← Quay lại trang sách

- 2 -

Một đêm tối tăm

Chúng tôi tới một ngôi nhà nhỏ, tối om, bao quanh là tường cao tới đầu người, mép trên có rào giây thép gai. Chúng tôi xuống xe mà trong bụng thật nôn nao và phải theo mấy người đàn ông tới một cái cửa lớn.

Khi chúng tôi đi vào, mấy người giải chúng tôi phải đánh thức một người đàn ông đang ngồi ngủ gật trên ghế. Ánh đèn mờ ảo rơi xuống từ một cái đèn trần xỉn màu làm cho không khí trong phòng càng khó thở.

Ngọt không ngừng run lẩy bẩy, còn tôi thì bình thản chờ xem cái gì sẽ xảy ra.

Người đàn ông gác cửa nói với chúng tôi một cách cộc cằn rằng vào giờ này thì chẳng có gì để giải quyết cả. Rõ ràng là vào giờ khuya như thế này thì người phụ trách không còn ở đây nữa. Vì thế đêm nay chúng tôi phải ở lại đây.

Chúng tôi vẫn bị hai người dùng súng giải lên tầng trên. Trước mắt chúng tôi, một người gỡ một thanh sắt chặn cái cửa thép nặng nề, người kia không nói một lời đẩy chúng tôi vào trong bóng tối. Chiếc cửa bị đóng rầm ngay sau lưng chúng tôi.

Một lúc lâu mắt chúng tôi mới quen dần với bóng tối, chúng tôi bắt đầu nhận biết được ranh giới của căn phòng chúng tôi bị nhốt. Tôi không thể tin được rằng tình cảnh của chúng tôi đã thay đổi đến mức tệ hại như vậy. Cái đồn mà chúng tôi đang có mặt ở đây chỉ là một phòng giam nhỏ bé, hôi thối của cảnh sát chánh trị chứa đầy tù nhân. Đông người không thể tưởng tượng nổi, phụ nữ, đàn ông mọi lứa tuổi được nhồi vào một căn phòng có kích thước bốn nhân bốn mét. Ngoài mùi hôi thối của nước tiểu và phân còn ngửi thấy mùi máu khô. Tôi lập tức nhận biết được mùi này vì tôi đã chịu đựng nó quá lâu trong bệnh viện.

Chúng tôi bị nhồi sát vào nhau đến mức chỉ có thể ngồi xổm hoặc phải đứng. Một vài tù nhân đứng tựa vào nhau ngủ gà ngủ gật. Không khí thật khó thở. Chỉ có duy nhất một chiếc cửa sổ nhỏ tí ở một góc trên trần, qua đó người ta có thể đoán được bên ngoài là ngày hay đêm.

Một vài người thỉnh thoảng phát ra những tiếng rên rỉ ngắn trước khi họ lại vật vờ ngủ tiếp, hoặc ít nhất ra vẻ như đang ngủ. Ngọt bắt đầu thút thít khóc và mãi không nín. Cô cũng sợ hãi giống hệt tôi. Bây giờ thì toàn thân tôi cũng run lên và miệng tôi không dám thoát ra câu hỏi đang mấp mé ở bờ môi: "Họ sẽ làm gì với chúng ta đây?".

Người ta để chúng tôi bị dày vò trong nỗi sợ, hàng tiếng đồng hồ liền, cho tới khi những ánh mặt trời đầu tiên chiếu qua chiếc cửa sổ nhỏ và chúng tôi nghe những bước chân đầu tiên đi bên ngoài hành lang.

Thanh sắt được tháo ra. Một người đàn ông hiện ra trước cửa mở và nói với giọng cộc cằn: " Mấy đứa mới, lại đây!". Nghĩa là họ ám chỉ Ngọt và tôi.

