng tay của Salensus Oll vào đêm mai?”
“Cứ theo giá của ông, ông già da vàng,” Thurid đáp, với một tiếng chửi thể. “Phân nửa bây giờ và số còn lại khi ông hoàn thành giao ước của ông.”
Nói đoạn tên hoàng tử ném một cái túi đựng đầy tiền lên bàn.
Solan mở cái túi ra và đếm số tiền trong đó với những ngón tay run rẩy. Đôi mắt kỳ quặc của ông ta toát lên ánh tham lam, bộ râu ria rối bù co giật theo các cơ ở miệng và cằm. Rõ ràng từ chính thái độ này Thurid đã đoán được điểm yếu của ông ta - ngay cả những cử động vồ vập của những ngón tay trông như móng vuốt cũng thể hiện rõ tính hám lợi của con người keo kiệt này.
Hài lòng với số tiền đúng, Solan bỏ lại chúng vào túi và đứng lên.
“Bây giờ,” ông ta nói, “anh có hoàn toàn chắc rằng anh biết đường tới đích hay chăng? Anh phải đi thật nhanh qua quãng đường tới cái hang và từ đó ra khỏi Quyền Lực Lớn, tất cả chỉ trong một giờ ngắn ngủi, vì ta không dám cho anh nhiều hơn nữa.”
“Để tôi lặp lại với ông,” Thurid nói, “ông xem tôi có nói đúng hay không nhé.”
“Nói đi,” Solan đáp.
“Đi qua cánh cửa đằng kia,” hắn mở đầu, chỉ vào một cánh cửa ở đầu kia căn phòng, “tôi sẽ đi theo một hành lang, vượt qua ba nhánh hành lang bên tay phải; rồi đi vào hành lang thứ tư bên tay phải thẳng tới nơi ba hành lang giao nhau; ở đây tôi lại đi theo tay phải, nép sát vào vách tường bên trái để tránh cái hố.
“Ở cuối hành lang này tôi sẽ tới một con đường xoắn ốc, tôi phải theo nó đi xuống thay vì đi lên; sau đó con đường đi theo một hành lang duy nhất không có nhánh nào. Có đúng không?”
“Hoàn toàn đúng, hoàng tử,” Solan đáp; “và giờ hãy đi đi. Anh đã đánh liều với số phận quá lâu trong khu vực cấm này.”
“Vậy ông có thể đợi ám hiệu vào tối nay hoặc tối mai,” Thurid nói, đứng lên.
“Tối nay hoặc tối mai,” Solan lặp lại, và khi cánh cửa khép lại sau lưng người khách, ông già tiếp tục lẩm bẩm khi quay trở lại bàn, nơi ông ta trút số tiền trong túi ra lần nữa, đưa mấy ngón tay lướt qua đống tiền kim loại lấp lánh; chồng những đồng tiền thành những cái tháp nhỏ; đếm đi đếm lại, và mơn trớn những đồng tiền trong lúc vẫn ngâm nga nho nhỏ.
Lúc này những ngón tay đã thôi nghịch mấy đồng tiền; đôi mắt của ông ta lồi to hơn khi chúng hướng tới cánh cửa mà Thurid đã đi qua. Tiếng ngâm nga nho nhỏ biến thành một chuỗi càu nhàu, và cuối cùng thành một tiếng gầm gừ xấu xa.
Rồi ông già đứng lên, vung nắm đấm về phía cánh cửa đã đóng. Lúc này ông ta cất cao giọng, và những lời nói của ông ta vang lên rất rõ:
“Đồ ngu! Ngươi nghĩ rằng Solan sẽ từ bỏ mạng sống của mình vì hạnh phúc của ngươi à? Nếu ngươi trốn thoát, Salensus Oll sẽ biết rằng ngươi chỉ có thể thành công thông qua sự đồng lõa của ta. Lúc đó hắn sẽ cho gọi ta. Ngươi muốn ta sẽ làm gì? Biến cả thành phố này và chính ta thành tro bụi? Không, đồ ngu, có một cách tốt hơn - một cách tốt hơn để Solan giữ được tiền của mi và trả thù Salensus Oll.”
Hắn cười khanh khách.
