Chương ba- 1 - Những con đường số phận
Chim Phượng Hoàng
vẫn tiếp tục sống
Nghi lễ đưa ma mà theo đó người chết được rước về với tổ tiên rất quan trọng ở nước tôi. Người ta tin rằng nếu không có nghi lễ đó linh hồn của người chết sẽ bị đày xuống địa ngục.
Một mảnh lụa trắng là biểu tượng cho "linh hồn trong trắng" được đặt lên ngực người quá cố để linh hồn lìa đời bám vào đó khi người đó trút hơi thở cuối cùng. Trong nhà, nhang được thắp lên để canh giữ thi hài, việc này phần lớn do những thầy cúng được mời đến làm. Trước cửa nhà người ta rắc những đồng xu bằng đồng để trừ tà ma. Khi thi hài được rửa bằng nước thơm và được người nhà khâm liệm, người ta nhét tiền và gạo vào miệng người chết, coi đó là bữa ăn cuối cùng.
Sau đó người chết được đặt vào một chiếc quan tài bài trí rất cầu kỳ với nhiều lá bùa may mắn gắn trên nắp, trước khi quan tài được đặt vào một chiếc khung sơn son thếp vàng, trông giống như một chùa nhỏ. Vào dịp này, người ta có thể thuê những người đàn bà đầu cạo trọc đến để khóc mướn và thể hiện sự đau xót của mình bằng những giọt nước mắt vô cùng thống thiết. Thân nhân mặc toàn đồ trắng, màu của tang lễ, và cũng có thể cắt trọc đầu.
Rồi quan tài được đem ra nghĩa địa. Đi đầu đoàn người đưa tang là hai người đàn ông rước đuốc và cờ, trên cờ có ghi vị thế của người quá cố. Tiếp đó là đoàn người đi theo sau rắc vàng mã để trấn an ma quỷ.
Sau đó là người rước bia sơn son tưởng niệm người quá cố giờ đây đã được xếp vào hàng tổ tiên. Còn có một bàn thờ nhỏ, trên đó đặt những kỷ vật hay đồ dùng từng gắn bó với người quá cố. Sau cùng là xe tang, được vây quanh bởi đoàn nhạc công và tang quyến.
Khi đến nơi an táng người ta gọi hồn ba lần và quan tài lúc này có thể hạ huyệt.
Mọi việc diễn ra như vậy. Sau đó bài vị của người quá cố được đưa lên bàn thờ tổ tiên.
Tôi không muốn biết gì về những thứ thủ tục đó. Không một thứ nghi lễ, dù to tát đến chừng nào, có thể diễn tả nỗi đau mất con của tôi và tình yêu mà tôi dành cho nó. Tôi không cần bàn thờ, vì tôi mang tổ tiên tôi trong lòng mình và biết rằng tổ tiên tôi luôn đưa bàn tay cưu mang tôi, một đứa trẻ mồ côi. Tôi cũng không cần cả một người khóc thuê vì tự tôi có thể khóc.
Tuy nhiên tôi vẫn mặc đồ tang trắng và ngồi bên xác Loan suốt ba ngày.
Ngọt và Liên đã mang hoa đến và rắc lên thi thể bé nhỏ của nó. Tôi đã nhờ Ngọt cắt mớ tóc dài tôi. Nó làm theo lời tôi mà rưng rưng nước mắt. Loan thích mái tóc của tôi, và đó là vật duy nhất ngoài tình yêu của tôi mà tôi có thể cho con gái tôi mang theo trên chuyến đi xa của nó.
Vì trước đó có ba tu sĩ da trắng hiện lên trong giấc mơ nên sáng ngày Chủ nhật tôi đưa xác con tôi, được quấn bằng lụa trắng, đến chỗ một cha cố. Trước khi nhờ vị linh mục mai táng Loan theo lễ nghi tôn giáo của ông, tôi nói: "Ông Trời thật công bằng: một người đàn ông trẻ tuổi đã chết vì bị tôi khước từ. Và giờ đây tôi đã phải trả giá tội lỗi đó bằng chính giọt máu của mình".
Nhân vật chính, mẹ của tác giả, cắt tóc ngắn sau khi người con gái đầu tên Loan qua đời.
Vị cha cố im lặng nhìn tôi và hiểu được nỗi buồn của tôi. Sau đó ông đã làm theo ý nguyện của tôi.
