← Quay lại trang sách

- 2 -

Một cánh cửa mở

Hoàn toàn bối rối và khiếp đảm về những gì sẽ chờ đợi mình nếu lọt vào tay những người này, tôi chạy thục mạng ra đường phố, vừa chạy vừa xô gạt những người bắt gặp, bất kể trẻ hay già. Những người bán hàng chửi vọng theo tôi và nguyền rủa, trong lúc nhặt lại những trái cây bị rơi dưới đất. Tiếng chửi giận dữ của họ làm át cả tiếng hét của cô tôi và của người đàn ông. Tôi cảm thấy hơi thở của mình đuối dần và rẽ vào một ngõ hẻm xa lạ.

Mặc dù yếu tố bất ngờ của cuộc trốn chạy đã cho tôi một lợi thế nhỏ, nhưng giờ đây đôi chân của tôi đã chùn. Liệu tôi sẽ có thể nhờ vả ai bây giờ? Tôi run bắn khắp toàn thân và đứng như trời trồng. Tôi đã bị thất thế, bất cứ lúc nào những bộ mặt giận dữ của những kẻ truy đuổi cũng sẽ có thể xuất hiện từ góc phố. Chắc chắn là họ sẽ kéo tôi theo.

Bỗng nhiên có một cánh cửa bật mở phía sau lưng tôi.

"Vào đây, nhanh lên!", một giọng nói vang lên. Không do dự tôi nhảy qua khe cửa, không kịp nhận biết ai là người vừa lên tiếng. Cánh cửa vừa khép lại thì tôi đã nghe những tiếng la hét tiến lại gần.

Tôi vẫn như bị tê liệt. Cơ thể đẫm mồ hôi không chịu tuân thủ tôi nữa. Người đàn ông già vừa mở hé cánh cửa ra hiệu bảo tôi hãy yên lặng. Mắt nhắm nghiền, tôi thầm kêu cứu mẹ. Tôi sợ mất hết hồn vía và run lẩy bẩy khắp toàn thân.

"Bình tĩnh, bình tĩnh lại đi con. Đừng sợ! Họ đã đi rồi", người đàn ông nói nhỏ nhẹ sau một hồi im lặng. "Con ngồi xuống đi. Ở đây con được an toàn, sẽ không có gì xảy ra với con cả. Tên của ông là Hương", ông nói tiếp và niềm nỡ chỉ vào một chiếc ghế gỗ chạm trổ, tôi ngồi xuống mà đôi chân và đầu gối vẫn run lẩy bẩy. Tôi tìm cách chế ngự hơi thở hổn hển của mình.

Ông Hương lặng lẽ nấu cho chúng tôi một ấm chè xanh rồi ngồi xuống trước mặt tôi.

Một người tử tế

Tôi quyết định kể cho ông nghe sự thật. Về lý do tôi chạy trốn khỏi nhà, về cả những gì tôi đang trải qua. Ông để cho tôi nói mà không ngắt lời, châm một tẩu thuốc và gật gù nghe. Tôi cám ơn ông đã cứu thoát tôi khỏi cuộc sống trong nhà thổ, một cảnh ngộ mà từ trước tới giờ tôi mới chỉ nghe qua lời kể. "Nếu con muốn, con có thể ở lại đây", ông nói. "Ông sống một mình. Con có thể nấu cơm cho ông, làm việc nhà. Mà con lại biết đọc nữa, vậy thì thỉnh thoảng còn đọc sách báo cho ông nghe. Mỗi năm hai lần con sẽ có quần áo mới. Tất nhiên ông cũng sẽ trả lương cho con. Mười đồng một tháng."

Nổi ngạc nhiên và niềm vui tràn ngập về lời đề nghị bất ngờ và hào phóng này chắc chắn đã hiển hiện hết trên vẻ mặt của tôi. Tôi không nói được nên lời và chỉ biết gật đầu. Vào khoảnh khắc này tôi không có khả năng làm được điều gì hơn nữa.

