Chương XIII CÁI CẦU DAO ĐIỀU KHIỂN TỪ TRƯỜNG
Bọn lính canh không chú ý chút nào tới những tù nhân, vì những người da đỏ không thể di chuyển cách những cái vòng lớn mà họ bị móc vào hơn hai bộ, dù mỗi người đã chụp lấy thứ vũ khí mà họ đang thao tác khi tôi bước vào phòng và đã đứng lên, sẵn sàng tham gia với tôi nếu họ có thể làm điều đó.
Bọn da vàng tập trung toàn bộ sự chú ý vào tôi. Chúng sớm nhận ra ba người bọn chúng không phải là quá nhiều khi đương đầu với John Carter để bảo vệ cái kho vũ khí. Giá mà ngày hôm đó trong tay tôi có thanh trường kiếm tốt của mình; nhưng như thường lệ, tôi vẫn khá hài lòng với thứ vũ khí không quen thuộc của người da vàng.
Đầu tiên tôi mất một lúc để né tránh những thanh kiếm móc câu hiểm ác, nhưng khoảng một hai phút sau, tôi chụp được thanh trường kiếm thứ hai từ một trong những cái giá dựa vào tường. Sau đó, tôi dùng nó để đỡ gạt những cái móc câu của kẻ địch và cảm thấy được trang bị bình đẳng hơn.
Ba tên đó lao vào tôi ngay lập tức, nhưng nếu không gặp may, hẳn tôi đã nhanh chóng bỏ mạng. Tên lính canh đi đầu vung cái móc câu tấn công vào hông tôi sau khi bọn chúng dồn tôi sát vào tường, vừa khi tôi bước sang một bên và giơ vũ khí lên, thanh kiếm của hắn sượt qua hông tôi, cắm vào một cái giá để giáo và bị vướng vào đó.
Trước khi hắn có thể thu kiếm lại, tôi đã đâm xuyên qua người hắn. Sau đó, bước lùi lại theo chiến thuật đã cứu sống tôi hàng trăm lần trong những tình huống ngặt nghèo, tôi lao vào hai tên chiến binh còn lại, ép chúng lùi lại với một loạt nhát đâm và chém, thanh kiếm của tôi loang loáng vào ra những đường kiếm phòng thủ của chúng cho tới khi tôi hoàn toàn áp đảo chúng.
Một trong hai tên bắt đầu kêu cứu, nhưng đã quá muộn để chúng có thể sống sót.
Lúc này chúng chẳng khác gì bột nhào trong tay tôi, và tôi dồn chúng đi lùi quanh cái kho vũ khí cho tới khi ép được chúng tới nơi tôi muốn - trong tầm kiếm của những người nô lệ bị xiềng xích. Trong chớp mắt, cả hai nằm chết thẳng cẳng trên sàn. Nhưng những tiếng kêu của chúng không hoàn toàn vô ích, vì lúc này tôi nghe thấy tiếng thét đáp lại, tiếng chân của nhiều người đang chạy tới, tiếng lanh canh của trang bị và mệnh lệnh của những tên sĩ quan.
“Cánh cửa! Nhanh lên, John Carter, cài song cửa lại!” Tardos Mors la lên.
Bọn lính canh đã hiện ra trong tầm mắt, đang lao qua cái sân trống có thể thấy được qua lối ra vào.
Chỉ chừng mười giây nữa, chúng sẽ vào tòa tháp. Một cú phóng đưa tôi tới cánh cửa nặng nề. Với một tiếng dội đánh ầm, tôi đóng sập nó lại.
“Cái song cửa!” Tardos Mors hét lớn.
Tôi cố đẩy cái song to tướng vào vị trí, nhưng nó cưỡng lại mọi nỗ lực của tôi.
“Nhấc nó lên một chút để tháo chốt ra,” một trong những người da đỏ la lên.
Tôi có thể nghe thấy tiếng những chiến binh da vàng phóng dọc theo con đường lát đá ngay mé ngoài cánh cửa. Tôi nhấc cái song cửa lên và đẩy nó vào vị trí ngay đúng lúc tên lính đi đầu lao mạnh vào phía bên kia lớp ván dày.
