← Quay lại trang sách

- 3 -

Họa vô đơn chí

Vào những tuần tiếp theo chúng tôi không nói gì về việc này nữa. Thông qua công việc tôi tìm cách lãng quên và xua đuổi ý nghĩ về điều này bằng cách chơi lâu hơn với Lê. Tôi thử hình dung làm mẹ thì sẽ như thế nào khi bế đứa con trên tay, nhìn thấy nó cười và vui sướng. Biết đâu mọi chuyện sẽ không đến nỗi tồi tệ?

Mấy ngày sau, lúc ở nhà, tôi nghe tiếng mẹ cãi nhau với bố, điều mà bà chưa bao giờ làm. Khi đến gần tôi nghe thấy bố dồn ép mẹ cho tôi đi cùng ông trong chuyến đi săn sang phía Bắc Lào sắp tới. Lần đầu tiên tôi chứng kiến mẹ nổi giận.

"Nó còn quá bé", mẹ nói một cách cương quyết. "Ông hãy để nó ở nhà với tôi! Chúng tôi cần có nó ở đây." Bố tôi tìm cách thuyết phục bà thêm mấy lần nhưng không có kết quả. Lần đầu tiên mẹ tôi đã kháng cự - vì tôi! Đây là một điều mới mẻ!

Rốt cuộc thì bố đã nhượng bộ. Tôi làm như mình không nghe thấy gì. Tôi ngạc nhiên là bố lại muốn mang tôi theo trong chuyến đi này. Nhưng tôi còn ngạc nhiên hơn về sự phản kháng quyết liệt của mẹ tôi.

Một vài ngày sau có ba người đàn ông đến đón bố đi. Chúng tôi nhìn ông chất các dụng cụ đi săn quen thuộc lên xe của họ rồi ngồi vào chỗ. Ông lên đường cùng với họ, và như mọi lần, không hề có một lời giã biệt.

Chỉ ít tuần nữa là đến mùa gặt lúa tháng Mười. Bố vẫn chưa quay trở lại. Hai anh trai tôi đi vào thị xã, mẹ và tôi thì ở nhà đánh vẩy mấy con cá vừa đánh bắt được bằng dao sắc. Các em tôi đang tìm cách chăm bếp lửa thì có hai người đàn ông lạ tiến đến gần nhà và dường như muốn gặp chúng tôi.

"Chúng tôi đến đây để đòi tiền nợ của chồng bà", một trong hai người đàn ông nói cộc lốc, chẳng hề chào hỏi gì trước đó.

"Tiếc là chồng tôi không có nhà", mẹ tôi trả lời một cách hòa nhã, mặc dù rất ngạc nhiên. "Ông ấy... đã chết ở Lào rồi!", người đàn ông lạnh lùng nói tiếp hết câu. "Ông ta và những người khác đã bị đột kích trong chuyến đi. Ở phía Bắc đang có bạo loạn. Tất cả đều bị chết. Và bây giờ thì chúng tôi đến đòi lại tiền." Mẹ đánh rơi con cá xuống đất và ngơ ngác hỏi: "Chết ư?" Bà nhìn tôi. Tôi có thể đọc được ý nghĩ của mẹ. Chỉ suýt nữa thì tôi cũng đã đi theo cùng bố. Liệu có phải mẹ đã có một mối linh cảm? "Vậy các ông muốn đòi tiền gì?"

"Tiền ông ta đánh thua khi chơi bài ba quân", người đàn ông còn lại trả lời, rồi họ bước vào nhà. Họ lục lọi và tìm thấy tiền tiết kiệm của chúng tôi cất trong một tráp gỗ đợi đến lúc đổi thành vàng. Ho cắp theo chiếc tráp gỗ mà không thèm đếm xỉa đến tiếng khóc của mẹ tôi và lời cầu khẩn của ông bà tôi vừa đổ xô đến. Họ biến nhanh như cắt và không nói một lời, hệt như lúc đến.

Tất cả chúng tôi đều đứng ngây người và bất lực, tôi không thể tin được là giờ đây mình không còn bố nữa. Tôi không khóc, bởi trước khi nỗi buồn có thể chạm vào đến tim thì cảm giác sợ hãi trước người chủ mới của gia đình đã xâm chiếm hết tâm trí của tôi.