Những người như bạn và tôi

Chúng tôi bị tách riêng. Trong khi Ngọt rẽ vào một phòng bên cạnh cùng với người dẫn đường thì tôi phải đi theo một người đàn ông đưa tôi vào một căn phòng trống, trong đó chỉ có một chiếc ghế. Ở đây không có cửa sổ, chỉ có ánh điện chiếu xuống từ một bóng đèn mờ mờ ở trên trần. Người ta ra lệnh cho tôi ngồi xuống.

Hai người đàn ông Việt Nam mặc đồng phục màu xanh ô liu đứng trước mặt tôi và bắt đầu hành tôi bằng những lời quy tội.

"Hãy thú nhận đi: mày làm việc cho Việt Minh! Nếu mày thú hết tội với chúng tao thì chúng tao sẽ lượng thứ", người đầu tiên nói với giọng trơn tru.

"Tôi chỉ làm việc cho tôi và không phải cho Việt Minh", tôi trả lời hoàn toàn bất ngờ.

"Nhưng mà mày nổi tiếng Pháp. Mày hiểu hết những gì tụi lính nó nói và mày ton hót với Việt Minh!", người thứ hai gào vào tai tôi.

"Tôi đã làm việc trong một trại lính Pháp, dọn vệ sinh và làm cu li. Ở đó tôi đã học được một vài từ và cũng học được của những người lính ở quán bar. Vì vậy tôi biết một ít tiếng Pháp."

"Ở nước ta đàn bà không cần phải làm việc cho người nước ngoài. Đàn ông chúng tôi đây nuôi đàn bà và lo cho họ!", người này gào lên với tôi. Tôi im lặng và không thể không nghĩ đến bố tôi, đến anh tôi, đến Hùng và chồng của Anh và nghĩ đến việc những người đàn ông đó đã "tốt" tới mức như thế nào. "Những người đến uống bia nhà cô, họ muốn gì?", người đầu tiên hỏi tôi, vẫn nhẹ nhàng như lúc đầu.

"Tôi không biết các ông định nói gì? Các ông hãy để cho tôi về nhà. Tôi thề với các ông là tôi nói thật! Các ông hãy để cho tôi về nhà cùng với một người lính của các ông để lấy giấy tờ, các ông sẽ thấy là tôi nói thật." Đến lúc này tôi đã trở nên khó thở. Bỗng dưng một người đàn ông thứ ba xuất hiện từ một góc tối của căn phòng mà tôi không biết. Ông ta mặc thường phục. Mặt của ông ta mang những nét lai Âu-Á. Ông ta ngồi xuống đất trước mặt tôi và từ từ tháo chiếc dép xăng đan chân phải của tôi ra. Giờ đây, ông ta vuốt bàn chân tôi, từ tốn và gần như nhẹ nhàng.

"Hãy nói đi", ông ta thì thầm, "rồi chúng tôi sẽ để cho cô đi. Hứa mà!"

"Tôi kiếm sống một cách lương thiện. Tôi chẳng liên quan gì đến những việc ở đây cả", tôi trả lời. Hẳn đó là một câu trả lời không đúng chỗ.

Trước khi tôi kịp phản ứng, ông ta đã bóp bàn chân tôi thật mạnh đến mức tôi phải thét lên vì đau đớn. Tôi cảm thấy có những bàn tay ấn mạnh vai tôi xuống để tôi không đứng dậy được, trong khi có người khác ép chặt hai chân tôi vào nhau. Người lai Âu-Á lấy từ trong túi quần ra một vật gì đó, một cái kìm. Bằng cái kìm đó, ông ta giật bong móng chân cái bên phải của tôi và giơ nó lên trước mặt tôi. Đau đớn không thể chịu được, cú sốc làm cho tôi phải ói mửa ngay tức thì.