Tôi nêu lý do cá nhân và xin nghỉ việc ở chỗ tôi làm vào ngày 31 tháng Ba năm 1952. "Từ nay", tôi nói với những người bạn gái của tôi, "tôi không muốn ai, kể cả các bạn, gọi tôi là "Cúc" nữa mà hãy gọi tôi là "Loan", bởi vì nó đã và sẽ mãi là con của tôi. Tôi đã không uổng phí gọi nó là Con Chim Phượng Hoàng".
Ít lâu sau đó tôi quyết định rời khỏi thành phố, nơi đã mang lại cho tôi biết bao điều bất hạnh. Tôi chỉ mang theo một hộp nhỏ đựng đồ trang sức, tiền và một ít quần áo và chia tay với Ngọt, Liên và Anh, những đứa em buồn thê thảm khi phải để tôi ra đi.
"Chị không thể ở lại đây thêm nữa", tôi nói với họ. "Vì nếu không chị sẽ chết vì buồn bã. Hãy nhận tất cả gì mà chị đã dành dụm được. Chị chẳng cần đến nó nữa. Chị cám ơn các em nhiều lắm."
Tôi leo lên xe khách, xe đưa tôi tới Gia Lâm, một thị trấn ở phía Đông Hà Nội, để bỏ lại thật xa phía sau quá khứ nặng nề.
Khi xe khách từ từ lăn bánh, họ gọi với theo, như đã đọc được suy nghĩ của tôi: "Chị có lý đấy Loạn ạ: một con chim Phượng Hoàng không bao giờ chết!".
Hoa, một tâm hồn cao cả
Quân Đội Pháp từ lâu đã đóng quân tại Gia Lâm. Tôi sống ở ven con đường từ Hải Phòng tới Hà Nội, trong một túp lều nhỏ xíu như bao túp lều khác. Ngay đằng sau đó là những bãi lầy xa tắp, nơi tạo môi trường sống lý tưởng cho cá sấu và ễnh ương và mỗi khi hoàng hôn đổ xuống, đàn ễnh ương lại kêu uênh oang thật to, át cả những âm thanh ồn ào thường thấy. Lần này tôi muốn mở một quán bar, vì thế tôi thuê trên phố một gian phòng nhỏ và mua một số đồ gỗ. Rồi tôi thuê hai người phụ nữ trẻ phụ giúp cho tôi. Tiếng gầm rú của phi cơ ném bom và máy bay Đa-cô-ta từ sân bay gần đó thường trộn lẫn với những tiếng rao bình thản của những người bán đồ ăn. Như tất cả những người ở đây, tôi sống ngày này qua ngày khác. Một chiếc cầu dài mang tên Paul-Doumers bắc qua sông Hồng rộng lớn và nối liền Gia Lâm với Hà Nội. Đường xe lửa đi Hải Phòng cũng chạy qua cây cầu này. Những người lính thực dân da đen, người cao lớn mặc quần soóc canh gác cầu, thường xuyên đi tuần ở đây. Cầu nhiều lúc bị tắc nghẽn vị xe trâu, xe xích lô, xe đạp và cả người đi bộ.
Vào những ngày nghỉ tôi đi xích lô qua cầu và dành thời gian ở bên Hà Nội. Động tác tượng trưng này nhằm rũ bỏ thân phận và đã giúp tôi dần dần lấy lại sức lực. Việc không cưới bố của Loan đã là một quyết định mang hậu quả nặng nề. Tôi đã vi phạm những quy tắc xã hội và đã hủy hoại thanh danh của mình. Nhưng tôi đã cảm nhận rằng sẽ hoàn toàn sai nếu tôi từ bỏ cuộc sống tự quyết của một người phụ nữ. Việc mất Loan chỉ là thêm một thử thách nữa mà tôi phải trải nghiệm. Và tưởng chừng như con gái của tôi đang đòi hỏi tôi phải bắt đầu một cuộc sống mới, phù hợp với chính những nguyên tắc bướng bỉnh mà tôi đã đặt ra cho mình, tôi tìm cách để thực hiện điều này một cách tốt nhất. Tôi quyết tâm không lâu nữa sẽ lại có thể trụ được trên chính đôi chân của mình, tại một thành phố khác và bằng một cái tên mới.
Một buổi tối, tôi đã làm quen với một cô gái trẻ cách quán của tôi vài bước chân, tôi từng nhiều lần nhìn thấy cô đứng đó một mình. Cô bé 14 tuổi, tên là Hoa.
Tôi bắt chuyện với cô. Cô nhìn tôi một cách ngượng nghịu và cẩn thận nhòm ngó quanh đó, xem có ai nghe chúng tôi nói chuyện không. Cô bé nói nhỏ với tôi, cô là gái làm tiền và đang chờ khách làng chơi.