Cái song vẫn ổn - tôi làm vừa kịp lúc, nhưng chỉ trong chớp mắt.
Lúc này tôi hướng sự chú ý vào những người tù. Tôi bước tới Tardors Mors trước hết, hỏi ông những chiếc chỉa khóa có thể ở đâu để mở những sợi xiềng của họ ra.
“Tên chỉ huy lính gác giữ chúng,” vua xứ Helium đáp, “và hắn ở trong số đang tìm cách vào đây. Cháu phải chặt chúng thôi.”
Hầu hết những người tù đều đang vung kiếm chặt vào những sợi xích. Bọn da vàng đang dùng giáo và rìu tấn công vào cánh cửa.
Tôi hướng sự chú ý vào những sợi xích đang cột Tardors Mors. Tôi hì hụi chặt sâu vào lớp kim loại với lưỡi kiếm sắc trong lúc những tiếng đập phá cửa ngày càng dồn dập.
Cuối cùng một mắt xích rời ra dưới nỗ lực của tôi, và giây lát sau Tadors Mors được tự do, dù một đoạn xích dài chừng vài in-sơ vẫn còn đeo lủng lẳng ở mắt cá của ông.
Một mảnh gỗ rơi vào mé trong cửa thông báo tiến độ mở đường tấn công chúng tôi của bọn kẻ thù.
Mấy tấm ván gỗ rung lên và oằn xuống dưới sự công kích dữ dội của bọn người da vàng đang giận dữ.
Với tiếng đập phá cánh cửa và tiếng những người da đỏ chặt vào những sợi xích, sự ồn ào trong kho vũ khí thật là kinh khủng. Ngay sau khi được tự do, Tardos Mors tập trung vào một trong những tù nhân khác trong khi tôi tới để giải thoát Mors Kajak.
Chúng tôi phải làm thật nhanh nếu muốn chặt đứt tất cả những gông cùm đó trước khi cánh cửa bị phá tung. Lúc này một tấm ván đã bị hất xuống nền nhà bên trong. Mors Kajak lao tới khoảng trống để chặn đường cho tới khi chúng tôi có đủ thời gian giải thoát số còn lại.
Với những ngọn giáo lấy từ chỗ bức tường, ông gieo rắc kinh hoàng lên những tên lính Okar đi đầu trong lúc chúng tôi chiến đấu với những sợi xích vô tri đứng chắn giữa bạn bè của chúng tôi và sự tự do.
Cuối cùng, trừ một tù nhân, tất cả đều tự do. Sau đó cánh cửa cũng sụm xuống với một tiếng đánh sầm lớn trước một đợt tấn công mạnh mẽ, và bọn người da vàng lao vào chúng tôi.
“Hãy tới mấy căn phòng bên trên!” người da đỏ vẫn còn bị móc vào sàn nhà la lên. “Hãy tới mấy căn phòng bên trên! Ở đó các bạn có thể bảo vệ tòa tháp chống lại cả thành Kadabra. Đừng trì hoãn vì tôi, kẻ luôn nguyện rằng không còn gì tốt đẹp hơn khi được chết để phục vụ Tadors Mors và hoàng tử xứ Helium.”
Nhưng tôi thà hy sinh sự sống của từng người trong số chúng tôi còn hơn rời bỏ một người da đỏ đơn độc, nhất là khi vị anh hùng có trái tim sư tử này van nài chúng tôi hãy rời bỏ anh ta.
“Hãy chặt sợi xiềng của anh ta,” tôi hét lên với hai người da đỏ, “trong lúc những người còn lại ngăn cản quân thù.”
Hiện giờ có mười người chúng tôi để đương cự với bọn lính canh Okar, và tôi dám đảm bảo tòa tháp canh cổ chưa bao giờ chứng kiến trận đánh nào khốc liệt hơn trận đánh ngày hôm đó trong phạm vi những bức tường dữ dội của chính nó.