"Đồ con đĩ bẩn thỉu!", người lai Âu-Á gào lên, hắn đứng dậy rút khăn tay lau những vết nôn của tôi bắn vào hắn. "Ngày mai đến lượt mày đây! Mày hay nghĩ lại một lần nữa đi! Tao mà như mày thì tao sẽ khai thật. Đưa nó về cũi đi!", hắn ta ra lệnh. Trên đường quay trở về phòng giam kinh tởm kia, nơi mang mùi của chết chóc, tôi nghe tiếng vang đùng đục của những cú đòn và những tiếng kêu gào của người người "phản quốc" từ những phòng bên cạnh vọng ra. Tôi chắc rằng mình phải bỏ mạng ở đây. Bàn chân tôi đau đớn kinh khủng và máu chảy đầm đìa. Sau tôi ít phút, Ngọt và một nữ tù nhân khác cũng được đưa về. Môi Ngọt rách và một mắt sưng to. Cô lại gần chỗ tôi và kinh hoàng nhìn chân tôi. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau.

Cô khóc và nói: "Chúng mình chết mất! Chúng mình chết mất! Họ sẽ giết chúng mình mất!".

"Ừ", một ông nói xen vào một cách chán chường. "Nhưng mà trước đó họ sẽ còn tra tấn dã man các cô đã! Tốt nhất là thú nhận tất cả, cho dù các cô chẳng làm gì. Khi đó thì họ sẽ đưa các cô đến một cái trại tù, nhưng mà các cô còn giữ được mạng sống."

Một bà luống tuổi thì thầm với chúng tôi: "Có thể họ sẽ dùng điện tra tấn các cô. Hãy ngậm một cái khuy áo bằng xà cừ giữa hai hàm răng, như vậy đỡ đau hơn".

Ngọt và tôi im lặng gật đầu. Chúng tôi vội vã lục tìm trong những chiếc áo chẽn của mình và mọi người gỡ được một chiếc khuy.

Lại một lần nữa tôi nhận biết được rằng con người ta đủ khả năng làm những gì và họ có thể tàn nhẫn đến mức độ nào. Những con người buổi tối có thể sống hoàn toàn bình yên bên cạnh chúng ta, sau khi ban ngày họ đã hành hạ những người khác đến chết. Những con người như bạn và tôi...

Cái nhìn vào địa ngục

Ngày hôm sau cánh cửa phòng giam chúng tôi vẫn đóng kín, song đôi lúc chúng tôi nghe bên ngoài hành lang tiếng cười của những người hành hạ chúng tôi. Hơn một nửa những người bị giam cầm còn đứng thẳng được, số còn lại nằm trên nền nhà, kiệt sức. Mấy người đã tắt thở đêm qua vì kiệt sức và đau đớn.

"Họ phải đưa những người chết này ra ngoài", một người đàn ông bỗng nói khi phát hiện ra điều này. "Chúng ta hãy gọi họ đi!"

"Đừng làm thế!", tôi gào lên. "Nếu chúng ta gọi thì họ sẽ lại tra tấn chúng ta! Hãy để mấy người chết ở lại đây..." Mấy người khác đồng ý với tôi. Nhóm chúng tôi xê dịch một chút, ba người chết được xếp chồng lên nhau ở trong góc.

Thật ghê rợn khi những người chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa lại dùng những xác chết kia làm ghế băng.

Môi chúng tôi khô cứng, chúng tôi cũng chẳng thể đi tiểu được nữa. Đầu chúng tôi trống rỗng. Tôi cố tình nhắm mắt lại, hy vọng là có dòng suy nghĩ nào đó dễ chịu hơn đến với tôi, nhưng mùi đòn tra tấn đọng lại làm tôi ngứa ngáy trong mũi và lại đưa tôi trở về thực tại.

Mãi rồi đêm cũng đổ xuống, mang cho chúng tôi bóng tối và thêm hai người chết nữa. Khi trời mờ sáng, chúng tôi nghe tiếng chân nặng nề bên ngoài hành lang đang đi lại phía chúng tôi. Ngay lập tức Ngọt và tôi đưa chiếc khuy áo xà cừ vào miệng và giấu dưới lưỡi. Tôi có cảm giác rằng ngày hôm nay lại đến lượt chúng tôi. Tôi căm tức là mình đã đoán đúng. Và cánh cửa được mở ra.