Rồi cô kể cho tôi nghe câu chuyện của cô. Đó là cách duy nhất để cô và gia đình cô tồn tại. Bố cô đã lên đường đi chiến đấu vì tự do của dân tộc mình; từ nhiều năm nay họ không được tin tức gì của ông nữa. Mẹ cô ở lại cùng với ba người con, thêm vào đó là người ông bị bại liệt, và chẳng còn một xu dính túi. Năm 12 tuổi Hoa đã phải bán mình cho một người đàn ông lấy mấy trăm đồng để gia đình sống qua ngày. Không ai ép buộc cô gái làm việc đó, nhưng sự túng quẫn của gia đình cô trong cuộc chiến tranh khốn nạn này đã không cho cô một sự lựa chọn nào khác.
Tôi thật cảm động khi được biết rằng một con người có khả năng làm được những điều gì vì tình yêu dành cho người thân của mình. Đối với tôi, hy sinh của Hoa là minh chứng cho một tâm hồn thực sự cao cả.
Một gian phòng đầy bí ẩn
Người chủ mới cho tôi thuê nhà đón tôi một cách vui vẻ, gần như nồng nhiệt. Ông sống cùng với gia đình trong căn nhà bên cạnh và chẳng hỏi han gì cả. Một hôm tôi chợt nhớ ra mình để quên giấy tờ tùy thân ở nhà, và vì vậy phải nhanh chóng quay trở lại. Chẳng ai biết rằng điều gì có thể xảy ra trong ngày, vì thế tốt nhất là mang tất cả những gì quan trọng nhất bên mình. Khi về gần tới nơi, tôi thấy người chủ nhà bước vào túp lều của tôi, vai vác một nửa con bê. Tôi ngạc nhiên chờ vài phút ở trước cửa. Ông ta định trữ tảng thịt đó ở đâu? Trong nhà làm gì có chỗ.
Một lúc sau vẫn chưa thấy ông bước ra, tôi bèn đi vào trong nhà. Ông bình thản đứng giữa căn phòng duy nhất của tôi và cười vui vẻ: "Cô Loan, tôi đang định kiểm tra xem trong lều của cô có sạch không?", tôi nhận thấy ông nói năng có vẻ lúng túng.
Tôi bình tĩnh trả lời ông với một nụ cười đặc biệt thân thiện và lịch sự: "Xin mời ông. Ông cứ kiểm tra đi ạ. Tôi hy vọng rằng mọi thứ đều sạch sẽ đối với ông. Tôi chỉ muốn về lấy cái túi mà tôi quên thôi". Tôi không chờ ông trả lời mà đi thẳng về chỗ chiếc tủ con bên cạnh giường ngủ. Tất nhiên là tôi không hề thấy dấu vết gì của tảng thịt khổng lồ ban nãy. Tôi không tỏ thái độ gì, lấy cái túi và chào ông một lần nữa. Ông tỏ ra hài lòng với việc kiểm tra của mình, gật đầu đáp lại câu chào của tôi và theo tôi đi ra ngoài.
Buổi tối sau giờ nghỉ tôi về nhà, khóa chặt cửa và vặn nhỏ ngọn đèn Ca-bít. Sự việc xảy ra trong ngày đã không để cho tôi yên. Tôi muốn tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra đối với nửa con bê. Tôi bắt đầu sờ vào tường. Không có gì cả! Nhưng tôi chợt phát hiện ra tấm thảm dưới giường của tôi có vết gấp ở một góc. Tôi nhẹ nhàng và cẩn thận kéo chiếc chõng tre cùng với tấm thảm sang một bên. Quả thực phía dưới là một chiếc nắp hầm.
Tôi tò mò kéo chiếc nắp hầm vài xăng-ti-mét sang một bên và phát hiện ra một lối ngầm. Túp lều của tôi bị đào rộng dưới nền và ở đó có hẳn cả một đường hầm!
Giật mình và sợ hãi vì có thể có người nào đó từ dưới hầm chui lên, tôi vội vàng đóng chiếc nắp hầm lại và nhẹ nhàng đẩy tấm thảm cùng với chiếc chõng tre trở lại vị trí cũ. Vậy là tôi lại có thêm một câu chuyện rắc rối nữa. Gian phòng của tôi là cửa vào của một hệ thống đường hầm, và qua đường hầm đó hẳn ông chủ nhà của tôi đã tiếp tế thức ăn cho người của Việt Minh! Lúc đầu tôi có bị sốc, nhưng rốt cuộc thì tôi nghĩ rằng mọi sự đối với mình đều là vô can. Tôi chỉ mong muốn được yên thân và sống trong bình an.