Ít mà nhiều

Ngoại trừ mẹ và bà chẳng có ai trong chúng tôi khóc vì cái chết của bố. Như đã dự đoán, anh cả của tôi ngay lập tức thể hiện quyền uy của mình với tư cách ông chủ gia đình một cách đầy khoái chí. Đám trẻ con chúng tôi làm công việc của mình không chút kêu ca, với hy vọng sẽ không bị anh ta đánh đòn.

Ông bà của tôi khuyên mẹ mang giấy tờ của bố ra thị xã làm đơn xin tiền tuất, ít nhất để chúng tôi có một khoản tiền nào đó sống qua ngày. Tôi được phép đi cùng mẹ, bởi tôi thuộc đường ở thị xã hơn bà.

Thị xã Hà Tĩnh nhốn nháo hơn mọi khi. Trên đường phố chỉ có ít người qua lại, họ tỏ ra sợ sệt, lính Pháp lái xe tải hấp tấp chạy tới chạy lui. Chúng tôi phải đi vào một doanh trại Pháp. Một người đàn ông da đen đứng ở cửa bập bẹ giải thích cho chúng tôi cách tìm đến chỗ có thẩm quyền, đường đi nghe chừng phức tạp. Một người đàn ông châu Âu dáng vẻ hòa nhã, thường xuyên dùng một chiếc khăn bông trắng lau mò hôi mặc dù quạt gió đang chạy, kiên nhẫn lắng nghe, vừa nghe vừa gật gù, câu chuyện ngắn của mẹ tôi do một người lính Annamit đứng gác ở cửa dịch sang tiếng Pháp. Khi bà nói xong, ông ta xem qua mớ giấy tờ có đóng dấu của bố tôi rồi gạt sang một bên với vẻ khinh khỉnh, ít nhất là theo cảm nhận của tôi. "Vâng. Chồng bà đã phục vụ trung thành cho mẫu quốc trong hai mươi lăm năm. Thật tội nghiệp là ông nhà không còn nữa. Nhưng tiếc là chúng tôi không giúp được gì cho bà", người lính trẻ dịch lại. "Nhưng mà xin ông xem đây, đây là giấy tờ, con dấu... Ông ấy thậm chí đã mất hai ngón tay khi chiến đấu", mẹ tôi nói như vậy và đưa giấy tờ cho người đàn ông trẻ.

Với giọng nói điềm tĩnh và lạnh lùng, viên công chức nói tiếp: "Chồng bà chưa bao giờ có quyền hưởng hưu trí, và như vậy gia đình ông ấy cũng không. Ông ta là người Annamit".

Mẹ tôi có vẻ không hiểu điều mà người đàn ông nói. Bà chờ đợi một lời giải thích tiếp theo.

"Chồng bà là lính tình nguyện", người lính trẻ nhấn mạnh chữ "tình nguyện". "Lính tình nguyện người Annamit đối với chúng tôi không có quyền gì hết. Điều này có nghĩa là bà sẽ không được hưởng một chế độ nào cả."

Người đàn ông đứng dậy, khẽ chào chúng tôi trước khi đi ra ngoài. Mẹ thu gom đám giấy tờ lại. Bà già đi trông thấy. Vào ngày này tôi học được một điều: một người đàn bà Annamit chẳng là gì so với một người đàn ông Annamit, nhưng so với một người Âu châu thì một người đàn ông Annamit cũng vô giá trị như chính một người đàn bà.

Một ngày được tổ tiên phù hộ

Mặc dù mẹ không một lời phàn nàn tôi vẫn cảm nhận được bà buồn bã như thế nào. Tôi chỉ chờ một dấu hiệu từ mẹ để có thể an ủi bà, để một nụ cười sẽ làm gương mặt của bà rạng rỡ trở lại, nhưng vô vọng. Vào một ngày tôi đang đứng phơi quần áo phía sau nhà, trong lòng ngổn ngang bao ý nghĩ, thì bỗng nhiên có một loạt xe vận tải quân sự chạy vào làng. Tôi nghe tiếng đàn bà la hét và tiếng trẻ con khóc. Những giọng đàn ông cục cằn ra lệnh bằng một thứ tiếng xa lạ. Quân đội Nhật Bản đã đột nhập vào làng của chúng tôi.