"Mày! Mày và mày!", người đàn ông gào lên và chỉ vào người phụ nữ đang mang thai, Ngọt và tôi. Tôi lại được đưa vào căn phòng chỉ có một mình. Da tôi ướt đẫm và tôi tưởng như tôi không còn cảm giác gì trên thân thể mình nữa. Người ta bắt tôi cởi trần và nằm xuống chiếc ghế dài ở giữa căn phòng. Các điện cực được kẹp vào đầu vú tôi.

Tôi không biết rằng thời gian lấy cung đã trôi đi bao lâu. Tôi hoàn toàn tập trung vào việc ngậm chiếc khuy áo vào giữa hai hàm răng để chịu đựng tốt hơn những nỗi đau kinh hồn do điện giật. Có lần tôi cắn mạnh quá làm cho chiếc khuy áo của tôi vỡ đôi. Tôi sặc sụa ho. Khi tôi ngắt cơn ho, người tra tấn bắt tôi đứng dậy. Hắn ta dùng chân đạp mạnh hết sức vào ngón chân cái đang bị thương của tôi. Tôi mong muốn có thể khai được điều gì đó, nhưng tôi chẳng có gì để thú nhận.

"Bao giờ sẽ chấm dứt đây?", tôi tự hỏi. Tôi thực tình muốn chết. Khi linh hồn tôi bỗng rơi vào một cái lỗ đen sâu thẳm, tôi tưởng rằng đã đến lúc mình ra đi. Bóng tối sẽ giải phóng tôi khỏi tội lỗi duy nhất của mình là: vẫn còn đang sống trên đời.

Sức mạnh của ý chí

Mấy giờ sau tôi lại mở mắt ra. Đầu tôi gối trên đùi Ngọt. Người ta đã trả tôi về phòng giam. Không phải là nỗi đau thân thể do bị hành hạ làm cho tôi trào nước mắt mà vì sự xác nhận rằng mình vẫn chưa chết.

Ngọt nhìn vào mặt tôi để tìm một cử động, có thể là một dấu hiệu an ủi cô. Tôi đau đớn và kiệt sức, như tất cả mọi người ở đây.

Tôi cố gắng gượng dậy. Ngọt đã mặc lại chiếc áo chẽn cho tôi. Bao quanh tôi chỉ toàn là những người trống rỗng, kiệt sức. Và bây giờ tôi biết chắc chắn một điều: lần tra tấn sắp tới chắc tôi sẽ phải đầu hàng, chỉ để mà trốn tránh sự đau đớn kinh khủng này! Phải có một điều gì đó xảy ra. Tôi bỗng đi tìm một vật gì đó, một vật gì bằng kim loại hoặc tương tự. Tôi vội vàng sờ nắn khắp người Ngọt và nghe cô kêu toang lên: chúng đã dùng roi đánh bật máu khắp lưng cô.

Tôi tìm thấy trong túi quần tôi một đồng xu. Tôi nghĩ ngay đến bố tôi và việc ông chế tạo những dấu tên nhọn. Không một lời giải thích với Ngọt, tôi bắt đầu mài đồng xu xuống nền nhà trước ánh mắt đầy ngạc nhiên của cô, bởi vì tôi đã lại cảm nhận trong tôi sức mạnh của hy vọng. Tôi chẳng còn gì để mất, chỉ có thể giành giật tất cả!

Tôi mài đồng xu mài cho tới khi nó sắc như một lưỡi dao cạo râu. Sau đó tôi bảo Ngọt đứng tựa vào tường để tôi leo lên vai cô, mặc dù cô còn rất đau. Với lưỡi dao sắc tự tạo, tôi gần như dễ dàng cắt được miếng kính cửa sổ. Khí trời oi ả nhưng dễ chịu ùa vào. Tôi đã có thể nhìn ra tận ngoài đường cái đằng sau bức tường chắn lớn.