Con rắn quay trở lại
Cuộc sống cứ thế trôi đi. Tôi cố tình lờ đi như không nhìn thấy những cây chuối ở đằng sau túp lều của tôi thỉnh thoảng lại rung lên khi tôi phơi quần áo lên dây phơi, và tôi cũng cố tình như không nghe tiếng những "con chuột chũi" hai chân đang nói chuyện ở những cái lỗ phía dưới không xa chân tôi là mấy, vì họ bỗng dưng va đầu vào những rễ cây cứng.
Đã hai tháng trôi qua kể từ khi tôi tới đây. Tôi không có lý do gì để phải lo lắng. Về phần mình, tôi chẳng thiếu thốn gì. Nếu có đủ tiền người ta có thể sống ở đây một cách khá thoải mái. Có những người thích ngồi xổm trên chiếc ghế đẩu bởi họ cảm thấy ngồi như vậy thoải mái hơn là ngồi trên ghế tựa, vào những giờ phút yên tĩnh họ ngồi trước cửa lều và bắt chấy trên đầu cho nhau. Những người khác thì bỏ tiền ra thuê người bới tìm tóc bạc và chìm vào giấc ngủ khoan khoái khi được nhổ tóc. Ngược lại, những người nghèo nhất trong số những người nghèo thì hàng giờ đứng ở vệ đường để bán những mớ tóc óng mượt của mình lấy ít tiền hoặc đổi lấy một chút đồ ăn. Những bờm tóc này phần lớn được phụ nữ mua về để độn vào những làn tóc mỏng của mình, hoặc là để tạo dáng thành những kiểu đầu độc đáo. Điều quan trọng là cần phải chú ý tới nguồn gốc của tóc, bởi cũng có những trường hợp tóc là của những người đàn bà đã chết.
Vào một buổi sáng tôi có linh cảm mình đang bị theo dõi. Tôi phát hiện ra một người đàn ông trẻ đeo kính đã theo mình suốt từ nhà cho tới chỗ làm. Giờ đây anh ta vẫn đứng cách quán bar của tôi không xa và làm ra vẻ như đang đọc sách.
Tôi cảm thấy bất an. Liệu có phải tôi đã bị phát hiện vì những mưu đồ của người chủ nhà hay không? Liệu có phải tôi biết quá nhiều hay không? Hay là vì những mối quan hệ của tôi với người nước ngoài?
Đến chiều thì tôi không thể chịu đựng được nữa. Người đàn ông vẫn còn đứng đấy. Bởi sự việc bắt đầu trở nên kỳ quặc, tôi quyết định sang bên kia đường và trực tiếp hỏi anh ta.
"Xin lỗi. Ông đã quan sát tôi suốt cả ngày trời. Tôi có thể giúp ông điều gì chăng?", tôi hỏi và cố tỏ ra hoàn toàn bình thản. Bất ngờ vì sự thẳng thắn của tôi, người đàn ông trẻ bỏ kính ra, nhìn xuống đất và trả lời tôi một cách lúng túng: "Tôi phải xin lỗi bà... Có phải bà là bà Cúc?".
Khi chưa thấy tôi trả lời, anh ta nói tiếp: "Ông chủ của tôi đã lệnh cho tôi đến tìm bà. Ông ta muốn gặp bà đề nói chuyện và để xin lỗi vì những điều ông ấy đã làm đối với bà. Ông ấy muốn đón bà về... để làm vợ ông ấy". Người đàn ông trẻ vẫn nhìn xuống với vẻ tôn kính.
Chỉ trong một tích tắc, hồi tưởng về Hùng đã ùa đến khiến tôi rụng rời. Tôi phải hít một hơi thật sâu. Vâng, tôi cũng đã từng muốn chung sống cùng anh. Bằng tất cả sự chân thành, tôi đã hiến dâng cho anh sự trinh trắng của tôi. Giờ thì chỉ còn nỗi đau đớn khi tôi nghĩ đến anh. Sau khi đã lấy lại được đủ nghị lực và sự bình thản, tôi trả lời: "Ông hãy về nói với ông chủ của ông rằng tôi sẵn sàng đón nhận ông ta. Tuy nhiên với điều kiện là ông ta đủ can đảm để tự cắt đi một bên má mặt, coi đó là sự đền bù lại nỗi đau ông ta đã gây ra cho tôi. Còn nếu không thì tôi không bao giờ muốn nhìn lại ông ta nữa".
