- 3 -
Cái chết đến trên bốn chân
Cả ở nơi đây tôi cũng chỉ nhận được một đồng tiền lương ít ỏi, nhưng tôi luôn được no bụng và không phải ngủ ngoài trời. Một trong những công việc của tôi là đi chợ mua thức ăn. Để làm việc này tôi được giao một khoảng tiền nhất định. Tuy nhiên tôi quyết định những khi mua được thực phẩm với giá rẻ hơn mức bình thường do biết cách mặc cả thì sẽ giữ lại cho mình số tiền đã tiết kiếm được. Như vậy tôi thấy công bằng hơn.
Trên chợ vào buổi sáng này chỉ có ít người qua lại, trong đó có mấy người lính Pháp mang theo súng dài. Tôi bước đi nhịp nhàng, trên vai là chiếc đòn gánh, một đầu là một thúng rau quả tươi, ở phía thúng đầu kia là hai con gà đang sống, chân buộc túm vào nhau.
Tôi đã kết thúc việc mua hàng cho ngày hôm nay và đang trên đường về nhà thì bỗng nhiên có tiếng thét át hẳn cả tiếng trò chuyện của những người bán hàng. "Chạy đi, nhanh lên! Nó bị hóa dại đấy! Tránh nó ra!", nhiều giọng nói hấp tấp lẫn vào nhau. Tôi không biết những tiếng gọi này dành cho ai, chỉ khi có mấy người đàn ông và đàn bà sợ hãi chạy qua chỗ tôi và xô tôi suýt ngã xuống đất, tôi mới nhận ra nguyên nhân của cơn hoảng loạn bất ngờ này: một con chó mực.
Lao tiếp một vài mét đến trước mặt tôi thì nó dừng lại, dương mắt nhìn vào tôi chòng chọc. Nó không lớn lắm, tiếng thở hồng học của nó trộn lẫn trong tai tôi với tiếng tim của chính tôi đang đập dồn dập. Tôi chỉ có một giây lát để kịp để ý đến dãi nhớt đang nhỏ lỏng tỏng từ hai bên mõm nó và nghe được giọng một người đàn bà gọi tôi: "Chạy ngay đi, bé ơi! Chó dại đấy!" Tôi không hiểu được chó dại có nghĩa là gì, nhưng biết đây là điều chẳng có gì tốt lành. Bỗng dưng con vật chồm vào tôi. Bị bất ngờ bởi đòn tấn công này, tôi ngã sụp xuống đất và hét lên kinh hãi khi hàm răng sắc nhọn của nó cắm xuyên qua lớp quần vải vào bắp chân trái của tôi.
Tôi cảm thấy răng của con vật đã ngoạm sâu vào đến xương ống chân và thét lên kêu cứu vì quá đau đớn. Ba người đàn ông cầm gậy chạy tới và vụt lia lịa vào con chó cho đến khi nó rời khỏi tôi. Con vật lại tìm được nạn nhân tiếp theo và cắn vào cổ tay của một trong mấy người đàn ông. Người này hét lên, tìm cách giãy ra thì có một tiếng súng nổ. Một người lính Pháp đã bắn chết con chó và cứu chúng tôi khỏi con quái vật này. "Ta phải đốt nó ngay lập tức", những người đàn ông đứng vây quanh con vật đã chết rồi.
"Trong phố có mấy người bị cắn rồi, trong đó có ba người ngoại quốc. Và bây giờ thêm hai người này...", một người đàn bà nói.
Hoảng loạn và đau đớn, tôi ném đại đám rau quả và hai con gà bị rơi vào thúng. Tôi chỉ muốn trở về nhà, thật nhanh.
Cỏ điên
Trước khi xem xét vết thương, tôi vá lại chiếc quần. Bốn lỗ sâu trên ống chân của tôi hầu như không chảy máu và cơn đau điếng trước đó cũng đã dịu xuống. Tôi lại làm những công việc thường nhật mà không kể gì về sự việc đã xảy ra vì sợ sẽ bị khiển trách.
Những ngày đầu tiên diễn ra khá bình thường. Tôi tiếp tục tìm cách quên đi các cơn đau. Chỉ đến bữa ăn tối chung với ông bà chủ vào ba ngày sau đó - khi không có khách chúng tôi vẫn ăn chung cùng nhau - tôi không thấy ngon miệng. Tôi có cảm giác khó ở, gây sốt. Ngoài ra tôi còn bị buồn nôn. Bà chủ điểm tĩnh bảo tôi đi ngủ và nói rằng với một cô gái ở lứa tuổi của tôi đây là một chuyện bình thường. Có thể là tôi sắp hành kinh, một điều mới mẻ đối với tôi.
Đêm khuya bỗng dưng những cơn đau xoáy óc và cơn khát cồn cào đánh thức tôi dậy. Tôi đứng dậy, rót cho mình một cốc nước trà, nhưng không sao uống nổi được một ngụm. Cổ của tôi như bị thít lại. Để không đánh thức ai, đặc biệt là ông Sơn cũng ngủ trong gian bếp ở ngôi nhà ngang như tôi, tôi lại đặt mình xuống giường, nhưng suốt đêm tôi bị khát nước, bất an và thường xuyên trằn trọc, trở người qua lại.
Vào sáng sớm tôi phải dậy để chuẩn bị cho bữa ăn sớm. Ông Sơn đã đứng sẵn trong bếp khi tôi lảo đảo đi vào, các khớp xương đau nhức nhối.
Ông chào tôi như mọi lần và mở rèm cửa để cho ánh nắng lọt vào thì tôi hét lên.
"Cháu làm sao vậy?", ông hỏi một cách ngạc nhiên và lo lắng.
"Ánh sáng làm cho mắt cháu nhức, cháu khát cháy cổ mà chẳng uống được một giọt nước nào. Suốt cả đêm, cháu đã bị như vậy", tôi trả lời và lấy hai bàn tay che mắt.
Ông Sơn rót cho tôi một chén nước trà mới pha, khi tìm cách uống thì tôi nhận ra cổ của mình còn bị thít chặt hơn nữa. Tôi có cảm giác bị ngạt thở và hoảng hốt tới mức đánh rơi chén nước xuống đất. Khi ông Sơn cúi xuống để nhặt các mảnh vỡ thì tôi ngập ngừng nói:
"Ông ạ, cách đây ba ngày cháu bị một con chó cắn ở chợ. Có lẽ cháu bị ốm là vì vậy. Cháu xin lỗi."
"Bị chó cắn? Thật sao? Ở đâu?", ông hỏi, đột ngột trở nên chăm chú.
Tôi thấy trán ông toát mồ hôi khi chỉ cho ông xem vết thương.
"Sao lại có thể được... Cháu ở lại đây! Ngồi xuống và chờ ông ở đây!", ông hạ lệnh cho tôi rồi chạy ngay sang ngôi nhà chính, nhanh hết mức tuổi tác của ông cho phép. Sau ít phút ông quay lại cùng ông chủ và ba người con trai của ông chủ. Họ dừng lại ở cửa bếp và tôi nghe ông Sơn hạ lệnh.
"Con bé chẳng còn nhiều thời gian nữa. Cháu cầm mười đồng chạy ngay đến ông bác sĩ người Tây. Bảo ông đưa số thuốc tiêm cần thiết. Như vậy vẫn chưa đủ đâu, nhưng tạm thời cứ mang chừng ấy về đã. Rồi chạy đến chỗ ông thầy Đông y và lấy cho bác một thang cỏ điên. Cháu đưa ông ấy một trăm đồng, vì từ ngày mai ông ấy còn phải đến đây chín lần. Và bây giờ thì giúp bác trói con bé vào giường. Cẩn thận đừng để con bé cào cấu hay cắn, bệnh dại là bệnh truyền nhiễm đấy!"