“Thằng ngu tội nghiệp! Ngươi có thể kéo cái cần gạt sẽ giúp ngươi tự do thoát khỏi Okar, và rồi trong sự an toàn ngốc nghếch, lên đường cùng với hoàng hậu da đỏ của ngươi tới sự tự do của cái chết. Khi người đã ra khỏi căn phòng này trong cuộc bỏ trốn, có gì ngăn cản Solan đẩy cái cần gạt về chỗ cũ như trước khi bàn tay xấu xa của người chạm tới nó? Không gì cả; và khi đó Kẻ Bảo Vệ Miền Bắc sẽ giết chết ngươi và người đàn bà của ngươi, và khi Salensus Oll nhìn thấy thi thể của bọn ngươi, hắn sẽ không bao giờ mơ được rằng bàn tay của Sola đã dính tới việc này.”
Rồi giọng hắn lại hạ xuống thành những lời lẩm bẩm mà tôi nghe không rõ, nhưng bấy nhiêu cũng đã đủ để tôi đoán ra nhiều thứ, và tôi cám ơn Đấng Hóa công đã dẫn dắt tôi tới căn phòng này vào đúng thời điểm vô cùng hệ trọng đối với Dejah Thoris và bản thân tôi.
Nhưng bây giờ, làm sao mà đi qua ông già này đây! Sợi thừng, gần như vô hình trên sàn nhà, giăng ngang qua căn phòng tới một cánh cửa ở đầu kia.
Tôi không biết con đường nào khác, cũng không thể làm ngơ lời khuyên “theo sợi thừng”. Tôi phải băng qua căn phòng này, nhưng bằng cách nào đó tôi phải thực hiện nó mà không để cho ông già đang ở giữa phòng phát hiện.
Dĩ nhiên tôi có thể lao vào ông ta và với đôi tay trần có thể làm cho ông ta lặng im mãi mãi. Nhưng tôi đã nghe đủ để tin rằng nếu ông ta sống sót, điều mà tôi biết được sẽ có ích cho tôi ở một thời điểm tương lai nào đó, trong khi nếu tôi giết ông ta và một kẻ khác được phân công thay thế cho ông ta, Thurid sẽ không tới đây với Dejah Thoris, vì rõ ràng đó là dự định của hắn.
Trong lúc tôi đứng trong bóng tối ở đầu địa đạo, vừa moi óc tìm một kế hoạch khả thi vừa quan sát như một con mèo mọi cử động của ông già, ông ta cầm túi tiền lên và đi tới đầu căn phòng. Ở đó, ông ta quỳ xuống, sờ soạng vào một tấm vách trên tường.
Ngay tức khắc tôi đoán ra đây là nơi ông ta cất giấu tiền bạc của mình. Trong lúc ông ta quỳ ở đó, lưng quay về phía tôi, tôi rón rén bước vào phòng, cố đi tới mé đối diện trước khi ông ta hoàn tất công việc và quay lại giữa phòng.
Tôi chỉ phải đi chừng ba mươi bước, thế nhưng với trí tưởng tượng đã rã rời của tôi, bức tường đầu kia như cách xa hàng dặm; cuối cùng tôi cũng đi tới đó, không hề rời mắt khỏi gáy của ông già keo kiệt.
Ông ta không quay lại cho tới khi bàn tay tôi đặt lên cái nút điều khiển cánh cửa, và khi tôi đi qua cửa, nhẹ nhàng đóng nó lại, ông ta vẫn quay lưng về phía tôi.
Tôi dừng lại giây lát, áp tai vào bức vách để xem ông ta có ngờ vực gì không. Nhưng khi không có âm thanh đuổi theo nào đến từ bên trong, tôi quay lại và đi dọc cái hành lang mới, lần theo sợi dây mà tôi quấn lại và mang theo bên mình trong lúc tiến tới.
Nhưng chỉ đi thêm một quãng ngắn nữa thì sợi dây kết thúc ở nơi năm cái hành lang giao nhau. Tôi phải làm gì? Tôi nên ngoặt qua lối nào? Tôi rất đỗi bối rối.