Người nhắn tin gật đầu vội vã và ra đi với vẻ biết ơn vì có thể mang về cho ông chủ mình một câu trả lời.
Mối kết giao bằng hữu
"Nếu cuối đời bạn có thể tin tưởng vào chỉ một bàn tay, vào một người bạn duy nhất thôi thì bạn đã là người hạnh phúc!" (Loan)
Ở quán tôi chứng kiến những việc đã trở thành thường tình với mình, đó là phục vụ những người lính của nhiều quốc gia khác nhau và nghe họ kể chuyện. Với một nụ cười và một chút thái độ thân thiện là tôi đã được nghe họ dốc hết bầu tâm sự về cuộc đời của mình.
Thường thì tôi vỗ vai một người khách ca thán vì biết mình đã cùng đường. Nhiều lần tôi đã gật đầu an ủi một đứa trẻ lớn tuổi đang nhớ nhung và mơ mộng những điều không bao giờ thành hiện thực trong cuộc đời của nó.
Chẳng phải vì tiền. Từ lâu tôi đã khám phá ra rằng tiền chỉ là một ảo tưởng của hạnh phúc. Ở đây tôi đang tiếp xúc những con người với tất cả những tình cảm, những nỗi khao khát của họ, con người với cả những thế mạnh và những mặt yếu.
Đồng thời tôi cũng đã học cách xử lý những màn đánh lộn. Một người lính chân ướt chân ráo vừa mới tới đã khoe khoang từng tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên thì không cần uống rượu đã đủ để khiêu khích một người nào đó trong quân đội thuộc địa hoặc lính lê dương. Chỉ nói qua một lời thôi cũng đủ khiến bàn ghế bị đập nát trong phút chốc. Trong những trường hợp như vậy tôi luôn giữ cho thần kinh mình ổn định. Sau một vụ đánh nhau, tôi liệt kê mọi thiệt hại và ngày hôm sau vào doanh trại, nơi luôn có một vị chỉ huy của những thủ phạm đánh lộn sẵn sàng chi tiền bồi thường thiệt hại, và phần lớn còn kèm theo một lời xin lỗi, sau khi đã ghi lại tên ai trong số binh lính của mình gây chuyện, để trừ lương tháng sau.
Vào một ngày mưa tháng Bảy, tôi đang chăm chú lo rót bia thì bỗng thấy một chiếc xe xích lô dừng trước cửa quán bar. Tôi há hốc miệng đứng nhìn những người đang bỏ hành lý từ trên xe xuống: Ngọt, Liên và Anh thình lình đứng trước mặt tôi, trên mặt nở những nụ cười rạng rỡ.
"Chúng em đã bán tất cả để theo chị! Và bây giờ thì chúng em đã tới đây!", họ tranh nhau nói loạn cả lên và reo lên mừng rỡ.
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, làm cho khách hàng của tôi cũng phải cười và cự nự một cách bỡn cợt, ra ý họ cũng muốn được chúng tôi ôm cùng. Thật khó mà tin được. Tim tôi tràn đầy cảm giác hạnh phúc! Tôi đâu có mất tất cả: tôi có những người bạn gái trung thành, những bằng hữu trọn đời.
Anh
Chúng tôi nhanh chóng dọn sang một căn nhà rộng hơn, có đủ chỗ cho bốn chị em. Nó nằm hơi xa một chút và bao quanh là một bãi lầy lớn. Tường hậu phòng ngủ của chúng tôi sát với vách ngoài của một ngôi chùa, trong đó có nhà sư trẻ trụ trì.
Bây giờ thì tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm vì biết rằng bên dưới giường mình chẳng có người nào nữa. Chúng tôi cũng chuyển quán tới một vị trí khác sầm uất hơn. Cũng như trước đây, trong một bầu không khí thật chan hòa, chúng tôi đã tiếp tục công việc kinh doanh của mình một cách thành đạt.
Ngọt và Liên thì không thay đổi gì, vẫn như hồi tôi quen họ, nhưng Anh thì đã thay đổi rất nhiều, với cái tuổi mười chín của mình, cô trở nên xinh đẹp hơn nhiều. Tôi đã nghe kể về những gì cô đã phải trải qua trong những tháng vừa qua.