Cánh cửa mở rồi lại khép. Chỉ có ông Sơn đến cạnh tôi và nhìn tôi một cách bình thản. Ba người còn lại đứng sau lưng ông, trên tay cầm các sợi dây thừng dài. Mặc dù vô cùng khiếp sợ, tôi đặt hết niềm tin vào ông.
Trong lúc dìu tôi đến giường gỗ ông nói với tôi, với một giọng bình thản cố ý:
"Này cháu, bây giờ bác sẽ cho cháu uống thuốc, rồi cháu sẽ khỏe trở lại, nhưng trước tiên bác và các anh phải buộc cháu vào giường đã." Ông nói chưa dứt câu thì hai bàn chân của tôi đã bị trói chặt. Tôi tìm cách nhỏm dậy nhưng bốn bàn tay vạm vỡ ngay lập tức đã đè tôi dúi xuống, nhanh đến mức đầu của tôi bị đập bộp vào mặt giường gỗ. Bây giờ hai bàn tay tôi cũng bị trói nghiến lại.
Ông Sơn nói tiếp với tôi: "Cháu ạ, có những hình thù khiếp đảm sẽ hiện lên trước mắt cháu, nhưng cháu hãy cố nhớ là chúng không có thật. Bất cứ điều gì xảy ra đi nữa, chúng chẳng hề có thật! Chỉ khi bệnh dại đã rời khỏi cơ thể cháu thì những ảo ảnh này mới biến đi. Cháu hiểu chưa?".
Vết thương của tôi bây giờ có cảm giác nhồn nhột rất kỳ cục.
"Cháu hiểu chưa?", ông Sơn nhắc lại. Tôi khẽ gật đầu, do sợ hãi hơn là hiểu.
Các lô thuốc tiêm của vị bác sỹ người Tây đã được đem về. Ông Sơn tiêm cho tôi ba mũi lên thành bụng. Tiếp theo đó người con trai của ông chủ, người ướt đẫm mồ hôi do chạy, mang về thang thảo dược đã được ông thầy Đông y bào chế đựng trong một bình thủy tinh lớn. Ông Sơn đến chỗ tôi, một tay cầm chiếc bình không đậy nắp, bên trong là một thứ chất lỏng sền sệt, đục ngầu, bốc mùi hôi thối, một tay cầm một chiếc phễu.
Người ta đè mạnh lên má tôi, mở vòm miệng đủ rộng để ông Sơn có thể dùng phễu rót thứ chất lỏng đã pha chế vào họng tôi. Sự kháng cự của tôi hoàn toàn vô hiệu. Tôi cảm thấy luồng chất lỏng chạy xuống dạ dày của mình. Tôi nhắm mắt lại cam chịu. Tất cả yên tĩnh lại. Bây giờ cuộc chiến đấu của tôi để mạnh khỏe trở lại đã bắt đầu.
Tôi không biết có bao nhiêu thời gian đã trôi qua cho tới khi tôi bắt đầu nghe thấy một tiếng gõ nhẹ trong đầu mình. Tiếng gõ sau đó chuyển thành tiếng rít. Tôi mở mắt ra. Dưới chân tôi có vật gì đó động đậy. Tôi rùng mình khiếp sợ khi nhận ra nó. Một con rắn khổng lồ đang quấn lấy tôi và tìm cách bóp nát thân thể của tôi, trước khi nó há to mõm để nuốt chửng lấy tôi. Sau đó tôi nghe thấy tiếng la thét thất thanh của những con khỉ giận dữ chõ thẳng vào tai tôi. Những chiếc mõm hổ to tướng mở hoác trước mặt tôi. Tôi muốn chạy trốn, nhưng thấy mình đã bị trói chặt và thấy vô cùng tức giận. Tại sao người ta lại trói tôi? Tôi nghe rõ cả những tiếng đập thình thịch của trái tim hoảng loạn trong lồng ngực. Tôi chỉ có một mình! Không có ai ở đây để giúp đỡ tôi. Bất kể tôi mở hay nhắm mắt, những hình thù ngày càng trở nên quái đản hơn đẩy tôi vào trạng thái cuồng điên, khiến tôi liên tục rú lên vì tức tối và kinh hãi.
Phải mấy tiếng đồng hồ sau những hình ảnh này mới thoát khỏi đầu óc và thân thể đã kiệt sức vì giãy dụa của tôi. Khi mở mắt, tôi nhìn thấy trước tiên là gương mặt lo âu của bà chủ, sau đó là ông Sơn, ông dùng khăn lau trán cho tôi và lần đầu tiên mỉm cười âu yếm với tôi. "Vậy là cháu đã qua được cơn nguy khốn rồi. Bây giờ cháu đã lại là cháu", tôi còn nghe được lời ông nói, trước khi chìm sâu vào giấc ngủ do kiệt sức.
Chín ngày liền tôi tiếp tục uống thứ thuốc nước bốc mùi thối mà một người đàn ông già hàng ngày mang đến cho tôi. Mỗi lúc như vậy, để đề phòng, người ta lại trói tôi, tuy nhiên không còn lần nào tôi bị lên cơn mê sảng nữa.
Về sau tôi được biết vào thời gian này ở Bắc Ninh có bảy người chết vì bị chó dại cắn. Hai người ngoại quốc là lính lê dương có vợ là người An Nam được cứu sống. Họ hẳn đã phải đi qua một thứ địa ngục tương tự như tôi, một cô gái mới mười lăm tuổi đời, để tránh cái chết gần trong gang tấc.
Một phen thay đổi sơn hà
Mùa mưa năm nay với những trận mưa xối xả, kèm theo những cơn bão dữ dội, đã hủy hoại mùa màng và khiến cho bao người trở nên trắng tay. Ở nhà ông bà chủ của tôi số lương thực dự trữ cạn dần. Khi nạn đói lan tràn khắp miền Bắc, có những người tị nạn kiệt sức vào thành phố kiếm ăn kể rằng họ đã phải tuyệt vọng chứng kiến cảnh các toán quân Nhật Bản trước khi rút lui đã ném xuống sông số gạo mà chúng chưa tiêu thụ hết. Vào thời gian này tôi nhìn thấy xác trẻ em vun thành đống ở trước mấy ngôi nhà.
Một quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima, một sự kiện đã dẫn tới việc đầu hàng của Nhật Bản và qua đó là sự thoái vị của Hoàng đế của chúng tôi. Một thời gian ngắn sau đó những người lính Trung quốc mặc quân phục màu xanh da trời, phần lớn đi chân đất, hành quân đến từ phương Bắc để giải giáp quân Nhật. Những vụ hiếp dâm và cướp bóc, nếu vẫn chút gì đó sót lại để cướp, diễn ra như cơm bữa theo các lời đồn đại. Những câu chuyện kể sởn gai ốc này là lý do để bà chủ của tôi, theo lệnh của chồng bà, cùng với các người con và ông Sơn, rời khỏi nhà đi về hướng Nam để chờ tới lúc yên hàn. Họ thuê một chiếc xe buýt cho chuyến hành trình. Trong túi họ chứa đầy đồ trang sức, vàng và tiền, nhiều tới mức như tôi chưa bao giờ thấy vậy trong đời. Những đồ vật quý giá khác không mang theo được thì những người con trai đem giấu kỹ dưới lòng giếng.