Khi cẩn thận kiểm tra đầu sợi dây, tôi nhận thấy nó đã bị một vật sắc bén cắt đứt. Thực tế này và những lời cảnh cáo tôi rằng sự nguy hiểm nằm sau các nút thắt khiến tôi tin rằng sợi dây đã bị ai đó cắt đi vì bạn tôi đã xem nó như là người dẫn đường cho tôi, và tôi chỉ mới đi qua một nút thắt, trong khi rõ ràng phải có hai hoặc nhiều hơn trong suốt chiều dài của sợi dây.
Lúc này tôi thật sự ở trong một tình thế khó khăn. Tôi không biết phải đi theo đường nào hay khi nào thì mối nguy nằm ngay trên bước tiến của tôi; nhưng không còn gì khác để làm ngoài việc đi theo một trong các hành lang, vì tôi chẳng đạt được điều gì nếu cứ ở lì tại chỗ.
Vì thế tôi chọn lối đi ở giữa, và đi qua nó, vào một nơi sâu u tối với một câu cầu nguyện trên môi.
Nền của cái địa đạo nhanh chóng dốc lên trong lúc tôi đi tới, giây lát sau, con đường đi tới một điểm cuối đột ngột trước một cánh cửa nặng nề.
Tôi không thể nghe thấy điều gì ở mé bên kia, và với tính liều lĩnh thường ngày, tôi đẩy cánh cửa mở rộng ra và bước vào một căn phòng đầy những chiến binh da vàng.
Tên đầu tiên nhìn thấy tôi mở to mắt kinh ngạc, cùng lúc đó tôi cảm thấy ngón tay tôi nhói lên, chiếc nhẫn đã báo cho tôi biết sự hiện diện của một người bạn.
Rồi mấy tên khác nhìn thấy tôi. Chúng vội vã lao tới tôi, vì bọn này là những tên lính canh gác hoàng cung - những gã đã quen mặt với tôi.
Kẻ đầu tiên tới gần tôi là người đeo chiếc nhẫn anh em với chiếc nhẫn của tôi. Khi tới gần, anh ta thì thầm:
“Hãy đầu hàng tôi!” rồi la lớn: “Anh là tù nhân của tôi, người da trắng,” và dọa dẫm tôi với hai thanh kiếm của anh ta.
Và thế là John Carter, hoàng tử xứ Helium, ngoan ngoãn đầu hàng một địch thủ duy nhất. Lúc này bọn kia đã đổ xô tới quanh chúng tôi, đặt ra nhiều câu hỏi, nhưng tôi không nói gì với chúng. Cuối cùng kẻ đã bắt tôi thông báo rằng anh ta sẽ dắt tôi trở lại căn ngục.
Một tên sĩ quan lệnh cho nhiều tên lính khác đi cùng với anh ta. Giây lát sau, chúng tôi quay trở lại con đường tôi vừa đi qua. Người bạn của tôi bước sát bên tôi, đưa ra những câu hỏi ngốc nghếch về những đất nước mà tôi đã tới cho tới khi các tên đi cùng anh ta không buồn chú ý tới anh ta hay những tiếng lắp ba lắp bắp của anh ta nữa.
Dần dà, trong lúc nói, anh ta hạ thấp giọng, để có thể trò chuyện thì thầm với tôi mà không thu hút sự chú ý. Mưu mẹo của anh ta thật khôn ngoan, và cho thấy Talu không hề xét lầm người để giao một nhiệm vụ nguy hiểm mà anh đã nêu chi tiết.
Khi đã chắc ăn rằng những tên lính gác khác không lắng nghe, anh ta hỏi tôi vì sao không đi theo sợi dây, và khi tôi nói với anh ta rằng nó đã bị đứt ở điểm năm hành lang giao nhau, anh ta bảo hẳn là có ai đó cần một sợi dây đã cắt nó vì anh ta chắc chắn rằng “những tên Kadabran ngu xuẩn không bao giờ đoán ra mục đích của nó.”