Đợt sóng tấn công đầu tiên của bọn chiến binh da vàng bị dội lại khỏi những lưỡi kiếm ác liệt của mười cựu chiến binh xứ Helium. Một chục xác chết của người Okar khóa kín lối vào, nhưng trên cái rào chắn kinh khủng đó, hơn hai mươi tên khác đang lao lên, hét lớn tiếng hô xung trận khàn khàn đáng sợ của chúng.
Chúng tôi nghênh đón chúng trên đống xác đẫm máu, giáp lá cà, dùng dao găm đâm vào những vị trí quá gần không thể chém, phóng kiếm vào người chúng khi chúng tôi có thể đẩy một tên đối thủ ra khoảng cách một cánh tay; và hòa vào tiếng la điên dại của bọn người Okar những tiếng hét vinh quang: “Vì Helium! Vì Helium!” mà qua vô số thế kỷ đã thôi thúc những người can đảm nhất trong số những người can đảm thực hiện những hành vi quả cảm của họ và khiến cho danh tiếng của những vị anh hùng xứ Helium lan truyền ngang dọc trên khắp một hành tinh.
Lúc này những sợi xiềng đã bị chặt rời khỏi người da đỏ cuối cùng, và với lực lượng mười ba người, chúng tôi đón tiếp từng đợt tấn công từ bọn lính của Salensus Oll. Hầu như không có ai trong số chúng tôi không ứa máu từ cả chục vết thương, nhưng chưa có ai ngã xuống.
Từ phía ngoài, chúng tôi thấy hàng trăm tên lính canh đang đổ vào sân, và dọc theo cái hành lang thấp mà từ đó tôi đã tìm đường tới kho vũ khí, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng va chạm lanh canh của kim loại và tiếng hò hét vang rân.
Giây lát nữa thôi, chúng tôi sẽ bị tấn công từ hai phía, và với tất cả mọi kỹ năng của mình, chúng tôi không thể hy vọng chống cự lại một lực lượng quá chênh lệch có thể chia cắt sự tập trung và số người ít oi của chúng tôi.
“Hãy lên các căn phòng bên trên!” Tadors Mors hét lên, và giây lát sau chúng tôi lùi về phía con đường xoắn ốc dẫn tới những tầng trên.
Tại đây, một trận đánh khác nổ ra với lực lượng da vàng đã tấn công vào kho vũ khí khi chúng tôi lùi khỏi lối ra vào. Tại đây chúng tôi đã mất người đầu tiên, một nhà quý tộc mà chúng tôi suýt cứu được; nhưng cuối cùng tất cả đã lùi vào con đường xoắn ốc ngoại trừ tôi. Tôi ở lại để kềm chân bọn lính Okar cho tới khi mấy người khác đã an toàn lên tới bên trên.
Ở đầu lối đi hẹp, mỗi lần chỉ một chiến binh duy nhất có thể tấn công tôi, vì thế tôi không khó khăn mấy trong việc kềm chân cả bọn trong một khoảnh khắc ngắn ngủi cần thiết. Sau đó, dần dần lùi lại, tôi bắt đầu tiến lên con đường xoắn ốc.
Bọn lính canh áp sát tôi suốt con đường lên tới đỉnh tòa tháp. Khi một tên gục ngã trước lưỡi kiếm của tôi, tên khác loạng choạng bước qua xác chết để thế chỗ cho hắn; và cứ vậy, hạ sát từng bước chân địch thủ tiến tới gần, tôi lên tới tòa tháp canh có tường bằng thủy tinh của thành Kadabra.
Tại đây các bạn của tôi đã tập hợp sẵn để thế chỗ cho tôi. Tôi bước sang một bên trong lúc họ ngăn cản quân thù để nghỉ ngơi giây lát.
Từ chỗ đứng cao ngất này, người ta có thể nhìn thấy nhiều dặm về mọi phía. Ở hướng nam là quảng đất trống trải phủ băng lởm chởm, chạy dài cho tới mép cái lũy băng sừng sững. Ở hướng đông và tây và mờ mờ về phía bắc, tôi trông thấy những thành phố Okar khác, còn ở phía dưới ngay bên ngoài những tường thành Kadabra, cái ống nam châm đáng sợ đang ngóc cao đầu một cách ảm đạm.