Trong ngôi nhà lớn, chỉ một mình tôi ở lại với ông chủ độ tuổi đã cao nên không kham nổi chuyến đi xa. Ông thậm chí còn không nghĩ tới việc rời căn nhà, bởi nếu sau đó có ai khác bước vào ngôi nhà bị bỏ hoang thì sẽ được coi như là người chủ mới. Và tôi muốn giữ lời hứa của mình là sẽ tiếp tục phục vụ ông một cách trung thành, như ông Sơn đã làm từ trước tới nay, và coi đây cũng là một dịp đền ơn cho những thứ thuốc men mà ông đã bỏ tiền mua để chữa bệnh dại cho tôi.
Trong phạm vi khả năng của mình tôi đảm đương các công việc nội trợ giờ đây đã trở nên đơn giản hơn nhiều. Hầu như ngày nào vào buổi trưa chúng tôi cũng chỉ cùng nhau ăn một món cháo lẫn với thịt lợn sấy khô, được gọi là "ruốc". Buổi tối đến ông đi ngủ sớm. Ông thường nói với tôi rằng thời buổi tệ hại này chẳng mấy chốc sẽ trôi qua; không nghĩ ngợi gì nhiều tôi tin vào lời của ông.
Vào tháng chín, chẳng có dấu hiệu nào báo trước, tôi bắt đầu có hành kinh. Bởi vì không có quần lót nên tôi đã cho dòng máu sẫm đen chảy xuống đất và rửa người nhiều nhất có thể. Sau ba ngày thì tôi hết hành kinh. Sau đó tôi chẳng hề cảm thấy mình nữ tính hơn được chút nào, và tôi vẫn tiếp tục căm ghét đôi vú trông như hai quả chanh non còi cọc của mình.
Việt Nam giữa chừng được tuyên bố độc lập lần thứ hai, lần này bởi một người đàn ông có tên Hồ Chí Minh. Với tư cách là tân nguyên thủ quốc gia mà xe ô tô được hộ tống bằng xe đạp, ngay từ mùa xuân 1945 ông đã kêu gọi người dân đi phá kho thóc Nhật để khắc phục nan đói và chống lại kẻ xâm lược. Nhiều người, cả đàn ông và đàn bà, không còn gì để mất ngoài tính mạng của mình và của con cái họ, quyết định chọn ông và hoàn toàn tin tưởng đi theo ông. Họ đặt toàn bộ hy vọng của mình vào phong trào Việt Minh có biểu tượng là lá cờ đỏ sao vàng giờ đây đang hiện diện gần như khắp nơi trên miền Bắc. Những lá cờ nhầm hiệu triệu ý chí của người dân thay đổi và cải thiện hoàn cảnh của mình.
Bình yên trong hỗn loạn
Đối với tôi cũng như với toàn thể người dân bản xứ, việc sống dưới rất nhiều thế lực chiếm đóng và chính phủ khác nhau đã gần như trở thành một thói quen. Họ thẳng tay thực hiện quyền lực, và tùy theo ý thích, khi thì để cho dân chúng yên ổn, khi thì o ép hết mọi bề. Cuộc sống hàng ngày của tôi giới hạn trong việc sống ẩn mình cùng ông chủ và né tránh các xung đột có thể bùng nổ hay các tranh chấp dẫn đến xung đột. Tôi biết là chúng chỉ mang lại đau khổ. Tuy nhiên khi nổ lực để thích nghi với hoàn cảnh, tôi vẫn luôn có những cảm xúc lẫn lộn, bởi tình hình căng thẳng chung đang đè nặng lên tâm trí tôi và cả thành phố; không lúc nào tôi có thể biết chắc ai là người muốn điều lành và ai có ý định làm điều dữ. Như tất cả mọi người tôi sống trong niềm hy vọng chẳng bao lâu nữa những ngày bình yên hơn sẽ đến và những bóng đen bất an hiện tại sẽ được xua tan.
Ông chủ của tôi tránh không ra ngoài, còn tôi thì run rẩy đi ra phố để mua thực phẩm cho hai người vào những ngày rét mướt trong tiết lạnh đầu năm, vừa hy vọng, vừa lo âu đón chờ những tin tức mới nhất.
Giờ đây nhiều lần xuất hiện những người Âu gầy gò, nhợt nhạt đội mũ kê pi và những người lính Phi châu cao lớn lừng lững với những cặt mắt trước nay vẫn khiến tôi khiếp sợ ngồi trên các đoàn xe vận tải đi vượt qua người đi bộ. Đồng thời bộ đội Việt Nam với mũ cối màu xanh và quân phục màu nâu đỏ, đeo súng hay cầm gậy tre diễu hành qua thành phố, trên tay là quốc kỳ màu đỏ sao vàng.
Thực tình tôi cảm thấy thản nhiên trước mọi việc, điều cốt yếu là làm sao có đủ cái ăn và không bị ai quấy nhiễu. Tình hình trở lại yên ổn trong mấy tháng trời. Ban ngày trên đường phố người ta lại nghe tiếng rao của những người bán hàng cần mẫn, đêm đến những hành khúc cách mạng mới mẻ vang vọng xa xa. Những hàng cây phượng vĩ to lớn nở hoa đỏ rực. Nếu giờ đây người thầy bói già dạo xưa đang đứng trước mặt tôi, hẳn tôi sẽ hỏi ông liệu sắc đỏ này là tượng trưng cho hạnh phúc hay là màu của máu.
Một cốc cà phê
và một kiếp người
Trên những đường phố gần như vắng tanh ở Bắc Ninh giờ đây bỗng nổ ra các trận giao tranh. Những tiếng nổ và tiếng súng bắn ở gần, tiếp theo đó là tiếng đại bác đáp trả khiến cho tôi khiếp sợ. Mỗi lần đạn bắn trúng vào mái tôn ở ngôi nhà ngang, chiếc quạt mà tôi cầm trên tay để quạt cho ông chủ trong phòng khách lại run bắn lên.
Mặc dù bề ngoài không hề có biểu hiện gì hoang mang, thay vào việc ngồi yên như mọi khi, ông lại đi lấy một chiếc đệm bông từ trên gác xuống, chắn dọc trước cửa sổ. Ngồi trên một chiếc gối thêu trước tấm đệm, ông lần đọc trong một cuốn sách.
"Cháu đi pha cho ông một cốc cà phê", bỗng dưng ông nói với tôi.
"Nhưng mà thưa ông... họ đang bắn ở ngoài kia! Cháu không thể đi được, cháu đang sợ!", tôi trả lời.
"Hãy làm như ông vừa bảo", ông nói với giọng nghiêm khắc và cáu kỉnh, mãi đọc trong cuốn sách hơn là bạn tâm đến tình trạng tâm lý của tôi.