Trong chớp nhoáng mọi người dân đã bị dồn lại bằng vũ lực tàn bạo. Một cụ già bị chém đầu bằng kiếm vì dùng một chiếc muôi gỗ huơ lên tự vệ. Đa số người lớn và trẻ em, trong đó có người nhà của tôi, quỳ gối xuống đất, cúi đầu và chắp tay lạy xin tha mạng sống.

Đám lính tráng đầy vẻ hung dữ. Vẻ mặt của họ khiến tôi tưởng đến mặt của những con trâu lên cơn điên. Một người lính nói to bằng tiếng Việt rằng Nhật Bản đã chiếm nước của chúng tôi. Nông dân chúng tôi không được phép kháng cự và phải nộp cho quân đội Nhật Bản toàn bộ lương thực dự trữ, nếu không làng chúng tôi sẽ bị phá hủy. Đám lính sau đó tản ra, đi vào từng nhà và cướp bóc các gian nhà kho.

Các anh chị em tôi tiếp tục quỳ gối trước sân và theo dõi diễn biến sự việc mà không dám cựa mình. Mẹ thì đi theo hai người lính vào nhà. Tôi đi theo sau. Một trong hai người lính lấy hết các dự trữ cá, thuốc lào và gạo của chúng tôi từ gian kho, người kia thì dùng dao bửa ống bương chứa tiền tiết kiệm. Khi mẹ tìm cách van xin, người này đấm vào mặt bà và đoạt lấy những gì mà ông ta muốn. Mẹ ngã xuống đất và nằm khóc ở đó. Tôi không dám đến chỗ mẹ và đứng lặng như bị tê liệt.

Với bao gạo cuối cùng của gia đình tôi trên vai và các thực phẩm khác dự trữ trên tay, người lính Nhật đầu tiên im lặng rời khỏi ngôi nhà của chúng tôi. Người thứ hai vừa đi qua chỗ tôi thì bỗng nhiên quay ngoắt lại. Y nhìn tôi từ đầu đến chân. Hoàn toàn bất ngờ, bàn tay cứng như sắt của y tóm chặt vai phải của tôi, khiến tôi rùng mình khiếp sợ. Với một thứ tiếng Việt lơ lớ, y hét lên: "Con này! Đi theo chúng tao!".

Không suy nghĩ gì, tôi kháng cự một cách quyết liệt và đẩy người đàn ông ra khỏi người bằng cách cào cấu vào bàn tay y. Tôi thấy lòng trắng mắt của y vằn tia đỏ. Y tức giận rút lưỡi lê, đâm thẳng vào người tôi. Trong giây lát, tôi cảm thấy lưỡi kim loại lạnh thọc qua làn da, xuyên sâu vào bụng rồi lại được rút ra.

Theo bản năng, tôi nhắm nghiền mắt lại, gập người về phía trước và ngã xuống đất, giả chết. Tôi hy vọng rằng hung thủ sẽ rời đi, và y cũng bỏ đi thật.

Thời đen tối

Cuộc đột kích trôi qua. Nằm trên vũng máu tôi nghe tiếng kêu la, khóc lóc và nguyền rủa trộn lẫn vào nhau ở phía bên ngoài. Anh chị em tôi đi vào nhà và đỡ mẹ đứng dậy, mặt bà đẫm máu. Mẹ đến ngay chỗ tôi, trước khi kịp nhìn thấy vết thương của tôi, mẹ đã cho gọi ông ngoại sang.

"Các con kiếm thật nhiều mạng nhện mang về đây!", ông hạ lệnh một cách bình tĩnh, nhưng dứt khoát với đám trẻ. "Phải cầm máu lại ngay!" Mặc dù vết đâm sâu, dường như không có một cơ quan nội tạng quan trọng nào bị tổn thương.