Rồi tôi đưa mắt nhìn xuống những đường phố Kadabra, lúc này đang nổi lên một sự ồn ào đột ngột. Và tôi thấy một trận đánh đang bùng nổ tại đó, và ở mé ngoài những bức tường thành, tôi thấy những đội quân có vũ trang đang tiến tới cánh cổng gần đó.
Tôi nôn nao áp sát vào bức tường thủy tinh của cái tháp canh, hầu như không tin vào sự chứng thực của chính mắt mình. Nhưng cuối cùng tôi không còn nghi ngờ gì nữa, và với một tiếng hét vui mừng cất cao một cách lạ lùng giữa những tiếng chửi rủa và rên rỉ của những người đang chiến đấu ở lối vào phòng, tôi gọi Tardor Mors.
Khi ông tới gần, tôi chỉ xuống những đường phố Kadabra và những hàng quân đang tiến tới gần ở mé ngoài, bên trên là những lá cờ và cờ hiệu của Helium đang phấp phới tung bay một cách hào hùng.
Giây lát sau, mọi người da đỏ trong căn phòng cao ngất đều nhìn thấy cảnh tượng phấn khởi đó, và tất cả đồng thanh cất lên tiếng hét tạ ơn vang dội qua cái đống đá lâu đời ấy. Tôi dám đảm bảo là trước đó chưa bao giờ có tiếng hét nào như vậy.
Nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục chiến đấu, vì dù những cánh quân của chúng tôi đã tiến vào Kadabra, thành phố này vẫn chưa chịu đầu hàng, và cả hoàng cung cũng chưa bị tấn công. Hết lần này sang lần khác, chúng tôi giữ vững đầu trên của con đường xoắn ốc trong lúc những người khác sung sướng quan sát cảnh tượng những người đồng hương quả cảm đang chiến đấu ở mé xa bên dưới.
Lúc này họ đã tới cổng hoàng cung! Những phiến gỗ phá thành đang dộng ầm ầm vào ván cổng. Hiện tại họ đang bị đẩy lùi bởi một trận mưa chết chóc của những ngọn lao từ đầu tường phóng xuống.
Họ lại tấn công lần nữa, nhưng một cuộc phá vây của một lực lượng Okar đông đảo từ một đại lộ cắt ngang đã phá vỡ đoạn đầu của hàng quân, và những chiến binh Helium ngã xuống, chiến đấu dưới một lực lượng áp đảo.
Cổng hoàng cung mở toang ra và một lực lượng cận vệ của nhà vua, được chọn từ thành phần tinh hoa của quân đội Okar, xông lên để phá vỡ những hàng quân rối loạn. Trong một khoảnh khắc, trông như thể không gì có thể ngăn được sự thảm bại. Rồi tôi nhìn thấy một hình dáng cao quý trên một con ngựa hùng dũng - không phải là loài ngựa nhỏ bé của người da đỏ, mà là người anh em họ khổng lồ của nó ở những đáy biển chết.
Người chiến binh này đang mở đường máu xông lên phía trước, sau lưng anh ta những hàng quân rối loạn của Helium đang tập hợp lại. Khi anh ta ngẩng đầu lên để hét cao lời thách thức với bọn lính trong hoàng cung, tôi nhìn thấy mặt của anh ta, và tim tôi phồng lên vì tự hào và hạnh phúc trong lúc những chiến binh da đỏ nhảy tới bên cạnh người chỉ huy của họ và chiếm lại mảnh đất mà họ vừa đánh mất. Gương mặt của kẻ ngồi trên lưng con ngựa to lớn đó là gương mặt của con trai tôi - Carthoris xứ Helium.
Bên cạnh nó, một con chó Hỏa tinh khổng lồ đang chiến đấu. Và tôi không cần tới một giây cũng nhận ra nó là Woola. Woola trung thành của tôi đã hoàn thành nhiệm vụ gian khổ của nó và đưa tới những đoàn quân cứu viện vào phút cuối cùng.
“Vào phút cuối cùng?”