Những tù nhân cùng trong phòng tôi cũng cảm nhận được luồng gió. Buổi tối, tôi đứng hằng giờ trên lưng cô và chờ đợi một điều diệu kỳ. Không có gì xảy ra cả. Trời tối đổ xuống quá nhanh, chúng tôi mệt mỏi và lại phải ngồi xuống. Song chúng tôi không thể nhắm mắt được. Tự do trong tầm tay rồi, mặc dù tôi biết rõ là đây sẽ là bản án tử hình đối với chúng tôi, nếu kế hoạch của tôi không thành công.

Khi có con gà trống cất tiếng gáy, tôi lại trèo lên vai Ngọt và chờ cho tới khi thấy bên ngoài có gì đó chuyển động. Thời gian cứ thế trôi đi. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy ở ngoài đường, bên ngoài bức tường chắn, có một tốp lính lê dương đang hành quân. Bằng vốn tiếng Pháp của tôi, tôi cố gắng gào to tưởng vỡ cả lồng ngực: "Hãy thương hại! Thương hại! Cứu giúp! Chúng tôi "con gái" bị giam ở đây! Không ăn! Không uống! Đau nhiều lắm! Cứu giúp! Các anh lính! Giấy tờ ở nhà! Cứu giúp!".

Quả nhiên là những người lính lê dương dừng lại và họ phát hiện ra tôi. Một người lính công kênh một anh khác lên để người này nhìn được qua tường. Người này bắt đầu kêu lên để hỏi tôi. Anh muốn biết có bao nhiêu người bị giam ở chỗ tôi. Tôi trả lời ba mươi, vì tôi không nhớ từ hai mươi là gì.

"Chúng tôi sẽ quay lại ngay!", anh ta kêu lên với tôi, và những người lính rời đi theo hướng mà họ đã tới. Có lẽ giờ đây chỉ tính bằng phút thôi. Liệu người ta có giải thoát cho chúng tôi?

Ngọt nằm run rẩy trong vòng tay tôi. Tôi khẩn thiết cầu khẩn Trời và tất cả Tổ tiên của tôi, những người tôi biết và cả những người tôi không biết...

Không lâu sau chúng tôi nghe giọng đàn ông, những tiếng gọi và tiếng chân đi ngoài hành lang và đang xích lại gần. Tim chúng tôi tưởng chừng như ngừng đập. Ánh mắt của chúng tôi chỉ còn hướng về phía chiếc cửa thép này và có người đang mở nó từ bên ngoài. Chỉ mãi tới khi nghe giọng của một người lính Pháp vang lên một cách sửng sốt "Nom de Dieu!" (Khốn nạn!), chúng tôi mới hiểu được rằng: giờ đây sự cứu giúp chúng tôi mới tới!

Giấy tờ hay là chết!

Rất đông lính lê dương dùng vũ lực ùa vào tòa nhà và chĩa súng vào những người gác và những người tra tấn chúng tôi. Tất cả tù nhân được đưa ra hành lang. Những người quá mỏi mệt lại nằm bệt xuống nền lạnh ngắt, Ngọt và tôi thì đứng thẳng.

Người chỉ huy của tốp lính lê dương, một viên đại úy, là một người cao to lực lưỡng, tóc đen nhánh, cằm cứng rắn. Một người Việt của họ làm công việc dịch.

"Tại sao những người này lại bị giam ở đây?", viện sĩ quan hỏi.

"Họ là những kẻ phản bội, lũ tay sai của Việt Minh", người mặc thường phục đã tra tấn tôi trả lời. Giọng hắn ta nghe hoàn toàn bình thản, tưởng chừng đây là điều đương nhiên. "Còn hai người này?", viên sĩ quan hỏi tiếp, ngón tay chỉ vào Ngọt và tôi.