Ông Hương kể cho tôi nghe một chút về bản thân. Ông là một cựu binh người Hoa. Ông đã đào ngủ ở đó. Mấy năm trước ông đến An Nam từ vùng Bắc Bắc Bộ, sau đó bỏ về Hà Nội và ẩn náu ở đó. Ông để lại gia đình của mình ở Trung Hoa mà khong bao giờ gặp lại. Tôi có thể đồng cảm thật sâu sắc với ông về việc này. Bởi vì hầu như toàn bộ hệ thống thương nghiệp của thành phố nằm trong tay người Hoa, giống như những người đồng hương khác không bị chết bởi bệnh sốt rét, ông đã xây dựng cho mình một mạng lưới quan hệ để có thể sống và làm ăn mà không bị quấy nhiễu ở đây.

Chúng tôi chọn một phòng trống ở trên gác và sắp xếp nó làm nơi ở cho tôi. Từ lúc này trở đi tôi có được cảm giác là chủ nhân nơi ăn chốn ở mới của mình. Tôi cảm thấy hài lòng. Ngay trong ngày hôm đó ông mua cho tôi một bộ quần áo giản dị, không gây sự chú ý. Vào thời gian đầu ông cấm tôi không được ra ngoài, như một biện pháp phòng ngừa.

Bây giờ tôi sống ở đây, trong một ngôi nhà tiện nghi, lòng tràn đầy sự biết ơn đối với một người xa lạ dành cho tôi sự chăm sóc ân cần như của một người ông và từng bước giúp tôi có một cuộc sống hoàn toàn bình thường, không sợ hãi. Theo thời gian, tôi dành cho ông một lòng tin cậy vô hạn và sự nể vì. Tôi cũng cảm thấy đây là một tình cảm hai chiều. Và như vậy tôi làm những công việc nội trợ và bếp núc hàng ngày của mình càng chăm chỉ và cẩn trọng hơn, thậm chí với cả một niềm vui lớn. Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng về sự may mắn của mình.

Khi có khách người Hoa đến nhà thì tôi lùi lên tầng trên, nhưng vẫn chăm chú lắng nghe chuyện từ đó. Sau một vài tháng, tôi đã hiểu sơ sơ nội dung trò chuyện nói bằng tiếng mẹ đẻ của ông chủ. Cùng với ông giữa chúng tôi cũng đi mua sắm ở khu chợ của người Hoa, vào những dịp như vậy ông luôn mỉm cười để tôi đếm tiền bằng tiếng Hoa.

Một vài lần ông đi dạo phố Hà Nội cùng tôi, ông biết hết các ngóc ngách của thành phố và chỉ cho tôi những khu phố lạ, nơi các đường phố được sắp xếp theo các nghề thủ công khác nhau, chẳng hạn phố Hàng Đào, phố Hàng Bông, phố Hàng Thiếc hay phố Lò Đúc.

Tuy nhiên, khi ở thành phố bắt đầu có các vụ tấn công vào các lực lượng chiếm đóng và cả những vụ nổ, ông quyết định không ra phố nhiều nữa. Ở nhà an toàn hơn. Ngược lại với tôi, ông tỏ ra rất bình tĩnh khi nghe tiếng súng từ bên ngoài vọng vào. Việc trả đũa trước một vụ tấn công lại kéo theo những vụ tấn công mới.

Trong chừng mực nào đó ông khiến tôi nhớ về ông ngoại của tôi, bởi ông cũng có một khối tri thức lớn và sẵn sàng chia sẻ nó với tôi. Ông thường xuyên chữa lỗi cho tôi khi đọc và viết. Vào những lúc rỗi tôi đọc ngấu nghiến các cuốn sách của ông. Nằm trong lớp màn chống muỗi, lần đầu tiên tôi đọc những cuốn chuyện ngôn tình ly kỳ, các truyền thuyết và chuyện cổ tích hấp dẫn và cả các cuốn sách về lịch sử Pháp mà ông chủ đặc biệt quan tâm.