Có thể nói rằng họ đã quá chậm để có thể giải cứu chúng tôi, nhưng chắc chắn họ có thể báo thù! Và đội quân bất khả chiến bại này sẽ giáng một sự trừng phạt vào bọn quân Okar đáng ghét! Tôi thở dài khi nghĩ rằng có thể tôi không còn sống để chứng kiến nó.
Tôi lại quay về phía những ô cửa sổ. Những người da đỏ chưa tới được bức tường bên ngoài cung điện, nhưng họ đang chiến đấu anh dũng chống lại đoàn quân giỏi nhất của Okar - những chiến binh gan dạ đang giành giật từng tấc đất.
Lúc này, sự chú ý của tôi dồn vào một nhân tố mới ở mé ngoài bức tường thành - một đội kỵ binh lớn nổi bật lên giữa những chiến binh đa đỏ. Họ là những đồng minh khổng lồ da xanh của Helium - những đoàn quân hung tợn từ các đáy biển chết ở miền nam xa xôi.
Trong sự im lặng khắc nghiệt và kinh khủng, họ phi nhanh tới cánh cổng, những bộ móng guốc không đóng móng của những con ngựa đáng sợ không tạo ra một tiếng động nào. Họ tấn công vào thành phố đã tới hồi mạt vận, và trong lúc họ phi nhanh qua quảng trường rộng lớn ở phía trước hoàng cung của Vua của các vị vua, tôi nhìn thấy, đang phi phía trước họ, thân hình to lớn của người chỉ huy hùng mạnh của họ - Tars Tarkas, vua xứ Thark.
Vậy là ước vọng của tôi đã thỏa, vì một lần nữa tôi sẽ nhìn thấy ông bạn cũ của tôi chiến đấu, và dù không kề vai sát cánh với ông được, cả tôi cũng sẽ chiến đấu với cùng một chính nghĩa tại đây, trên tòa tháp cao xứ Okar.
Có vẻ như kẻ thù của chúng tôi sẽ không bao giờ dừng những cuộc tấn công ngoan cố của chúng, vì chúng vẫn kéo tới, dù con đường tới căn phòng của chúng tôi thường bị nghẽn lại với xác của những tên đã chết. Thỉnh thoảng, chúng dừng lại đủ lâu để lôi những cái xác ngăn trở, và những lớp chiến binh mới lại xông lên để nếm ly rượu chết chóc.
Tôi đang góp sức với những người khác để ngăn chặn cuộc tấn công thì Mors Kajak, người vẫn theo dõi trận đánh trên con đường bên dưới chợt cất tiếng gọi to đầy kích động. Có một vẻ lo sợ trong giọng của ông nên tôi tới bên cạnh ông ngay sau khi nhường chỗ của tôi cho một người khác. Khi tôi tới gần, ông chỉ qua vùng băng tuyết trống trải về phía chân trời hướng nam.
“Chao ôi!” Ông kêu lên, “Ta buộc phải chứng kiến cái định mệnh tàn ác phản bội lại họ mà không thể cảnh báo hay giúp đỡ, nhưng giờ đây họ sẽ bay ngang đó.”
Khi nhìn về hướng ông chỉ, tôi nhìn thấy nguyên nhân lo lắng của ông. Một đoàn thuyền đông đảo đang oai nghiêm tiến về phía Kadabra từ phía lũy băng. Họ đang tiến tới với tốc độ ngày càng tăng.
“Cái ống khắc nghiệt mà họ gọi là Kẻ Bảo Vệ Miền Bắc đang vẫy tay mời gọi họ.” Mors Kajak buồn bã nói, “cũng hệt như nó đã vẫy gọi Tardors Mors và đoàn thuyền lớn của ông; con có nhìn thấy nơi chúng nằm tan vỡ dúm dó chăng, một cái tượng đài ác nghiệt và kinh khủng cho sức mạnh hủy diệt lớn lao mà không ai cưỡng kháng được.”
Cả tôi cũng nhìn thấy; nhưng tôi còn nhìn thấy một điều khác mà Mors Kajak không nhìn thấy. Trong mắt tôi, tôi hình dung lại căn phòng bí mật có những bức tường đầy dẫy những thiết bị và công cụ lạ lùng.