"Họ không có chứng minh thư. Cũng là tay sai, chắc chắn vậy!", hắn nói, và tôi thấy hắn đã nuốt nước bọt. Tôi có cảm giác hắn đang thấy bất an. Viên đại úy suy nghĩ một lát. "Các cô có giấy tờ không?", ông ta hỏi chúng tôi với giọng bình tĩnh. Rõ ràng chỉ trong trường hợp này rằng ông ta mới có thể biện minh cho sự can thiệp của mình.

Ngọt như bị cấm khẩu, người vẫn chưa hết run.

"Chúng tôi quên giấy tờ ở nhà. Trong túi xách của chúng tôi...", tôi lắp bắp một cách vội vàng.

Ông ta cũng hỏi những tù nhân còn lại xem họ có giấy tờ không, tất cả đều nói là không. Họ lại bị đẩy ngay lập tức vào phòng giam tăm tối một cách không do dự. Không ai nói một câu gì và cũng không ai kháng cự. Những người này đã chấp nhận số phận của họ và cuộc sống của họ chừng như đến đây là kết thúc. Cánh cửa sắt đóng sầm lại sau lưng họ.

"Một người của tôi sẽ mang ngay túi xách của các bà tới đây, thưa các quý bà", viên sĩ quan nói và khẳng định với chúng tôi điều đó.

Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, người mang đồ quay trở lại, mặt nóng bừng, tay cầm cả hai chiếc túi xách.

"Đây, xin mời. Tôi đã thấy giấy tờ", anh ta nói như thở không ra hơi. Mọi "thủ tục" được giải quyết nhanh chóng. Người tra tấn tôi lướt nhìn qua chứng minh thư của chúng tôi và lẩm bẩm: "Đây là một sự nhầm lẫn...". Hắn nói câu đó mà không hề có lời xin lỗi và cũng không dám ngẩng mặt lên nhìn chúng tôi. Nhưng mà chúng tôi đã được tự do!

Viên đại úy nhất thiết muốn dùng xe Jeep của ông đưa chúng tôi về nhà. Chúng tôi thật nhẹ nhõm nhìn thấy căn nhà của mình.

Món nợ

Chúng tôi chân thành cảm tạ những người đàn ông. Viên sĩ quan đưa tôi đến tận cửa và chờ cho tới khi Ngọt vào nhà để xòe bàn tay rộng bè nắm lấy vai tôi. Tay kia ông ta nâng nhẹ cằm tôi lên: "Tôi đã cưu mang cô, cô bé của tôi. Cô nợ tôi đấy nhé..." Với cảm giác chiếm đoạt, ông dùng tay vuốt lên mái tóc còn hôi rình và dính dấp của tôi.

"Vâng, tôi xin cảm tạ ông, từ trái tim mình, thưa ông", tôi trả lời một cách luống cuống và cúi mình.

"Tối hôm nay tôi sẽ qua đây. Nếu một trong hai cô chờ tôi ở đây thì tốt. Cô hiểu chứ?", ông ta nói tiếp. Tôi gật đầu mà không trả lời ông ta, và ông ta để tôi đi. Tôi đóng nhanh cánh cửa phía sau lưng mình.

"Em không thể tin được, Loan! Chúng ta được tự do rồi! Chị đã thắng lợi", Ngọt nói và nhảy cẫng lên vì vui sướng. "Nhưng mà chị làm sao thế? Chị làm sao?" Cô hỏi tôi khi thấy tôi đứng đó, vô cảm, mặt tái nhợt.

"Tối nay em phải để chị ở một mình," tôi nói và cố gắng để giọng nói của tôi nghe bình thường như có thể. "Hôm nay em ngủ ở quán. Em hiểu không? Chị xin em, hãy nghe lời chị!", tôi kết thúc câu nói một cách khắt khe và đổ mình xuống giường, mắt nhắm nghiền, tuyệt vọng. Cơn ác mộng thế là vẫn chưa chấm dứt.