"Con đã gặp may, nhờ tổ tiên!", ông ngoại nói và thận trọng kéo chiếc áo của tôi qua đầu. Lũ trẻ quay trở về với các túm mạng nhện vừa nhanh chóng gom được trên tay. Ông ngoại lần lượt xếp các lớp mạng nhện lên vết thương. Vết thương đau rát, nhưng ánh mắt nhìn tự tin của ông khiến tôi yên lòng. Tôi tin cậy ông và biết là ông sẽ chữa lành vết thương cho tôi. Từ hôm đó, mỗi ngày nhiều lượt, ông đến nhà để băng cho tôi. Khi đã khoẻ hơn, tôi tận dụng cơ hội để hỏi ông về thành phần các loại thuốc cao của ông.

Sau một vài tuần tôi đã có thể đứng dậy, bụng vẫn còn bị băng, để hỗ trợ cho mẹ trong những công việc hàng ngày.

Kho bếp vẫn trống rỗng, mùa thu hoạch lúa chẳng đủ cho tất cả các miệng ăn. Nhiều người trong làng quyết định tạm thời bỏ nhà cửa đến sống ở nhà bà con cho đến khi tình hình ổn định trở lại.

Vào thời gian này có nhiều người từ ngoài Bắc và trong Nam đi qua làng chúng tôi và kể lại cho dân làng nghe những tin tức mới nhất về tình hình trong nước. Nhật Bản, với quân đội hùng mạnh của mình, đã thiết lập căn cứ chiến lược trên phần lớn lãnh thổ Đông Dương, qua đó áp đặt sự hiện diện của mình đối với chính quyền thuộc địa Pháp. Cho dù những kẻ chiếm đóng chấp nhận hệ thống hành chính đang có, điều đó không ngăn cản họ bắt giữ người Pháp, người Việt và đưa họ lên vùng núi. Đồng thời, đối với thường dân, dường như ít có gì thay đổi, Hoàng đế của chúng tôi vẫn tiếp túc tại vị. Thế giới đối với chúng tôi như vậy dường như vẫn ít nhiều yên ổn. Tuy nhiên chúng tôi cũng có nghe về một vụ khởi nghĩa do Đảng Cộng sản khởi xướng ở phía Nam bị đàn áp đẫm máu và về nhiều vụ nổi dậy ở phía Bắc nhằm chống lại hai thế lực chiếm đóng, người Pháp và người Nhật. Liên tục có những gia đình đến lánh nạn ở làng của chúng tôi, họ còn giữ được mạng sống thật nhưng đã mất hết mọi thứ khác.

Kiếm được cái ăn đối với chúng tôi lúc đó còn quan trọng hơn là việc để tâm đến các sự kiện này. Chúng tôi cùng khổ đến mức phải đi bắt sâu bọ sống dưới các vỏ cây rồi sau đó nướng chúng qua quýt để ăn.

Những con lợn được báo trước

Giai đoạn khốn khổ khiến anh cả của tôi phải tạm dừng việc đi học, may mắn thay chỉ kéo dài mấy tháng. Tôi nhận thấy anh đã trở nên cáu bẳn như thế nào vì việc này. Sau đó cuộc sống của chúng tôi bình thường trở lại. Như mọi khi mẹ gánh nước từ sông lên, dùng khăn vải để lọc rồi rót vào hai can lớn bằng kim loại. Chúng tôi dùng nước này để nấu canh ăn với cơm. Sau này anh Hòe còn tham gia đi săn cùng với những nam thanh niên khác, và khi lần đầu tiên họ khiêng về một con hoẵng bắn được, cả nhà đã reo lên hoan hỉ.

Lũ con gái chúng tôi thường đi vào bìa rừng kiếm củi. Một ngày khi chúng tôi quay trở lại, có một người đàn ông lạ đứng cạnh anh cả, tay chỉ về hướng tôi. Hai người đàn ông đi vào nhà chúng tôi và mở một chai rượu rum. Tôi chuyển dần mớ củi vừa kiếm về lên nhà, trong lòng thấy bất an. Máu trong huyết quản của tôi như bị đông lại khi tôi nhận ra người đàn ông lạ mặt: ông ta chính là người mà tôi đã có lần nghe trộm khi nói chuyện với bố tôi - tôi đã được hứa gả cho con trai của ông ta!