Chưa bao giờ tôi lo lắng như lúc này. Đạn súng máy vãi như mưa xuống mái nhà của chúng tôi. Với ý nghĩ rằng mình sẽ chết ngay tại chỗ, tôi chạy xuống nhà bếp, giữa những làn đạn chết chóc bay chiu chíu ở xung quanh. Tay run bần bật, tôi nhóm lửa nấu nước và tìm cách tập trung vào công việc để quên đi nỗi sợ mà không được. Toàn thân run rẩy, tôi mang cốc cà phê đầy vừa pha xong chầm chậm đi qua sân, thay vì chạy nhanh như trước đó, nước mắt dâng trào. "Thưa ông, cà phê của ông đây ạ", tôi thở phào nói khi đặt chân vào phòng khách. Không ai trả lời tôi. Liệu ông chủ đã đi ra ngoài rồi ư? Đột nhiên tôi đánh rơi chiếc cốc. Phía giữa chiếc đệm đã nhuộm màu đỏ. Tôi thấy ông chủ giữa một vũng máu, người gập về phía trước, vẫn còn ngồi trên chiếc gối. Ông đã bị một viên đạn bắn vào lưng.
Không kịp đắn đó gì về hành động của mình nữa, tôi chạy ra cửa và mở tung nó ra. Như bị mất hồn, tôi la hét trên đường phố cầu cứu. Tôi không biết là trận đánh đã trôi qua và xung quanh trở lại im ắng như thể chẳng có gì xảy ra.
Những người lính Pháp đi đến chỗ tôi. Họ mang ông chủ vẫn đang còn thoi thóp thở của tôi đi. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông.
Bị số phận bỏ mặc
"Phải chăng mỗi người đều chỉ là một 'kẻ sống sót'?" (Loan)
Ba đêm trôi qua. Tôi ngủ li bì, không tỉnh giấc lấy một lần, cho đến khi hồi lại sức. Chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà, tôi luôn ở trong trạng thái sợ hãi. Tôi không còn dám đi ra ngoài, kể cả xuống bếp.
Tôi thường khóc. Tôi rất nhớ mẹ. Nhớ bàn tay bình thản của bà hẳn lúc này sẽ dịu dàng lau nước mắt cho tôi và nụ cười hàm ý rằng: "Con đừng sợ, rồi mọi chuyện sẽ trở nên tốt lành".
Vào sáng sớm tinh mơ ngày thứ tư có tiếng chân đạp mạnh vào cửa ra vào và tiếng động rầm rầm. Lính lê dương Pháp đổ xô vào khám xét nhà, trước khi họ dẫn tôi ra ngoài, các họng súng chĩa thẳng vào tôi. Họ đã nhận được lệnh tản cư thành phố.
Không xa ngôi nhà có một chiếc xe tải lớn đỗ sẵn, trên đó có mặt nhiều người đàn bà, trẻ em và người già. Tôi trèo lên xe.
Hình ảnh cảnh cửa nhà mở toang là hồi ức cuối cùng của tôi, áo quần trên người là tài sản duy nhất mà tôi mang theo.
Chẳng hề có ai giải thích một điều gì với chúng tôi. Và không một ai trong chúng tôi dám hé miệng đặt câu hỏi. Suốt cả ngày chúng tôi đi trên những con đường gập ghềnh theo hướng Đông Nam. Trong những lần giải lao ít ỏi chúng tôi không được phép xuống xe. Trong khi xe chạy, các bà mẹ có con nhỏ giơ trẻ có nhu cầu lên thành xe để chúng đái ỉa qua đó. Trẻ sơ sinh thì khóc thét inh ỏi cho đến lúc kiệt sức thiếp đi.
Buổi tối xe dừng lại nhưng người ta hạ lệnh cho chúng tôi phải ngồi yên.
Chúng tôi tiểu tiện vào lòng bàn tay để không bị chết khát. Đầu tiên là trẻ em uống, sau đó là người già, và cuối cùng, như luôn luôn vẫn thế, là chúng tôi - đàn bà và con gái.
Vào sáng hôm sau chúng tôi lại đi tiếp, vẫn chẳng hề được cho ăn cho uống, nhưng lại bị họng súng chĩa vào đầu. Tôi chỉ muốn hất tung những tiếng thét căm tức và phẫn nộ lên trời cao, nhưng không sao nói nên lời, bởi tôi nhận thấy có nhiều người còn tuyệt vọng hơn cả tôi cũng phải nuốt nước mắt và im lặng.
Chúng tôi bỏ những cánh đồng lúa lại phía sau và đi vào thành phố lớn Hải Phòng. Người ta ra lệnh cho chúng tôi xuống xe. Không hề có một lời giải thích nào, những người lính cùng các chiếc xe cam nhông biến đi, nhanh chóng hệt như lúc họ đến, bỏ mặc chúng tôi đứng đó.
Tại sao họ lại mang chúng tôi đến đây? Rồi số phận của chúng tôi sẽ ra sao?
Những người bị bỏ rơi cùng tôi chầm chậm tách nhau ra mà không nói nhiều lời. Tôi cũng bỏ đi mà không biết phải về đâu. Năm ấy tôi gần mười bảy tuổi.
Một cuộc gặp gỡ lặng lẽ
Tôi cân nhắc. Đầu tiên là tôi phải tìm ngay một việc làm, bởi chỉ có tiền thì tôi mới có thể sống nổi.
Hải Phòng là một thành phố rất sôi động và có nhiều gương mặt khác nhau. Khắp nơi đều thấy sự hiện diện của nhà binh. Các bà xơ Công giáo đi thành nhóm qua các dãy phố bị phá hủy, những đống đổ nát gợi nhớ cách đây mấy tháng đã diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt ở đây. Mấy chiếc thuyền mành với cả các gia đình trên đó đi vào đến tận trung tâm thành phố trên các nẻo đường thủy.
Giao thông ở đây tấp nập hơn nhiều so với các khu vực nội địa. Dọc đường men theo các cầu cảng khổng lồ, nơi có các con tàu lớn chạy động cơ hơi nước đang chuẩn bị nhổ neo, tôi gặp những người đủ các màu da và chiều cao. Ở hầu như mọi góc phố đều có các tu sĩ Phật giáo đi khất thực.
Suốt cả một ngày trời tôi đi hỏi xin việc làm tại một khu phố ngay gần cảng. Tôi chỉ nhận được các lời từ chối cho đến khi tới một tiệm bán đồ uống và gà rán cả ngày lẫn đêm. Bà chủ là một người đàn bà có thân hình tròn trĩnh xuất thân từ Lào, góa chồng và sống cùng với người em gái và cô con gái ở góc sau của cửa hàng. Em gái bà làm công nhân trong một xưởng dẹt lụa, cô con gái thì có một quầy ăn ngoài đường để kiếm sống. Bà đồng ý nhận tôi vào làm việc. Buổi tối tôi phụ trách việc bán gà rán và được trả công bằng các bữa ăn và chỗ ngủ.
Sau khi tôi đã rửa qua người, bà chủ trao cho tôi một bát mì nấu với thịt gà, tôi đang gần như chết đói nên ăn ngấu nghiến một lát hết ngay. Ngay trong đêm đó tôi sẽ bắt đầu làm việc ngay. Trong khi ăn tôi để ý thấy trên tường tấm ảnh của một người đàn ông với gương mặt gầy gò. Tôi hỏi bà chủ với giọng cảm thông: "Thưa bà, liệu đây có phải là ông nhà đã quá cố?". Bà chủ lắc đầu cười: "Không, đây là ông Hồ Chí Minh, Quốc trưởng mới của chúng ta".
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy người đàn ông mà đa số dân chúng đặt hy vọng của mình vào đó, với ước mơ chẳng mấy chốc sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đất nước không còn thế lực ngoại bang chiếm đóng.