Ngọt không nói gì, không hỏi gì. Cô đi tắm và thay quần áo sạch. Cô nhẹ nhàng ra khỏi nhà và còn dừng lại trước cửa, ánh mắt đầy thất vọng và thắc mắc liệu mình có làm điều gì sai không. Tôi khổ sở gượng cười: "Chỉ đêm nay thôi, Ngọt. Ngày mai rồi mọi việc sẽ tốt hơn". Cửa đóng lại. Tôi không khóc nổi. Tôi là người đã sợ hãi trước khi bị tra tấn! Ý đồ cắt kính cửa sổ là của tôi! Và ai đã kêu cứu? Và như vậy tôi đã mắc nợ người đàn ông đó. Và như thường lệ trong đời, có nợ thì phải trả!

Ngọt là cô gái còn trinh, tôi biết điều đó, ngược lại tôi là người phụ nữ đã mất danh giá. Tôi chuẩn bị để trả món nợ của mình bằng đồng tiền có giá trị duy nhất trong giờ phút này, bằng tấm thân của tôi. Tôi tắm rửa một cách từ từ và thận trọng, hàng tiếng đồng hồ và lưu tâm tới bàn chân đau đớn của tôi giờ đã được băng bó sơ sơ. Tôi vẩy một chút hương hoa hồng lên làn da mịn màng và mái tóc đã được chải kỹ của tôi. Tôi mặc một chiếc áo dài nhung the màu đỏ sẫm, hy vọng sẽ làm hài lòng người đàn ông đã cứu mạng sống chúng tôi.

Rồi tôi cũng chuẩn bị xong và chờ đợi. Nhịp tim tôi đập hòa với tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ báo thức lớn để trên chiếc bàn con bên giường ngủ. Khi một bàn tay đàn ông rộng bè mở cửa ra thì tim tôi tưởng chừng như ngừng đập.

Chỉ có bóng đêm làm chứng cho sự khuất phục của tôi. Tôi buộc phải tỏ ra hạnh phúc khi ông ta đè lên người tôi, và trong suy nghĩ rằng mình làm vậy để cứu danh dự của người bạn gái thân nhất.

Ông ta dậy trước khi trời mờ sáng. Tôi không động đậy và làm như vẫn ngủ để không kích thích thêm sự đòi hỏi ở ông ta. Ngay cả khi ông vuốt tóc tôi cũng vậy. Cửa đóng lại. Nó đã để lại cho tôi kỷ niệm với một người đàn ông, một kỷ niệm không hận thù, một dấu vết, tôi biết điều đó, chẳng mấy chốc sẽ thành hình hài trong bụng tôi.

Chúc may mắn!

Mặc dù Ngọt mường tượng được điều gì đã xảy ra, nhưng cô không hỏi và tôi cũng biết ơn cô về việc đó. Bản thân tôi cũng ngạc nhiên vì tôi vẫn còn đủ nghị lực để sống. Biết bao lần tôi đã tuyệt vọng khi để cho những sự kiện trong dòng đời của mình chạy ngược lại trong ký ức. Chỉ một trong hàng ngàn sự kiện đó thôi cũng đủ làm cho tôi có thể kết thúc cuộc đời này. Nhưng vào những thời điểm đó tôi thường có đủ lý do để không làm điều đấy. Chẳng là có lần ông Hương đã nói với tôi: "Cả con cũng sẽ còn nhiều lần bị vấp ngã, nhưng mà ông tin chắc rằng con sẽ luôn đứng dậy và đi tiếp". Chẳng là cô Bè hồi đó có nói với tôi rằng tôi cần phải sống tiếp để còn kể những chuyện đã trải qua? Tôi đã nhận thức được rằng đúng vào những thời điểm cần thiết thì luôn có những người thích hợp được đưa đến với tôi để chế ngự số phận của mình. Như vậy tôi thật sự không thể dừng tin vào điều tốt trong cuộc sống. Điều đó an ủi trái tim bị dằn vặt của tôi.