Anh tôi theo tiễn ông ta một đoạn và tỏ ra vô cùng mãn nguyện khi quay trở lại.

"Lại đây", anh ta gọi tôi khi vào đến nhà. Đầy căng thẳng, tôi đi đến chỗ anh, với hy vọng không bị nhận ra là mình đang bị run rẩy.

Anh ngồi xuống. Tôi đứng yên.

"Mày biết đấy, nhà ta đang gặp khó. Anh chẳng thể lo được hết cho mọi người. Vì vậy mà tao đã quyết định làm lịch cưới của mày sớm hơn. Gia đình chồng mày thật tốt bụng và đã đồng ý rước dâu về sớm hơn. Trước mùa mưa các cụ sẽ nhuộm lại răng cho mày, và sau khi nhận đồ lễ cưới, mẹ và anh sẽ đưa em đến nhà người ta. Tháng Mười sẽ làm lễ cưới. Mọi chuyện là như vậy, bây giờ thì mày đi đi!" Nói xong anh ta vớ lấy một cuốn sách với vẻ ngạo mạn và bắt đầu đọc, không thèm đếm xỉa gì đến tôi nữa. Trên môi anh ta thấp thoáng một nụ cười.

Hoàn toàn lặng lẽ, tôi rời khỏi căn nhà. Tôi đã hết run và bình tĩnh một cách lạ thường. Chỉ trái tim tôi là trĩu nặng như đá đè, đến mức không còn cả chỗ cho sự căm hờn. Trước ngày sinh nhật lần thứ mười hai của tôi, hai con lợn đã hứa sẽ được mang đến, và một người đàn ông lạ hoắc sẽ cưới và chiếm đoạt tôi làm vợ.

Quyết định

Tôi quay lại ngay với việc nhà, liếc thấy qua đuôi mắt mẹ đang bận rộn chế biến hai con bồ câu rừng cho bữa ăn tối. Trước mâm cơm, anh cả tôi lại sẽ lăn xả vào những miếng ngon như một con thú dữ và chỉ chừa lại cho mấy anh em chúng tôi phần đầu và cánh. Còn mẹ thì, lặng lẽ như mọi lần, sẽ ăn phần thức ăn còn sót lại của chúng tôi.

Hình dung rằng mình sẽ sống cuộc đời của một người đàn bà nhẫn nhục như mẹ vượt quá sức chịu đựng của tôi, và ngay trong buổi tối hôm đó, khi mọi người đã ngủ say, tôi đã đi đến một quyết định. Tôi sẽ bỏ trốn.

Còn hai tuần nữa mới đến rằm, vầng trăng khuyết còn chênh chếch ở phía cuối trời. Chẳng mang theo một thứ đồ đạc gì, tôi băng chân trần qua đêm về hướng Bắc, bụng chứa đầy hờn tủi và không hề ngoái mặt lại một lần. Trước khi rạng đông hiện lên, có đôi vợ chồng già cho tôi ngồi lên chiếc xe kéo của họ, trên xe có mấy con gà, một chiếc bàn và hai chiếc ghế, toàn bộ gia sản của họ.

Họ không chất vấn tôi và để cho tôi ngủ cho đến khi xe tới Vinh vào buổi chiều. Tôi quyết định ở lại đây. Tôi nhảy xuống đất, cám ơn và vẫy theo đôi vợ chồng già cho đến khi họ đi khuất.

Ở Vinh tôi đi từ nhà nọ qua nhà kia để tìm việc làm. Tôi kể với mọi người rằng mình đang trên đường đi tìm người bố bị thất lạc và cần có việc để sống qua bữa và đi tiếp.

Người ta khuyên tôi đến thử vận tại cửa hàng bán đồ trang sức. Ở đó một người phụ nữ trung niên với thái độ thân thiện nhận tôi làm người ở. Tôi có nhiệm vụ giặt và là ủi quần áo cho bà ấy, bà không trả lương, nhưng mỗi ngày cho tôi một bữa ăn nóng. Tôi còn phải đi lấy nước sạch ở một ao nhỏ ở gần đấy.