Đầu tiên cô bị chồng bỏ để đi theo một người đàn bà mà trong con mắt của anh ta thì còn xinh hơn cả cô. Sau đó người đàn bà này còn cho người hành hung cô. Giữa thanh thiên bạch nhật, một người lạ mặt đã xông vào Anh ngay ở giữa đường và tìm cách tạt axit vào mặt cô. Trong cái rủi có cái may, cô chỉ bị người đó làm bị thương ở cổ. Cũng chính vì sợ bị tiếp tục tấn công, cô đã quyết định cùng với Ngọt và Liên trốn tới chỗ tôi. Và đây chưa phải là tất cả: Anh đã có mang tháng thứ ba.
Tôi cảm nhận được rằng cô đã phải đau khổ như thế nào về việc đó. Cả Ngọt và Liên không thể giúp gì cho cô. Tôi đã tìm cách tiếp cận Anh để an ủi cô.
Chúng tôi có một cuộc trò chuyện với nhau, đúng hơn là cô chỉ nghe mà chẳng nói gì. Tôi bảo cô đừng quá lo lắng, ngay cả khi cô đang sắp sửa có con. Tôi lấy ví dụ rằng chính tôi cũng đã tự mình vực dậy sau cơn hoạn nạn. Danh dự, tôi nói với Anh, không phải là tất cả. Bản thân tôi cũng từng hạnh phúc, và đứa con của Anh chắc chắn cũng sẽ mang đến nhiều niềm vui. Ngoài ra cô còn có cả chúng tôi nữa mà!
Anh ngước nhìn lên. Một lúc sau cô nói nhẹ nhàng: "Em cám ơn chị. Chị tốt với em quá. Em yêu chị như chính chị gái của em. Nhưng không có anh ấy thì cuộc sống của em chẳng có nghĩa lý gì hết. Cho dù cái gì sẽ đến, em cũng bất cần". Cô từ từ đứng dậy và đi ra ngoài. Tôi buồn bã và bất lực quay trở lại chỗ những người kia. Tôi đồng cảm sâu sắc với điều mà Anh đã chia sẻ.
Hai ngày sau Liên tìm thấy Anh trong phòng ngủ. Tại đó, hoàn toàn không gây nên một tiếng động nào, Anh đã dùng dao trước hết đâm vào bụng mình và sau đó đâm nhát thứ hai vào tim để tự giải thoát khỏi cuộc sống mà cô không muốn có nữa.
Một đêm bất an
Vào một ngày cuối tháng mười một năm 1953, lúc gần nửa đêm, tôi cùng với Ngọt và Liên đang trên đường đi về nhà thì bỗng nhiên có tiếng súng nổ và tiếng những người đàn ông gào thét thật to, chỉ cách chúng tôi một vài con phố. Chúng tôi giật mình và chạy nhanh hơn. Chúng tôi đã gần về tới căn lều của mình.
Những người lính Pháp bất thình lình xuất hiện như từ trên trời rơi xuống và chặn đường chúng tôi, họ chĩa súng vào chúng tôi. Họ đã đuổi theo một tốp chiến sĩ Việt Minh mà họ vừa mới phát hiện.
Khi họ nhận ra chúng tôi chỉ là ba người phụ nữ, họ lại để chúng tôi đi qua và tiếp tục kéo đi một cách hoang mang.
Vừa vào nhà chúng tôi liền đóng chặt cửa lại. Song chưa đầy mười phút sau có người đạp cửa thật mạnh làm cửa bật tung ra. Lính tràn vào nhà chúng tôi, vũ khí lăm lăm trên tay. Chúng tôi ngồi yên, vô cùng sợ hãi. Trong khi một người chĩa súng vào chúng tôi, hai người lục soát các phòng.
Với giọng nói cau có "Xin lỗi các bà!" họ lại ra ngoài, bước vào bóng đêm sau cuộc lục soát không có kết quả.
Tôi cố tìm cách đóng cửa lại vì ổ khóa giờ đã bị đạp hỏng, tôi nhìn ra và thấy tất cả các căn nhà khác đều bị lục soát theo cách tương tự. Chúng tôi pha chè uống để tĩnh tâm lại, nhưng khi bất thình lình nghe nhiều tiếng súng nổ từ hướng bãi lầy thì chúng tôi suýt đánh rơi chén chè xuống đất.
"Chắc chắn là chúng ta bắn trúng nó rồi!", một người la lên. "Hãy để cho hắn chết đuối!", một người khác phụ họa thêm. Một lúc lâu sau tốp lính mới bỏ đi. Không ai trong số chúng tôi lại mường tượng được rằng bãi lầy sau nhà chúng tôi lại là nơi trú ẩn của Việt Minh! Khi gặp nguy hiểm, họ có thể ngâm mình hàng giờ dưới nước và chỉ thở qua mấy chiếc ống tre.