Ở giữa căn phòng đó là một cái bàn dài, và phía trước nó một ông già mắt lồi đang ngồi đếm tiền. Nhưng rõ ràng hơn hết, tôi nhìn thấy trên tường có một cái đòn bẫy lớn khảm một mẩu nam châm nhỏ trên bề mặt màu đen của cái tay cầm.
Rồi tôi nhìn về phía đoàn tàu đang tiến nhanh tới gần. Năm phút nữa hạm đội hùng mạnh của bầu trời đó sẽ cong gập lại thành một đống vô giá trị, nằm dưới chân của cái ống ở mé ngoài tường thành, và những đoàn quân da vàng sẽ mở một cánh cổng khác để lao ra bắt một vài người sống sót đang lảo đảo bước qua cái đống đổ nát; rồi lũ khỉ đột sẽ tới. Tôi rùng mình với ý nghĩ đó, vì tôi có thể hình dung rõ ràng toàn bộ cảnh tượng kinh hoàng đó.
Tôi luôn quyết định và hành động rất nhanh. Sự thôi thúc khiến tôi di chuyển và hành động dường như xảy ra cùng một lúc; vì nếu tâm trí tôi đi theo thể thức tư duy thông thường, đây phải là một hành động theo tiềm thức mà tôi hầu như không nhận biết một cách khách quan. Những nhà tâm lý học nói với tôi rằng, vì tiềm thức không lý luận, một sự thâm cứu những hoạt động tinh thần của tôi có thể chứng minh được bất kỳ điều gì ngoài sự tâng bốc. Nhưng dù gì chăng nữa, tôi thường thành công trong lúc nhà tư tưởng vẫn còn đang tiếp tục một công việc không bao giờ kết thúc khi so sánh những xét đoán khác nhau.
Và hiện giờ sự mau chóng của hành động là nhân tố chủ yếu đối với thành công của nhiệm vụ mà tôi đã quyết định thực hiện.
Tôi xiết chặt chuôi kiếm, gọi người chiến binh da đỏ ở lối lên của con đường xoắn ốc né sang một bên.
“Hãy nhường đường cho hoàng tử xứ Helium!” Tôi la lên; và trước khi tên lính da vàng kinh ngạc xui xẻo đang chiến đấu ở đầu hàng quân có thể hiểu ra, thanh kiếm của tôi đã chém bay đầu của hắn, và tôi lao như một con bò điên vào những tên phía sau hắn.
“Hãy nhường đường cho hoàng tử xứ Helium!” Tôi hét to trong lúc mở một con đường qua những tên lính canh kinh ngạc của Salensus Oll.
Vung gươm chém sang phải và trái, tôi lần xuống con đường xoắn ốc đầy nghẹt chiến binh đó, cho tới khi, ở gần cuối con đường, những tên bên dưới nghĩ rằng một đội quân đang ào xuống tấn công chúng và quay lưng bỏ chạy.
Cái kho vũ khí ở tầng một trống trơn khi tôi bước vào, tên lính cuối cùng đã chạy vào sân. Vì thế không một ai nhìn thấy tôi tiếp tục đi xuống con đường xoắn ốc về phía cái hành lang bên dưới.
Ở đây tôi chạy thật nhanh để đôi chân tôi đưa tôi tới chỗ năm hành lang giao nhau. Tại đó, tôi lao vào cái hành lang dẫn tới trạm điều khiển của ông già keo kiệt.
Tôi lao ập vào phòng, bỏ qua việc gõ cửa. Ông già đang ngồi ở bàn. Khi nhìn thấy tôi, ông ta đứng bật dậy, rút kiếm ra.
Hầu như không thèm liếc nhìn ông ta, tôi nhảy tới cái cần gạt cầu dao lớn; nhưng nhanh không kém gì tôi, ông già dẻo dai này đã ở đó trước tôi.
Tôi không bao giờ biết ông ta làm được điều đó bằng cách nào. Có vẻ như không thể tin nổi việc bất kỳ một con người nào chào đời tại sao Hỏa có thể sánh với tốc độ tuyệt vời của các cơ bắp trái đất của tôi.