Vào sáng hôm sau tôi bắt đầu với những công việc nhẹ nhàng này. Sau vài tiếng đồng hồ tôi đã xong việc và được phép rời khỏi nhà để đi ngắm nghía phố phường. Mọi người theo đuổi công việc của mình như thường lệ. Lần đầu tiên tôi thấy một người lấy ráy tai chuyên nghiệp, ông ta lanh lảnh rao chào dịch vụ của mình, trên tay cầm một que gỗ dài và mỏng. Tôi cũng nhìn thấy nhiều trẻ em chơi trên đường phố, chúng khiến tôi nhớ gia đình. Nhưng tôi gạt các hồi ức của mình sang một bên. Tự do, đó là một cảm giác thật mới và đẹp đẽ!

Giá trả cho nỗi nhớ

Tám ngày trôi qua. Bà chủ hài lòng với công việc của tôi, và tôi được ăn uống đầy đủ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy một nỗi nhớ nhà không thể tả trào lên trong lòng. Tôi thật nhớ các em gái và em trai Lê của tôi, tôi hình dung chúng ngủ thiếp đi trong căn phòng ngủ chung của chúng tôi như thế nào. Tôi thấy nét mặt dịu hiền của mẹ và tìm cách hình dung về mùi hương tóc, làn da mềm mại của bà. Tôi sợ rằng mình sẽ quên tất cả những điều này.

Bà chủ của tôi mỉm cười thông cảm, khi tôi nói với bà rằng mình muốn quay trở về nhà. Trước khi chia tay vào sáng sớm, bà con nấu cho tôi món mì nóng và cho tôi hai bánh chưng để đi đường. Bà xoa đầu tôi khi tôi lên đường, cử chỉ này khiến tôi liên tưởng nhiều đến mẹ và càng củng cố thêm cho quyết định trở về của mình.

Tôi gặp may: người tài xế một chiếc xe vận tải quân sự từ Hà Nội chở hàng tiếp viện cho một căn cứ ở Đà Nẵng dừng xe khi thấy tôi vẫy và cho tôi đi cùng. Đến Hà Tĩnh tôi xuống xe và chạy về nhà.

Lúc ấy đã gần trưa. Các em tôi chơi trên sân trước nhà với các vỏ dừa và bỏ rơi mọi thứ khi nhìn thấy tôi, chúng ào đến bám vào cổ tôi. Mẹ là người đầu tiên từ trong nhà đi ra. Trong đôi mắt sáng ngời hạnh phúc của mẹ tôi nhận ra mình đã làm bà đau khổ như thế nào và tôi bật khóc. Tôi nuối tiếc vì đã khiến bà bị tổn thương, nhưng cũng thật sung sướng vì cuối cùng đã phát hiện được một sự bày tỏ cảm xúc nơi bà.

Bây giờ anh trai cả từ trong nhà đi ra và tiến thẳng đến chỗ tôi. Không nói một lời, anh ta đấm thẳng vào mặt tôi, cú đấm mạnh đến mức tôi ngã gục xuống đất. Dưới ánh mắt của tất cả mọi người, anh ta túm tóc tôi và kéo tôi xềnh xệch trên nền nhà, tôi cảm thấy đầu gối bị đất đá xé toạc.

Như bố từng làm ngày trước, anh cả buộc tóc tôi vào chân giường, giật phăng chiếc áo mỏng khỏi lưng tôi trước khi đi lấy chiếc hèo tre. Sau đó anh ta đánh tôi tóe máu. Mỗi một cú đánh kéo tôi về gần hơn với thực tại, với thế giới bạo tàn của tôi. Mỗi một cú đạp khiến tôi ý thức rõ ràng hơn chỗ của tôi không phải ở đây, không thể còn ở đây được nữa. Chính tôi cũng ngạc nhiên rằng mình đã không la hét, không khóc lóc. Tôi cảm thấy có một nguồn sức mạnh nội tại ngăn cản mình làm việc đó và có lẽ điều này đã khiến anh cả càng trở nên tức giận hơn.

Khi không còn sức để đánh nữa, anh ta ném chiếc hèo tre vào mặt tôi, giọng thều thào rít lên: "Lần sau thì tao sẽ giết mày!".