Sau đó, vào lúc nửa đêm, chúng tôi nghe những tiếng chân vội vã ở phía sau căn nhà của mình và nghe giọng nói bằng tiếng Việt vọng ra từ ngôi chùa. Ngôi chùa là ngôi nhà duy nhất không bị khám xét, vì được coi là chốn linh thiêng. Cả đêm chúng tôi nghe thấy tiếng nói từ phía đằng sau vách khiến cho mình run sợ. Nếu người ta phát hiện ra rằng các nhà sư để cho những người bị truy đuổi lánh nạn thì chắc chắn tất cả chúng tôi đều phải tính tới chuyện bị trả thù.
Một chuyến đi trên mây
Những nghiệm trải mạo hiểm như vậy cũng không thể cản trở chúng tôi trong công việc kinh doanh. Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Ngày càng nhiều lính Pháp trụ lại ngắn hạn ở Gia Lâm, trước khi họ bị điều đi Điện Biên Phủ. Nơi đó người Pháp đã xây dựng cả một căn cứ trong thung lũng và phải bảo vệ nó trước sự tấn công của các đơn vị bộ đội Việt Minh.
Một người lính lê dương đổi cho tôi một con gấu con màu nâu mà toán quân của anh bắt được trong rừng sâu để lấy một chai Cognac. Tôi hứa sẽ chăm sóc con thú đã được thuần hóa. Nó được xích cả ngày bằng một cái xích dài ở phía sân sau của quán bar chúng tôi và ăn đồ ăn thừa của bếp. Khi chia tay, anh lính lê dương khuyên tôi rời khỏi thành phố vì không bao lâu nữa tình hình có thể sẽ căng thẳng. Tôi chẳng hề để ý đến lời nhắc nhủ của anh ta. Có lý do gì đâu mà phải lo lắng. Tôi đã phiêu bạt lâu lắm rồi và hầu như lúc nào, ở chỗ nọ hoặc chỗ kia, cũng đều có chiến sự.
Tôi đã quá quen với điều đó. Giờ thì sao tôi lại phải làm mình đau đầu vì chuyện này?
Sau đó không lâu, vào một ngày mưa, tôi đang trên đường đi chợ thì trời nổi sấm sét. Sấm to báo hiệu một cơn bão sắp tới. Bất thình lình trước mặt tôi, ngay trên đường phố, một người qua đường bị sét đánh trúng và bay đầu.
Liệu có phải qua đó Ông Trời muốn chỉ cho tôi biết cái chết và sự sống gần nhau trong gang tấc như thế nào hay không? Liệu có phải điều đó có nghĩa rằng: "Ta phải đi khỏi nơi đây?" hay là "Ta luôn luôn gặp may?". Tôi không thể hiểu nổi ý nghĩa của chỉ dấu này. Chỉ biết là từ đó và mãi về sau tôi luôn cảm thấy một nỗi sợ khủng khiếp mỗi khi trời nổi giông tố.
Tháng Giêng 1954, Liên bất ngờ nhận được một bức điện từ Đà Nẵng. Mẹ cô ốm thập tử nhất sinh và gọi cô về. Ngay ngày hôm sau chúng tôi giúp cô đóng chiếc va ly nhỏ và tiễn cô ra xe xích lô để đến nhà ga gần nhất. Tàu của cô qua đèo Hải Vân. Cô sẽ sớm về với mẹ, hy vọng là còn kịp!
Chúng tôi vuốt nhẹ lên gương mặt tái mét của cô và chúc cô mọi điều tốt lành. Rồi cô đi khỏi. Chúng tôi sẽ rất nhớ cô. Với một tâm trạng nặng nề, chúng tôi trở về nhà, vì lúc đó đến quán bar làm thì hẵng còn sớm quá. Lúc chúng tôi gần về đến nơi thị Ngọt chợt phát hiện ra một con cú mèo đậu trên mái nhà chúng tôi. Một dấu hiệu chẳng lành! Ngọt vội quỳ xuống và khấn vái để xua đuổi điềm gỡ. Chúng tôi vào nhà mà bụng chẳng khỏi nôn nao, chúng tôi thắp hương nhiều ngày để mong thần linh phù hộ và xua đuổi tà ma.