Solan quay sang tôi như một con hổ, và tôi nhanh chóng nhận ra vì sao ông ta đã được chọn cho nhiệm vụ quan trọng này.
Trong đời mình, tôi chưa bao giờ gặp một kiếm sĩ tuyệt vời và một sự nhanh nhẹn lạ thường như cái túi xương già cỗi đó. Ông ta có mặt ở bốn mươi nơi cùng một lúc; và trước khi tôi có một cơ hội để nhận biết nguy cơ của mình, rất có khả năng ông ta đã biến tôi thành một thằng ngu, và là một thằng ngu đã chết.
Cái cách thức mà những điều kiện mới và bất ngờ mang tới khả năng không thể nào đoán trước để nghênh đón nó thật là kỳ lạ.
Ngày hôm đó, trong căn phòng bí mật bên dưới cung điện của Salensus Oll, tôi đã biết kiếm thuật có nghĩa là gì, và tôi có thể đạt tới những tầm cao của nghệ thuật dùng kiếm đó khi đấu với một nhà phù thủy của lưỡi kiếm như Solan.
Có một lúc dường như ông ta đã thắng thế; nhưng hiện tại các khả năng tiềm ẩn mà hẳn đã nằm im lìm trong người tôi suốt cả đời người đã bộc lộ ra, và tôi chiến đấu như tôi chưa bao giờ mơ rằng một con người có thể chiến đấu giống như vậy.
Việc cuộc đấu kiếm tay đôi ấy diễn ra trong một tầng hầm tăm tối, không có một con mắt tán thưởng nào chứng kiến, với tôi dường như luôn là một thiệt thòi lớn của thế giới - ít nhất từ quan điểm của một người sao Hỏa, nơi sự tranh chấp đẫm máu là điều đáng kể hàng đầu và lớn lao nhất của mọi cá nhân, quốc gia và chủng tộc.
Tôi chiến đấu để tóm lấy cái cần gạt cầu dao, Solan chiến đấu để ngăn cản tôi; và dù chúng tôi đứng cách nó không đầy ba bộ, tôi không thể nhích thêm một in-sơ nào về phía nó, vì ông ta đã ép tôi lùi lại một phân trong năm phút đầu tiên của trận đấu.
Tôi biết rằng nếu tôi kéo nó kịp lúc để cứu đoàn tàu đang tới gần, việc này phải được thực hiện trong vòng vài giây nữa, vì thế tôi thử những chiến thuật tấn công cũ của mình; nhưng chẳng khác nào tôi lao vào một bức tường.
Thực tế, tôi gần như tự đả thương mình với mũi kiếm của ông ta; nhưng lẽ phải thuộc về tôi, và tôi nghĩ rằng điều đó phải mang tới cho một con người một sự tự tin lớn hơn kẻ biết anh ta đang chiến đấu vì một nguyên cớ xấu xa.
Ít nhất, tôi cũng không cần tới sự tự tin; và khi tôi lại lao vào phía sườn của Solan để tấn công lần nữa, với niềm tin rằng ông ta phải quay sang một bên để đón tiếp đợt tấn công mới của tôi. Và ông ta quay sang. Thế là giờ đây chúng tôi chiến đấu quay lưng về phía mục tiêu mong muốn - cái cần gạt lớn nằm trong tầm với của bàn tay phải của tôi.
Để lộ ngực ra trong chớp mắt cũng có thể mang tới cái chết bất ngờ, nhưng tôi không nhìn thấy cách nào khác hơn, nếu bằng cách đó tôi có thể giải cứu được đoàn tàu cứu viện; và thế là, trong lúc đối mặt với một đường kiếm xấu xa, tôi vươn tới mục tiêu, nắm lấy cái cần gạt lớn và giật mạnh, khiến nó sút ra khỏi đế.
Solan kinh ngạc và hoảng hốt đến độ ông ta quên kết thúc nhát đâm của mình; thay vì vậy, ông ta lạng người về phía cái đòn bẫy với một tiếng hét lớn - tiếng hét cuối cùng của ông ta, vì trước khi bàn tay của ông ta chạm vào nó, mũi kiếm của tôi đã xuyên qua tim của ông ta.