Nhầm đường
Lúc đầu tôi rất khó khăn trong việc thích ứng với nhịp điệu công việc mới, bởi mặc dù làm việc vào buổi đêm song ban ngày tôi lại hầu như không thể chợp mắt. Những lời nói của ông thầy bói không để cho tôi yên. Rồi tôi sẽ sống ở nước ngoài, ông từng nói như vậy. Và bởi vì tiên đoán của ông về việc tôi sẽ nhiều lần thoát khỏi cái chết trong gang tấc cho tới nay đều nghiệm đúng, dần dần tôi cảm nhận rằng đó chính là số phận của mình. Điều này có nghĩa là tôi sẽ phải đi tiếp để có được sự yên ổn mà tôi đang tìm kiếm.
Chỉ sau vài tuần, tôi ngả theo tiếng gọi thoi thúc từ bên trong này. Nhưng mà đi về đâu? Tôi loại trừ hai mục tiêu Nam Định và Hà Nội có thể dễ dàng đi đến bằng tàu hỏa, bởi các dấu vết mà cô tôi để lại ở đây còn quá mới. Còn đi tiếp về hướng Nam thì không thể vì ở đó có anh cả của tôi. Và như vậy thêm một lần nữa tôi quyết định đi tìm vận may ở phía Bắc.
Ở chặng đầu tiên tôi men theo con đường dọc theo vịnh Hạ Long, lúc thì đi bộ, lúc thì ngồi trên xe kéo, lúc thì lại bám đuôi một chiếc xe buýt. Vịnh Hạ Long đẹp như trong mơ, tôi ngắm nhìn không thoả mắt. Trên những bãi cát dài ngư dân đem phơi các hải sản đánh bắt được. Những người khác thì lênh đênh đánh cá ngoài khơi trên những chiếc bè mỏng mảnh được trét kín nước bằng bắc ín. Những chiếc thuyền mành lớn với buồm nâu lui tới chậm rãi giữa các ngọn đá vôi trắng mọc lên từ mặt nước đẹp như tranh vẽ.
Trong mấy tháng, cùng với những nữ công nhân khác, tôi làm việc quần quật tại một mỏ than ở Hồng Gai để đổi lấy đồng lương chết đói. Than là một trong những nguyên liệu xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam, bên cạnh những tài nguyên khoáng sản khác cũng như gỗ quý và hải sản. Sau một thời gian quan sát, tôi thấy có nhiều người đi thuyền nhỏ sang các đảo lân cận để cũng khai thác than ở đó, nhưng được lương cao hơn, một hôm tôi quyết định đi tới đó.
Giờ tôi đã liều lĩnh và mưu mẹo hơn, tôi giả vờ làm người khuân vác để lọt xuống một con thuyền. Khi bị kiểm tra trong chuyến đi, tôi khóc lóc cầu xin lòng thương hại vì lý do là trẻ mồ côi không có tiền nhưng nhất thiết phải đi tới đảo. Sau khi lau nước mắt, nụ cười thật tươi của tôi đã có tác dụng và người kiểm tra đã tha cho tôi.
Không may là tôi bị say sóng khá nhanh và nhận ra rằng mình không thể hàng ngày qua lại trên thuyền. Tôi chỉ ở lại có một đêm và sau đó lại làm một "người đi tàu lậu chính thức" để trở về đất liền. Sáng hôm sau trên thuyền tôi lại gặp người kiểm tra hôm trước, lần này ông ta mỉm cười để cho tôi đi cùng mà không hỏi điều gì.
Tôi tiếp tục đi. Chuyến hành trình dẫn tôi lên đến tận Cao Bằng, một vùng núi cao rừng rậm ở phía cực Bắc. Nhiều người mà tôi gặp dọc đường đi cho tôi đồ ăn. Một ngày tôi trò chuyện với một gia đình sống trên vùng cao nguyên và kể cho họ nghe về kế hoạch xuất ngoại của tôi. Tất cả họ đều cười phá lên chế nhạo tôi.
"Cô bé ơi, cô tới chốn này là bị nhầm to rồi! Ở trên này chỉ có toàn người Trung Quốc thôi! Cô có hiểu như vậy là như thế nào không? Ngay cả đi thuyền buồm qua vịnh cũng cực kỳ nguy hiểm, trên biển đầy rẫy bọn hải tặc! Chúng sẽ giết cô như ngóe ngay! Nếu như mà muốn xuất ngoại thì cô phải đi về hướng Nam!" Giờ thì tôi đã hiểu. Họ có lý. Có lẽ cho tới lúc này tôi chưa tìm được chỗ đứng của mình trên cõi đời này chỉ là vì mình đã đi nhầm hướng.
Lập tức tôi quay trở lại và đi về hướng Hải Phòng bằng cách trốn chui lủi giữa những chiếc lồng gà phủ vải bạt trên một chiếc xe tải. Việc tìm cách rời khỏi đất nước mà không có một kế hoạch nào khiến tôi mất trắng nhiều tháng trời, nhưng tôi vẫn bất chấp. Ít nhất là bây giờ thì tôi đã biết mình muốn đi về đâu.
Lời cầu nguyện rút gọn
Vào tháng giêng 1947 tôi trở lại Hải Phòng. Trên từng bước đi tôi phát hiện những đống đổ nát của một thành phố bị phá hủy, trên trời là các máy bay gầm rú, mà không tin nổi vào mắt mình. Đi ngược về hướng tôi là những gia đình mang vác theo mình mọi thứ của cải còn sót lại, lại có những gia đình hoàn toàn tay trắng. Trong khi các toán quân Pháp, lính nhảy dù và lính viễn chinh, rõ ràng là đang trong tình trạng báo động, diễu qua chúng tôi cùng các xe thiết giáp nối theo sau, mở ra trước đôi mắt rụng rời của tôi là cả một cảnh tượng tàn phá.
Thành phố tuyệt đẹp mà tôi từng bỏ lại sau lưng nay đâu rồi? Khu hải cảng hầu như chẳng còn lại gì. Tất cả chỉ là những đám tro tàn gạch vụn. Người dân đi đào bới trong các đống đổ nát, hoang mang tìm kiếm một thứ vật dụng nào đó. Tại trung tâm thành phố, trước những ngôi nhà chưa bị sụp hẳn, bên cạnh các cây đổ, người ta bày bán đồ gỗ. Một cửa hàng dường như bị cướp sạch đồ. Tôi bước vấp vào một con chó đã chết. Mùi cháy khét lẹt bám theo tôi. Liệu trong các đống đổ nát còn có xác người? Thời gian dường như ngưng đọng lại để tôi thu vào trí nhớ của mình những hình ảnh này cho mãi mãi về sau. Tôi không hề hay biết chiến tranh giữa Pháp và Việt Nam đã diễn ra đến mức ác liệt như vậy từ mấy tuần qua. Tôi không hiểu từ "chiến tranh" thực sự có nghĩa gì.
Một bà cụ có người nhà đã tản cư hết về vùng nông thôn cho tôi ở trọ cho đến lúc tìm được việc làm. Bà buồn bã kể cho tôi về các cuộc thảm sát tiếp nối nhau. Giọng nói đều đều của bà kể những điều khiến cơn giận dữ và phẫn nộ trào lên trong tôi. Từng chi tiết, từng lời của bà khiến lòng tôi tan nát. Mỗi một hình ảnh của sự tàn phá thế chỗ cho hình dung cứng nhắc trong đầu tôi cho tới nay về một giải pháp hòa bình cho các xung đột. Chầm chậm, như một liều thuốc độc, những lời kể của người đàn bà này thẩm thấu vào các giác quan của tôi và làm tan biến mọi ảo tưởng trong tôi. Tôi đã đi đến thực tại: chúng tôi đang ở trong một cuộc chiến, bản thân tôi đang ở ngay chính giữa nó, hoàn toàn bất lực.