Để giúp tôi có khả năng tự vệ, ông đều đặn truyền cho tôi Vịnh Xuân quyền, một môn phái võ thuật tự vệ của Trung Quốc. Những lúc cao hứng, ông chỉ cho tôi các động tác phản công. Chúng tôi tập luyện với vũ khí là một cây côn đơn giản làm bằng gỗ. Chẳng hạn tôi học cách dùng cây côn để nối dài cánh tay của mình và để làm chủ được đòn tấn công.

Càng ngày tôi càng cảm thấy chắc chắn, tự tin và mạnh mẽ hơn.

Nhập gia tùy tục

Ông Hương thích những món ăn đơn giản mà tôi nấu cho ông. Tuy nhiên cũng có lúc ông vào bếp và chỉ tôi cách nấu ăn, bằng cách tẩm gia vị các môn thịt hay cá cho ngon miệng hơn. Ông chẳng nề hà gì, kể cả trong việc thái rửa rau hay chỉ cho tôi các công thức nấu ăn mới. Điều này khiến tôi ngạc nhiên, bởi cho đến lúc tôi chỉ biết rằng: một người đàn ông thì chẳng dính dáng gì đến công việc bếp núc, mà được đàn bà nấu nướng và phục dịch. Truyền thống này bất di bất dịch ở đất nước tôi. Những giờ làm bếp chung này của chúng tôi được đan xen bởi những câu chuyện kể và các giai thoại. Vào một ngày, trong khi chờ món súp thịt chín, ông kể cho tôi nghe ở Trung Quốc người ta dùng các sợi tre được xây rất mịn nhằm giết đối phương một cách kín đáo bằng cách làm thủng dạ dày của người đó. Ông không khỏi ngạc nhiên khi nghe tôi chia sẻ lại kinh nghiệm của bố. Tôi không quên việc bố đã nhồi các con thú săn của mình và trước đó đốt cháy bộ ria của chúng ra sao. Những sợi ria này cũng có thể đâm thủng dạ dày một cách sắc lịm và không để lại dấu vết. Gian bếp thường vang lên tiếng cười. Dĩ nhiên tôi vui mừng một khi ông có mặt cùng tôi trong bếp. Và tôi cũng không khỏi ít nhiều tự hào về việc ông tỏ ra ưa thích sự có mặt của tôi bên cạnh.

Vào một buổi chiều có một đôi vợ chồng quen biết đến thăm ông, họ trò chuyện về bầu không khí chiến tranh đang dần bao phủ khắp đất nước. Nhiều khu vực đang bị tranh chấp ác liệt giữa Việt Minh, Pháp và Nhật. Đối với người dân tình hình ngày càng trở nên bất an hơn. Sau cuộc thảo luận dai dẳng, để tránh khỏi tâm trạng ủ dột và lo âu, chủ và khách hẹn cùng đi ăn tối ở một quán Tàu.

"Cô bé này cũng có thể đi cùng, nếu cô ấy thích", người phụ nữ nói một cách thân thiện và cám ơn tôi về ấm trà mà tôi đã pha cho bà. "Sao lại không nhỉ, con có muốn đi cùng không nào?", ông Hương hỏi tôi.

"Cám ơn ông bà, con rất thích ạ", tôi trả lời.

Chúng tôi gặp nhau ở khu phố Hoa Kiều, ở đó có thêm một đôi vợ chồng đứng tuổi nữa cũng họp mặt. Quán ăn nhỏ được chọn từ trước sặc mùi khói thuốc và chật ních khách, tuy nhiên có một nữ nhân viên dẫn chúng tôi ngay vào một phòng phụ nhỏ, ở đó có kê một chiếc bàn tròn và chúng tôi được ngồi tách biệt với các thực khách còn lại.

Dường như tất cả các món ăn đều đã được đặt trước. Đầu tiên chúng tôi ăn món chim cút nhồi, tiếp theo đó là món xúp sò huyết. Đúng là danh bất hư truyền: khi tôi vừa chọc đũa vào một con sò, một tia màu tươi phọt ra! Bên cạnh con vịt Bắc Kinh giòn tan còn có bảy món khác nhau, tất cả đều được chế biến từ thịt của cùng một con rắn. Tôi quyết định ăn món cơm thịt vịt. "Món tiếp theo chắc chắn là không dành cho con!", ông Hương nói với tôi một cách hào hứng.