Tôi nằm liệt giường mười ngày liền, khắp cả mình mẩy sưng tấy. Tôi nuôi dưỡng sự căm hờn, còn mẹ thì chăm sóc tôi, không hề nói một lời như mọi khi.

Giả biệt

"Nếu thế giới ngoài kia không còn muốn lắng nghe ta, ta hãy xây dựng một thế giới cho riêng mình và hãy cầu nguyện để đừng kẻ nào có thể hủy hoại nó." (Loan)

Vào một buổi sáng tinh mơ hai anh trai của tôi lên đường đi Sài Gòn. Chúng tôi cảm nhận thấy những hơi gió ẩm nóng đầu tiên, báo hiệu cho mùa mưa sắp đến, khi bà ngoại cho biết sáng mai bà sẽ nhuộm răng lại cho tôi. Trong thâm tâm tới khước từ việc trở thành một người phụ nữ trưởng thành. Tôi căm ghét cơ thể của mình và cầu mong tổ tiên không cho phép các nét mặt của mình trở nên tinh tế hơn.

Trong những tuần lễ cuối hình ảnh cơ thể sùi vẩy, biến dạng của mình khiến tôi càng thêm củng cố ý định sẽ bỏ nhà ra đi. Lần này thì tôi chắc chắn là mình sẽ thành công hơn. Tuy nhiên, tôi không muốn ra đi mà trước đó không từ biệt mẹ.

Tôi tìm thấy mẹ trong vườn, bà đang nằm thiu thiu ngủ dưới bóng râm của rặng cây ăn quả. Nét mặt của bà thư giãn một cách hiếm hoi. Trông bà thật đẹp. Tôi đặt đầu lên ngực bà, mắt vẫn nhắm bà đưa tay vuốt ve tóc tôi.

"Mẹ ơi, con đến để chào mẹ. Con muốn đi khỏi nhà, lần này sẽ đi hẳn..." Không hề run rẩy, tôi nhỏ nhẹ nói những lời này.

Mẹ ngồi dậy, bình tĩnh, nhìn sâu vào mắt tôi, dường như với hy vọng tìm thấy trong đó một lời nói dối. Tâm hồn tôi có thể cảm thấy cái nhìn dò xét của bà. Nhưng lời nói của bà chấm dứt khoảng khắc kéo dài này.

"Nếu con nghe được những tiếng gọi từ tương lai của mình mách bảo thì con hãy đi theo chúng. Mẹ vẫn biết rằng con không bao giờ chịu khuất phục. Những lúc chứng kiến sự bướng bỉnh của con là mẹ thấy lại chính mình thời tuổi trẻ. Giờ thì mẹ không sao có được sự can đảm này nữa, bởi mẹ quá yếu ớt. Mẹ hiểu con. Con có lý, con hãy đừng lặp lại con đường của mẹ. Con hãy như một con chim trời, con hãy bay thật xa như có thể! Ngày ngày mẹ sẽ cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho con. Nếu đến một ngày mà con cảm thấy đã chắc chắn thành công thì còn hãy cho mẹ biết! Mẹ sẽ chờ. Con gái yêu, còn một điều nữa, con nhớ đừng quên để bảo trọng tính mạng: từ bây giờ con phải sống như một đứa trẻ mồ côi, không còn người nhà. Nếu có ai hỏi thì con hay nói rằng mình không có gia đình nữa, để không ai có thể lần theo tung tích của con được. Anh trai của con đi về phía Nam, vậy thì còn hãy đi về hướng Bắc."

Tôi nghĩ rằng cả hai chúng tôi đều muốn việc chia tay diễn ra một cách ngắn ngủi để không bị sụp đổ dưới gánh nặng của khoảng khắc này. Chúng tôi không khóc. Mẹ lại nằm xuống và nhắm mắt lại, để tôi không thể đọc cảm xúc của bà, sợ có thể làm thay đổi quyết định của mình.

Tôi quay người bước đi, chỉ lưu giữ lại ký ức này. Tôi còn cảm thấy cái nhìn trìu mến của mẹ sau lưng, cho đến khi hoàng hôn đổ xuống. Tôi cuốc bộ đi tới tương lai của mình. Ngày đó tôi vẫn chưa tròn mười hai tuổi.