Trước khi chúng tôi tới điểm mà từ đó năm hành lang tỏa ra, người bạn Marentina của tôi tìm cách lui lại phía sau cùng với tôi, và khi chúng tôi nhìn thấy những con đường nhánh anh ta thì thầm:
“Hãy chạy theo nhánh đầu tiên bên tay phải. Nó dẫn tới một tháp canh ở bức tường phía nam. Tôi sẽ dẫn đám truy đuổi theo hành lang kế tiếp.” Nói đoạn, anh ta đẩy tôi vào cái miệng tối của con đường hầm, đồng thời la lên với giọng đau đớn và cảnh báo trong lúc quăng người xuống đất như thể tôi đã đánh ngã anh ta.
Từ phía sau, giọng của những tên lính gác nôn nóng vang khắp hành lang, đột nhiên trở nên nhòa đi khi người gián điệp của Talu dẫn chúng theo con đường sai trong cuộc truy đuổi tưởng tượng.
Trong lúc tôi chạy vì cuộc sống qua những hành lang tối bên dưới cung điện của Salensus Oll, thật sự nét mặt tôi phải rất đáng chú ý nếu như có ai đó quan sát nó, vì dù cái chết đang lừng lững vây quanh, mặt tôi bị chẻ làm đôi bởi một nụ cười toe toét khi tôi nghĩ tới tài xoay xở của vị anh hùng không tên thành Marentina, người mà tôi mắc nợ cuộc sống của mình.
Những người đàn ông ở Helium dấu yêu của tôi cũng giống thế. Và khi có một người khác giống như họ, dù là chủng tộc hay màu da nào, tim tôi đầy tình cảm mến yêu dành cho anh ta giống như lúc này dành cho người bạn mới của tôi, kẻ đã liều mạng vì tôi chỉ bởi tôi đeo chiếc nhẫn cùng loại với chiếc nhẫn mà người trị vì đã đeo vào ngón tay của anh ta.
Cái hành lang tôi đang chạy qua đi thẳng suốt một khoảng cách đáng kể, chấm dứt ở chân một đường xoắn ốc, tôi đi lên đó và lọt vào một căn phòng hình tròn ở tầng một của một tòa tháp.
Trong căn phòng này, khoảng một chục nô lệ da đỏ đang lau chùi hay sửa chữa các thứ vũ khí của bọn da vàng. Những bức tường của căn phòng chất đầy những cái kệ trong đó là hàng trăm thanh kiếm thẳng hay có móc câu, những ngọn giáo và dao găm. Rõ ràng đây là một kho vũ khí. Chỉ có ba tên lính canh gác những người đang làm việc.
Mắt tôi quét qua toàn bộ căn phòng. Ở đây có thật nhiều vũ khí! Ở đây có những chiến binh da đỏ vạm vỡ để vung chúng lên!
Và ở đây, ngay lúc này, là John Carter, hoàng tử xứ Helium, đang cần cả vũ khí lẫn những chiến binh!
Khi tôi bước vào phòng, những tên lính gác và những người tù nhìn thấy tôi cùng một lúc.
Cạnh lối ra vào nơi tôi đang đứng là một cái kệ chất những thanh kiếm thẳng, và khi tay tôi đặt lên chuôi của một trong số chúng, mắt tôi hạ xuống mặt của hai trong số các tù nhân đang làm việc cạnh nhau.
Một trong số lính gác bước về phía tôi. “Anh là ai? Hắn hỏi. “Anh làm gì ở đây?”
“Tôi đến vì Tardors Mors, vua xứ Helium và con trai của ông ta, Mors Kajak,” tôi la lên, chỉ vào hai tù nhân da đỏ. Lúc này họ đã đứng bật dậy, mắt mở to kinh ngạc khi nhận ra tôi.
Tôi hét lớn, “Hãy vùng lên, những người da đỏ! Trước khi chết, chúng ta hãy lưu lại một kỷ niệm trong cung điện của bạo chúa xứ Okar. Nó sẽ tồn tại mãi mãi trong biên niên sử của Kadabra để vinh danh Helium,” vì tôi đã thấy rằng tất cả tù nhân ở đây là người trong lực lượng hải quân của Tadors Mors.
Lúc này tên lính canh đầu tiên lao vào tôi và trận đánh diễn ra, nhưng hầu như trước khi chúng tôi giao chiến, tôi kinh hoàng khi thấy rằng những người nô lệ da đỏ đều bị xiềng vào nền phòng.