Ba nhân viên dọn sạch bàn ăn, trước khi họ quay lại phòng, mang theo năm con khỉ bé đầy sợ sệt, cổ từng con bị quấn xích sắt và phần thân bị bó chặt trong một chiếc cũi gỗ. Dần dần tôi hiểu những chiếc lỗ tròn nhỏ khoét trên bàn ăn được dùng để làm việc gì. Trước mặt chủ tiệc và các thực khách khác - trừ mỗi tôi - các con khỉ bé bị nhốt trong cũi lần lượt được đặt xuống dưới các lỗ bàn, đỉnh sọ của từng con nhô lên. Tôi không thể tin nổi mắt mình về những gì chứng kiến sau đó. Với một con dao cực sắc, đỉnh sọ của chúng bị bổ ra, những con vật xấu số rú lên và giẫy dụa. Sau khi xem xét và tán thưởng, từng thực khách cầm một chiếc thìa bạc múc vào não con khỉ của mình. Với một động tác thuần thục, họ khoét gọn cả bộ óc nhỏ và để cho nó chảy tan trên lưỡi một cách khoái trá, trong khi những con vật đó gục xuống.

Vào buổi tối hôm đó tôi chẳng ăn được gì thêm nữa. Tôi cảm thấy mừng là thức ăn đã ăn trước đó không bị trào ra khỏi dạ dày. Tôi tự nhủ rằng những con vật sống mà mình mua ngoài chợ rồi cũng bị hóa kiếp dưới tay mình như vậy, chẳng có gì là ghê gớm cả. Và người Hoa có những phong tục của riêng họ. Tôi tìm cách coi câu chuyện xảy ra là bình thường. Tuy nhiên, vào những ngày sau đó, tôi thật khó tránh nghĩ đến nó mỗi lần trước khi thiếp vào giấc ngủ.

Một con ma đói

Từ một năm nay tôi sống ở nhà ông Hương, nhờ vào các mối quan hệ của mình mà ông đã khắc phục một cách thần tình những đợt khan hiếm thực phẩm thường xảy ra ở thành phố trong thời gian này. Nông dân bị bóc lột và cưỡng bức nộp toàn bộ thu hoạch mùa màng ở những nơi do người Nhật kiểm soát. Vào thời gian này, tôi làm thân với một bạn gái người An Nam sống ở nhà bên, vào những giờ rỗi cô dạy cho tôi cách đi xe đạp. Hiền ít hơn tôi một tuổi và sinh ra ở Hà Nội. Chúng tôi chơi trò dùng những chai thủy tinh rỗng thổi giả làm tiếng còi tàu thủy. Thỉnh thoảng chúng tôi đạp xe của Hiền đến trước một doanh trại và chờ ở đó cho đến khi có một người vã mồ hôi thổi kèn trompet điểm danh. Vào đúng lúc đó chúng tôi vừa cười cợt, vừa cố tình mút các quả chanh còn xanh trước mặt ông ta. Gần như lần nào chúng tôi cũng làm cho người lính có hàng ria mép bị rối loạn, sau hồi kèn độc tấu ông ta bị người chỉ huy quát tháo. Do nước dãi chảy đầy miệng nên ông ta không thổi được âm thanh nào cho ra hồn, những tiếng kèn tậm tịt của ông khiến chúng tôi cười vỡ bụng. Đáng tiếc là chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới có dịp tụ tập để nô đùa, bởi chúng tôi không được phép gặp nhau ở nhà, mà chỉ ở trên đường phố. Vì vậy mà những khoảnh khắc vô tư bên cạnh nhau này càng trở nên quý giá và gợi nhớ cho tôi rằng mình vẫn còn là một đứa trẻ.