Nhận thức này khiến tôi quy cuộc đời mình vào một công thức đơn giản: sống hay là chết. Trong chốc lát tôi hiểu rằng trong những lời cầu nguyện trước đây đối với tổ tiên, mình đã đòi hỏi thật vô lối khi xin được "sống trong hòa hình"; từ lúc này, tôi chỉ còn cầu xin "được sống sót".
Một gương mặt quen thuộc
Vào buổi tối bà cụ chia sẻ cùng tôi thức ăn của mình, cơm với canh cua và cá muối mặn. Sáng sớm hôm sau, sau một giấc ngủ sâu để lấy lại sức, tôi lên đường đi kiếm việc ngay. Lần này thì chẳng dễ dàng. Tám tiếng đồng hồ sau đó tôi vẫn chưa tìm được gì. Mà tôi cũng không phải là người duy nhất đi tìm việc làm. Những bà già gánh hàng rong đi qua các nhà, các gia đình có trẻ em, những người dân với vẻ mặt thất thần ngồi trước ngôi nhà đã bị phá hủy của họ, tất cả như những diễn viên trên sân khấu. Chỉ có điều là lần này phong cảnh đã được thay đổi.
Tôi đã chực bỏ cuộc và quay trở về thì bắt gặp một gương mặt quen thuộc trên đường phố. Thời gian lúc ở Hà Nội tôi và chị Hoa đã từng mua vải của người đàn bà có vóc dáng thanh mảnh này để làm trang phục sân khấu. Dạo đó chị thường tỏ ra ưu ái khi bán hàng cho tôi. Chồng của chị làm nghề chụp ảnh, ở Hà Nội anh là người đã chụp cho tôi bức ảnh đầu tiên trong đời. Chị lập tức nhận ra tôi, chúng tôi vui mừng ôm chầm lấy nhau và cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi được gặp lại người quen ở một thành phố lạ.
Khi người chồng ra trận, chị tìm được chỗ ở tại nhà một người họ hàng gần; chị ngỏ lời mời tôi về sống cùng. Tôi đi theo chị về nhà, lòng thầm cám ơn số phận. Nơi chị ở chỉ cách đây mấy con phố, nhưng nằm ở hẳn ngoài khu vực bị ném bom.
Ngôi nhà nhỏ xây mái bằng toát lên vẻ cởi mở, tôi nhanh chóng được đón nhận một cách thân thiện. Tại đây người nhà của chị người quen của tôi bán nước ngọt và thuốc lá cho lính Pháp mặc thường phục thường qua lại vào các buổi tối. Thỉnh thoảng tôi được phép giúp đỡ họ bán hàng và qua đó có dịp bồi bổ thêm vốn từ vựng tiếng Pháp của mình. Ngoài ra tôi còn kiếm thêm vài đồng bằng cách đi gánh nước thuê cho các gia đình khá giả, đôi vai của tôi bây giờ đã trở nên cứng cáp hơn dưới sức nặng của chiếc đòn gánh.
Một bước sa chân
Vào một buổi sáng có người gọi tôi. Ở một phố không xa chỗ chúng tôi có người đặt nước. Với hai thùng nước đầy, tôi lên đường đến chỗ khách đặt, chẳng mấy chốc ngôi nhà tôi tìm đã hiện lên trước mặt, cao vượt lên những đống đổ nát xung quanh. Ngôi nhà trông như bị bỏ hoang. Tường bên ngoài lỗ chỗ những lỗ thủng lớn. Hai đứa trẻ chơi ở bên cạnh lối ra vào. Khi tôi hỏi có ai đặt nước ở đây, chúng chỉ lên phía trên, tầng bốn.
Tôi đi vào. Khắp nơi mảnh thủy tinh rơi vãi trên các tấm trần nhà lớn bị đổ xuống và trên các đồ gỗ bị vỡ. Các bức tường phía trong cũng có những lỗ thủng lớn, từ đó người ta có thể nhìn ra ngoài. Chỉ có cầu thang là còn nguyên vẹn. Tôi hạ hai thùng nước xuống và nặng nhọc leo lên từ từ. Ở tầng bốn có một người đàn bà mảnh dẻ mở bức rèm tre thay cánh cửa cho tôi vào nhà. Chồng ba cần nước để tắm. Bà cám ơn, trả tiền rồi quay đi.
Phía cuối hành lang tôi phát hiện thấy một chiếc ban công nằm sát mấy căn phòng bỏ trống.
"Từ trên cao này mà nhìn xuống thành phố thì thật tuyệt vời", tôi chợt nghĩ. Không ngăn được sự tò mò, tôi đặt hai chiếc thùng rỗng xuống nền nhà và từ từ đi tới phòng bên cạnh.
Cánh cửa ra ban công chỉ có thể mở hé một nửa. Khi bước ra sân thượng nhỏ, tôi không thể tin nổi về những gì đang mở ra trước mắt. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng như vậy. Bức tranh toàn cảnh của sự tàn phá át mất cảnh quan đậm sắc xanh của thành phố. Khói từ những đám cháy vẫn bốc ngút lên trời cao. Một nỗi buồn trĩu nặng đè lên tâm trí tôi. Tất cả mọi vẻ đẹp đều đã bị thẳng tay hủy diệt và chôn vùi dưới các đống đổ nát, vì sao lại có thể như vậy? Và tôi nữa, vì sao tôi lại có mặt ở đây? Phải chăng thực sự không còn một chốn bình yên nào cho tôi trên thế gian này, một nơi chốn mà ở đó tôi không còn phải nhìn thấy những cảnh tượng như trong giờ phút này?
Câu trả lời cho những câu hỏi này đến ngay sau đó. Chiếc ban công mà tôi đang đứng ở trên bỗng nhiên sụt xuống, và cùng với tôi, rơi xuống sâu từ độ cao tầng bốn.
Khi rơi xuống, tôi nghe thấy trái tim mình ngừng đập, tôi không còn nghi ngờ gì là mình sẽ chết.
Sân trước của địa ngục
Tôi rơi sầm xuống đống thùng gỗ chứa các bình ga đã cạn xếp chồng lên nhau trên sân. Tôi nghe rõ tiếng va đập và cả tiếng xương của mình gãy. Sau cú sốc là những cơn đau khủng khiếp. Tôi cảm giác mặt và chân tay mình ngay lập tức bị sưng vù lên và đập vào tai là tiếng hét hãi hùng của những người đang tiến lại chỗ tôi.
Thân thể gãy nát của tôi nằm đó bất lực. Tôi vừa bị cấm khẩu, vừa không thể cử động được người, thậm chí không mở nổi mắt. Nhưng tôi nghe có người nói về mình, như thể từ xa vọng lại.
"Ô, xem kìa. Con bé chết rồi. Rõ là tội nghiệp...", một người đàn bà nói.
"Đâu, nó hãy còn thở mà", một người đàn bà khác cãi. Im lặng một chốc, sau đó có một giọng đàn ông cả quyết: "Ta cứ chờ đến sáng sớm mai. Nếu đến lúc đó con bé vẫn còn thở, ta sẽ mang nó đi". Các giọng nói xa dần, người ta để tôi nằm lại đây ở tư thế như lúc tôi rơi xuống, suốt ngày trời và suốt cả buổi tối dài dằng dặc, tưởng không bao giờ kết thúc.