Cảm giác lạ lùng, đeo đẳng về việc có sự gì đó không may có thể xảy ra tưởng chừng như đã trôi qua sau hai tuần lễ thì vào ngày mồng ba tháng Hai, vào ngày Tết âm lịch của chúng tôi lại trỗi dậy, khi chúng tôi lại nhận được một bức điện nữa. Điện lại gửi cho Liên. Chúng tôi vội vàng đọc xem trong đó viết gì:
"Chị yêu thương - Mẹ đang hấp hối - Mẹ đang gọi chị - Chị ở đâu - Hãy về ngày chị nhé!"
Ngọt và tôi bàng hoàng nhìn nhau, chúng tôi bỏ dở mọi công việc, vội vã lên xe xích lô để ra ga xe lửa. Khi tới ga, chúng tôi hỏi nhân viên hỏa xa về chuyến tàu mà Liên đã đi. Ông ta trả lời một cách thản nhiên, như chẳng có chuyện gì lớn xảy ra: "Vâng, cách đây hai tuần đoàn tàu đã bay lên không trung. Có phá hoại mà". Ông ta để chúng tôi đứng đó, bàng hoàng và buồn vô tận.
Liên đã có một chuyến đi trên mây. Từ trên đó cô có thể nhìn xuống thấy chúng tôi...
Chỉ cần nói qua một lời
Chúng tôi ủ rũ quay trở lại quán bar. Tất cả những người quen biết Liên, dù là người quen ở mấy cửa hàng bên cạnh hay khách hàng đều choáng váng. Nếu năm Ngọ bắt đầu như vậy, tôi nghĩ, thì nó sẽ kết thúc ra sao?
Để tưởng nhớ cô, chúng tôi thắp hương trong quán và sắm một giỏ trái cây cùng với hoa. Ngày hôm đó Ngọt và tôi làm việc như thường lệ. Đối với chúng tôi, đấy là cách tốt nhất để khuây khỏa. Trong bếp thì chúng tôi lau nước mắt, còn ở ngoài quầy bar thì chúng tôi cười với những người khác.
Mới chập tối mà quán đã nhanh chóng đông kín, ban đầu là lính dù với những cô gái cặp với họ, sau đó, vào giờ khuya hơn là lính lê dương và lính thực dân. Bao giờ họ cũng đi riêng và ngồi thành từng nhóm riêng. Mọi người đều kể chuyện và cười to, tạo không khí thoải mái. Họ đến đây để cùng quên lãng, nhưng hôm nay họ muốn liên hoan. Họ cũng đã làm như vậy, cho tới khi một người lính thực dân ngà ngà say và bắt đầu hát một bài ca về sự thất bại của lính lê dương tại Bắc bộ. Những tiếng cười bỗng lặng ngắt. Khi anh ta vừa mới bắt đầu hát, những người lính lê dương đứng bật dậy và lao như điên dại vào những người khác. Các cô gái lập tức bỏ chạy. Và tôi chứng kiến một trận hỗn chiến lớn nhất từ trước tới nay.
Ngọt và tôi chờ ở trong bếp cho tới khi sự việc qua đi, bỗng nhiên những cảnh sát người Việt được trang bị vũ khí nhảy từ trên xe cam nhông xuống và xông vào quán. Họ đã nhận lệnh tiến hành lục soát và bắt đi tất cả những người không có giấy tờ.
Ho kiểm tra từng người một. Những người bản địa đều trình giấy tờ của mình mà không cự nự gì. Sau đó đến lượt Ngọt và tôi. Chúng tôi là những người duy nhất không mang chứng minh thư bên mình, và đến giờ chúng tôi đã quên túi xách của mình ở nhà. Đấy là lần đầu tiên, nhưng một lần như vậy cũng quá đủ.
Trong khi họ dùng súng bắt khách hàng ngồi hoặc đứng yên tại chỗ, chúng tôi tìm cách giải thích với họ rằng giấy tờ để ở trong túi xách ở nhà. Chúng tôi van nài họ để chúng tôi về lấy hoặc cho người về nhà chúng tôi để lấy giấy tờ.
"Lũ đĩ rạc! Hãy đi theo chúng tao!", một người gào lên một cách vô cảm. Một người khác đi về phía chúng tôi, trên môi nở một nụ cười đĩ đượi làm tôi lạnh cả sống lưng và nói: "Chúng ta sẽ giải quyết việc đó ở trên đồn!".
Trước khi kịp ghi nhận được điều gì đã xảy ra với mình thì chúng tôi đã ngồi trên thùng xe tải, chiếc xe mà lúc đó chúng tôi chưa hình dung được rằng nó sẽ đưa mình trong đêm tôi về hướng địa ngục.