Một buổi sáng có tiếng người gõ cửa. Ông Hương lúc ấy đang lơ mơ ngủ trên ghế với một cuốn sách đặt trên ngực. Bởi vì đang ở tầng trệt, tôi có nhiệm vụ mở cửa.

Trước tôi là một bóng hình mà chỉ mới nhìn thoáng qua đã khiến cho máu của tôi bị đông cứng trong huyết quản và mặt mày tái mét, trước khi tôi kịp mím môi để tìm cách nén lại một tiếng thét ngắn ngủi và khô khốc. Đó là một thây ma đúng như trong hình dung của tôi. Tôi hoảng hốt lùi lại, vẫn không tin đây là sự thật, mắt trố hết cỡ, để cho cô tôi bước vào.

Cái nhìn vô hồn của người đàn bà nát rượu khiến vẻ mặt thô cứng, đầy nét nhăn và già nữa càng trở nên ghê rợn hơn, và chỉ trong tích tắc, cái ngày khủng khiếp mà bà ta đã phản bội tôi vụt hiện về trong trí nhớ. Tôi cứng người vì sợ hãi. Ông Hương đã tỉnh giấc. Ông chậm rãi đứng dậy, tiến về phía chúng tôi và khoát tay ra hiệu mời cô tôi vào nhà.

Cứ như thể tôi đang không tồn tại, cô tôi ngồi bệt ngay xuống chiếc ghế của tôi và điềm nhiên gật đầu khi ông Hương mời bà ta một chén chè rồi ngó quanh khắp nhà trong khi tôi đi pha nước với một cảm giác đầy uất ức. Bà uống nước đang nóng, sau đó cất giọng khàn khàn tố cáo về toàn bộ nỗi bất hạnh do tôi đổ lên đầu bà. Bà đòi tiền bồi thường và đưa ra ngay một tổng số tiền bằng toàn bộ tiền lương trong năm của tôi.

Tôi không thể tin nổi điều mình đang chứng kiến. Ông Hương im lặng lắng nghe rồi đứng dậy, lấy tiền từ tráp và trao cho cô tôi với điều kiện từ nay phải để cho tôi yên và không bao giờ được phép xuất hiện trong cuộc đời của tôi nữa. Khi nói xong ông đứng dậy, cô tôi đi theo ông ra cửa và biến mất, không hề nhìn tôi một lần.

Khi cánh cửa sập lại, tôi mới bừng tỉnh dậy từ trạng thái đờ đẫn và òa khóc, lâu lắm rồi tôi không như vậy.

"Con khóc vì chuyện tiền nong ư?", ông Hương hỏi và vuốt nhẹ vai tôi. "Đó là cách tốt nhất mà chúng ta có thể làm để vĩnh viễn thoát khỏi bà ta", ông nói và tìm cách lau nước mắt cho tôi.

"Không, không phải vì vậy", tôi vừa khóc vừa trả lời. "Con khóc là bởi vì cuộc đời thường quá bất công đối với con. Tại sao lúc sinh ra con không phải là con trai mà lại là con gái? Tại sao con luôn phải đánh mất tất cả, cứ mỗi lần sau khi con gặp được một chút may mắn? Tại sao người ta lại truy đuổi con? Con có làm gì nên tình nên tội đâu?" Tôi dùng ống tay áo gạt nước mắt.

Ông Hương ngồi xuống và nhìn tôi như chưa bao giờ ông làm như vậy, đầy nghiêm trang và tư lự.

"Cúc à, con biết không, đời là cho và lấy. Tìm thì sẽ thấy. Được rồi lại mất. Sinh tử tử sinh. Con cứ tin ông, mất mát chỉ khiến ta đau đớn lần đầu tiên. Những thử thách trong cuộc sống sẽ làm cho con cứng rắn và mạnh mẽ hơn. Tất nhiên, điều này không dễ. Con sẽ còn nhiều lần bị vấp ngã, nhưng mà ông tin chắc rằng con sẽ luôn đứng dậy và đi tiếp. Con hãy nhớ lời của ông."

Ông mỉm cười thật nhân hậu với tôi, khiến tôi cũng chỉ có thể mỉm cười đáp trả