Tôi nằm hôn mê, như dưới một lỗ sâu, kiệt sức vì đau đớn. Về sau này một người nữ y tá kể cho tôi nghe rằng vào buổi sáng hôm sau, khi nhận thấy tôi vẫn chưa chết, người ta đã nhặt thân thể bất tỉnh của tôi chất lên một chiếc xe trâu, nhưng không có trâu, mà do hai người đàn ông kéo. Lúc này là thời chiến và chẳng tìm ra đâu được một con vật làm sức kéo. Hai người đàn ông này đã liều mình để cứu tôi, một cô bé xa lạ. Họ đã can đảm đi cùng tôi hai ngày và một đêm trên đường để đem tôi đến một bệnh viện công ở tỉnh. Sau đó họ lại ra về, đơn giản như lúc đến và không để lại tên tuổi. Một vài ngày sau, bị đánh thức bởi một thứ mùi nồng nặc, xộc thẳng vào mũi, tôi bừng tỉnh dậy. Đây là mùi cồn sát trùng, như về sau tôi được biết, và ngay lập tức những cơn đau choáng váng khiến tôi nhớ lại cú ngã.
Tôi tìm cách cử động, nhưng ngay sau đó rú lên vì đau đớn. Một giọng phụ nữ mềm mại trấn an tôi, rồi người đó dùng khăn ướt thấm môi tôi, trước khi tôi rơi vào giấc ngủ mê man.
Tôi bị vỡ ba chỗ ở hộp sọ. Xương sườn và một xương ống chân cũng bị gãy ở nhiều chỗ. Xương mắt cá chân bị lòi ra khỏi da đã được xếp lại, vết thương của tôi đã được khâu kín. Ngoài ra xương cụt của tôi cũng bị chấn thương nặng. Mái tóc dài óng ả của tôi đã bị cắt trụi vì vết thương cần được băng bó. Toàn bộ thân thể tôi bị bó bột, trừ một chân còn lành lặn.
Bởi vì thiếu giường nên chẳng mấy lâu sau tôi được đặt lên một băng ca đặt trên đất. Vào lúc này tôi phát hiện rằng mình đang có mặt tại nơi chốn đang diễn ra một tấn kịch rùng rợn mà tôi bất đắc dĩ phải tham gia.
La liệt xung quanh tôi là những bệnh nhân thập tử nhất sinh, các bệnh nhi gầy đét, những hình hài bị tàn phế bởi chiến tranh, tuy vẫn còn thở nhưng chẳng còn ra vẻ người, tiếng rên la của họ chẳng mấy chốc đã trở thành một giai điệu đen tối đeo đẳng tâm trí tôi. Thời tiết oi bức. Ruồi nhặng bám trên gương mặt bết mồ hôi của tôi. Một chiếc quạt duy nhất đều đặn đảo đi đảo lại, thổi luồng khí thối của các vết thương hoại tử vào mũi tôi.
Ở đây tất cả chúng tôi đều bất lực đợi chờ cái chết. Mới vừa mười bảy tuổi, tôi đã có mặt ở sân trước của địa ngục.
Những người bạn đồng hành
trong đau khổ
Mọi thứ đều thiếu thốn: dụng cụ vệ sinh và y tế, thuốc men, thiếu nhất là thuốc giảm đau. Các nữ y tá cũng nghèo gần như các bệnh nhân, tuy nhiên họ hết sức chăm sóc người ốm, nhiều lúc chẳng bằng gì khác ngoài lòng tận tụy. Hàng ngày họ kiên nhẫn làm vệ sinh chiếc băng ca của tôi, về phần mình tôi gần như cảm thấy xấu hổ vì vẫn còn ở trên cõi đời này.
Bệnh nhân được mang đến và chuyển đi liên tục, không phải để được chữa lành bệnh, mà để có một nơi chốn để không phải chết một mình. Đã có nhiều lúc tôi nghe tiếng thở hắt yếu ớt cuối cùng hay hơi thở dốc vội vã trước thời khắc lâm chung mong đợi. Và mỗi lần khi bất đắc dĩ trở thành nhân chứng của những khoảng khắc riêng tư như vậy, tôi cứ tự hỏi tại sao mình vẫn còn sống sót.
Trong lúc những con người ở ngoài kia đang chiến đấu để sinh tồn thì phần lớn chúng tôi ở đây chỉ có mỗi một nguyện vọng: được phép chết. Đó gần như là một lời cầu hôn của chúng tôi đối với Thần Chết. Nhưng ở trường hợp của tôi thì lời cầu hôn đó đã bị bác bỏ.
Và như vậy trong suốt hơn một năm trời tôi đã quằn quại trong cái nhà tù hôi hám, rùng rợn, đầy các loại chuột bọ này, giữa những thây ma sống, với sự tuyệt vọng là người bạn đường duy nhất.
Cô Bè
Với một chiếc lưỡi lam người ta đều đặn cắt các sợi tóc mọc qua kẽ băng của tôi. Vải băng gần như đã trở thành lớp da thứ hai của tôi. Cuối cùng thì thạch cao bó bột cũng đã được gỡ ra, thân thể của tôi lại được tự do.
Với chiều cao một mét bốn mươi lăm vào lúc đó tôi chỉ cân nặng có ba mươi ba cân. Cơ thể và giọng nói của tôi không còn thực sự tuân theo ý chí của tôi nữa. Tôi phải học nói và học đi lại từ đầu.
Khi lần đầu tiên ngồi dậy tôi có cảm giác mình không bao giờ có thể đi nổi nữa. Nhưng vào ngày mà tôi đi được bước đầu tiên, cảm giác chiến thắng nho nhỏ này đã mang lại cho tôi sức mạnh. Mỗi ngày chỉ trong ít phút và với sự trợ giúp của một nữ y tá, tôi học lại các động tác đã quên để tới một lúc nào đó sẽ trở lại một người khỏe mạnh.
Có những đêm tôi mơ về quá khứ. Tôi thấy mình đang chạy, trong túi đựng đầy tiền bán kẹo mạnh nha. Những lần khác tôi hát trên sân khấu của một nhà hát không quen biết. Nhưng thường là những giấc mơ như vậy biến thành các cơn ác mộng ngột ngạt, ở đó tôi đánh mất điểm tựa và rơi tự do, kèm theo là những ảo ảnh rùng rợn. Trong khi rơi xuống tôi tìm cách bám víu vào một chỗ nào đó nhưng không thành, cho tới khi hốt hoảng dậy từ giấc ngủ.
Nằm bên cạnh tôi là một bà cụ thường có con gái Hải Phòng đến thăm. Cô Bè, con gái của cụ, chăm sóc mẹ rất chu đáo, tuy nhiên bà hầu như chẳng còn nhận ra con mình. Vào một ngày kia, khi bà mẹ đang ngủ, cô bắt chuyện với tôi và sẵn lòng giúp tôi tập đi.
Trong khi tập, chúng tôi trò chuyện với nhau cho đến khi tôi mệt. Cô Bè là người Công giáo. Khi tôi nói với cô rằng tôi không hiểu được ý nghĩa việc sống sót của mình, cô trả lời tôi: "Chỉ có Chúa Trời mới có thể quyết định lúc nào số phận của ta kết thúc. Nếu như mà em vẫn còn sống sót thì điều này có nghĩa là em phải tiếp tục sống để kể lại về tất cả những gì đã trải qua".
Ba tháng sau mẹ của cô Bè mất, mặc dù vậy cô vẫn tiếp tục đến thăm và chăm sóc tôi. Cô đã dang tay cứu độ và ban cho tôi niềm hy vọng.
Một thiên thần lặng lẽ
Vào tháng Ba năm 1948 cô Bè quyết định đón tôi về nhà, để tôi có điều kiện hồi phục sức khoẻ tốt hơn.
"Em cứ về chỗ chị. Em vẫn còn yếu lắm. Ở chỗ chị em có thể nghỉ ngơi và ăn cho đến kỳ no thì thôi." Cô giúp tôi mặc quần áo mang theo người. Tôi ra viện với đầu cạo sạch tóc. Chúng tôi đi xe xích lô chầm chậm đến căn hộ đơn sơ của cô tại một khu phố mà tôi chưa biết ở Hải Phòng. Lúc bấy giờ dân thường ở thành phố ít nhiều đã ổn định trở lại, tuy nhiên tin đồn về các vụ tranh chấp và chiến sự vẫn tiếp tục lan đến chỗ chúng tôi. Ở các địa điểm chính thức bên cạnh cờ Pháp giờ còn có thêm cờ Việt Nam tung bay, gần như trong một thứ tình huynh đệ, còn Hoàng đế của chúng tôi thì sống lưu vong.
Ba tháng trôi qua. Cô Bè sống một mình với tôi. Tôi chẳng thiếu một thứ gì, hàng ngày trước khi đi làm cô chuẩn bị đầy đủ hết mọi thứ cho tôi. Tuy nhiên có một lần tôi nhận thấy cô gói ghém quần áo thêu rất đẹp và đồ trang sức rồi mang theo, trong khi tưởng tôi vẫn còn đang ngủ. Tôi lờ mờ đoán biết lý do vì sao cô lại làm như vậy. Một sáng sớm, khi thấy cô lại lấy đồ trang sức từ tráp ra, tôi cố gắng hết sức mình để đi theo cô. Ở một ngõ nhỏ, cô đi vào một cửa tiệm và chỉ đó một lát, khi quay trở ra không còn chiếc túi ở trên tay. Tôi nhanh chóng quyết định bước vào. Một người đàn ông đứng tuổi chào tôi một cách hòa nhã.
"Chào ông. Cháu vừa thấy cô Bè vào chỗ ông. Cô ấy có mua gì không ạ?", tôi hỏi.
"Không. Từ mấy tháng nay, cô Bè có mang đồ ra đây nhờ bán hộ."
"Cô ấy mang những thứ gì đến chỗ ông ạ? Cháu có thể xem được không?"
"Tất nhiên", ông nói, với giọng còn vui hơn và nở một nụ cười tươi, chỉ cho tôi những chiếc áo dài, khăn trải bàn thêu rất đẹp, đồ ăn bằng bạc và đồ trang sức cũ.
Hóa ra là như vậy. Tôi là một thứ gánh nặng, và cô đã sẵn sàng gánh lấy nó mà không hề kêu ca. Cô cần có số tiền này để nuôi tôi.
"Hiện giờ thì cháu không chuộc được", tôi nói một cách quả quyết. "Nhưng liệu ông có thể cất giùm cháu tất cả các thứ của cô ấy được không ạ, cho đến lúc cháu có đủ tiền để chuộc lại?" Người đàn ông đồng ý.
Khi đi ra ngoài, tôi còn nói với ông: "Và cháu còn xin ông một điều nữa: xin ông đừng nói gì với cô ấy về việc này".
Vào lúc này tôi hiểu rõ thêm một điều. Thông qua sự giúp đỡ của cô Bè tôi cảm thấy trong cuộc đời mình vẫn còn những điều tốt lành. Với nhận thức được củng cố trong lòng này, niềm tin của tôi đối với Thiên Đế càng trở nên mãnh liệt hơn, tôi tin tưởng chắc chắn rằng chính Người đã cử cô Bè đến giúp tôi.
Không phải chết mà là sống, đây là thử thách mà tôi vừa vượt qua. Thêm một lần nữa tôi được tái sinh.
Sức mạnh mới
Vài ngày sau tôi quyết định kết thúc giai đoạn nghỉ dưỡng. Một thời gian ngắn sau khi tôi nhờ cô Bè kiếm hộ việc, cô đã tìm được cho tôi việc làm tại một doanh trại Pháp. Ở đó tôi có thể quét dọn và làm phụ bếp, với một số tiền công gấp ba mức mà tôi có thể kiếm được cho loại công việc này.
Từ lúc này tôi làm việc nhiều tháng liền như một cái bóng thầm lặng trong căng tin và nhặt thức ăn thừa ở đây mang về để ăn tối chung với cô Bè. Bằng cách đó chúng tôi sống qua ngày. Dần dần tôi kiếm đủ tiền để đến một ngày chuộc lại được số đồ mà cô Bè ký gửi.
Khi nhìn lại số đồ của mình, cô Bè òa khóc. Điều quan trọng đối với mỗi chúng tôi là không ai phải đánh mất thể diện. Cô Bè chưa bao giờ phàn nàn về việc thiếu thốn hay đòi hỏi ở tôi một điều gì. Về phần mình tôi tự nguyện quyết định hoàn trả lại tài sản cho cô một cách tế nhị. Và như vậy cả hai chúng tôi đều giữ được danh dự.
Tuy nhiên tôi cảm thấy sắp đến lúc phải lên đường, không phải chỉ vì tôi đã mười chín tuổi và muốn sống cuộc đời riêng của mình, mà cũng là vì không muốn choán một chỗ quá lớn trong cuộc đời của cô. Sức khỏe của tôi lúc này đã hồi phục. Khi đã tiết kiệm đủ tiền cho một khởi đầu mới, tôi cám ơn cô và chia tay. Chúng tôi không bao giờ gặp nhau nữa.
Tôi thuê một căn hộ nhỏ ở gần doanh trại, nơi tôi vẫn tiếp tục làm việc, và sau một thời gian ngắn tôi kết bạn với hai cô gái trẻ, cả hai đều trẻ hơn tôi hai tuổi. Họ bán bánh mì và thuốc lá trong một quầy hàng nhỏ ở gần chỗ tôi.
Ngọt sinh ra ở Hải Phòng là trẻ mồ côi phải lăn lộn từ tấm bé. Liên sống trong một căn hộ nhỏ cùng với Anh, cô em gái mười lăm tuổi, một sắc đẹp hoàn hảo. Bố của Liên mất sớm, mẹ Liên sống cùng với hai đứa em gái nữa ở Đà Nẵng, một thành phố ven biển ở phía Nam.
Mặc dù tình hình đã ít nhiều trở nên yên ổn hơn, trong thành phố vẫn còn nhiều người tị nạn mang theo những kiện hành lý nặng chờ xe buýt hay tàu hỏa.
Cả ba chúng tôi đều chia sẻ phương châm sống: "Chiến tranh không thể làm ta suy suyển, ta đã đủ lớn để quyết định vận mệnh của mình!".
Và như vậy chúng tôi đã quyết định cùng mở một quán ăn nhỏ. Chúng tôi gom lại toàn bộ số tiền tiết kiệm của mỗi người và thuê một ngôi nhà nhỏ không xa trại lính lắm, với bàn ghế và đầy đủ bát đĩa.
Tôi chịu trách nhiệm chạy các thủ tục cần thiết về phía chính quyền. Tất cả đều diễn ra suôn sẻ, và trong tôi trào dâng một nguồn năng lượng mới.