Có những tốp phụ nữ từ vùng châu thổ trên đường đến Hà Nội thường dừng chân tại Gia Lâm để cung cấp hàng hóa cho dân và các cửa hàng. Họ đi chân đất, lang thang nhiều ngày ở đây, chiếc nón quê che những mái tóc dài đen bóng rũ trên chiếc áo nâu sòng, ở cạp quần đen họ đeo một chiếc thắt lưng bao bằng vải màu xanh nhạt. Hai chiếc thúng chứa đầy hoa quả và rau ở hai đầu đòn gánh nhún nhẩy theo nhịp chân đều đặn và êm như ru của họ. Tôi đã chấp nhận mang trong mình một đứa con và việc bắt đầu mang thai làm da tôi căng bóng, sắc đẹp thêm mặn mà. Việc kinh doanh của chúng tôi cũng rất trôi chảy.

Rồi điều gì phải đến cũng đã đến. Ngọt yêu một anh lính Pháp trẻ. Anh ta cũng tỏ ra rất yêu cô. Cả hai đều coi nhau là thần tượng. Họ nhanh chóng đính hôn. Tôi mừng vô cùng vì thấy cô hạnh phúc. Hy vọng rằng người đàn ông này sẽ chăm sóc tốt cho cô như tôi đã làm từ trước tới nay! Trong thâm tâm tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì Ngọt đã có một người bảo vệ cô; một chút sức lực còn lại tôi sẽ dành cho đứa con tôi, như vậy sẽ tốt hơn.

Một chiều Ngọt thông báo cho tôi với đôi mắt ngời sáng, hai người họ sẽ vào miền Nam. Khi chia tay Ngọt khóc vì cả hai chúng tôi. Cô đã quyết định đi theo tiếng gọi tình yêu lớn của mình, và tôi có thể hiểu rất rõ điều đó. Không biết rằng có dịp nào đó chúng tôi lại được gặp nhau hay không. Cô rời đi trên thùng một chiếc xe quân sự, trong vòng tay của người mình yêu nhất. Tôi giơ tay vẫy theo họ, mặc dù bụi từ lớp xe đã lắng xuống nhưng tôi vẫn còn đứng đó khá lâu. Tôi hy vọng không bị ngã quỵ dưới gánh nặng của nỗi buồn. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cô.

Thế lực của đồng tiền

Sau đó không lâu, tôi thuê một căn nhà nhỏ, ấm cúng, xây bằng gạch kiên cố và có mái tôn, vẫn không xa bãi lầy và đường xe lửa. Một túp lều nhỏ sát đó cũng được tôi thuê cho những cô giúp việc của tôi. Nỗi nhớ nhung những người bạn gái dày vò tôi mỗi lần tôi một mình từ chỗ làm trở về nhà. Chúng tôi đã cùng nhau chịu đựng va nếm trải nhiều, vậy mà giờ đây tất cả họ đã biến mất khỏi cuộc đời tôi, và tôi thấy thiếu vắng họ. So với những tình bạn của tôi, thành đạt trong kinh doanh không có ý nghĩa gì nhiều, đó chỉ là một sự thoả mãn.

Tiền chỉ là phương tiện để đạt mục đích, ngược lại tình bạn là một điều gì đó quý giá, một món quà do Trời phú. Nhận thức này dần dần thế chỗ cho nỗi u ám của tôi bằng lòng biết ơn và hạnh phúc và giúp tôi có được can đảm mới. Can đảm để tiếp tục sống, can đảm vì đứa con mà tôi cảm nhận được nó đang đập mạnh trong bụng mình.

Vào thời điểm này có năm cô gái làm việc ở chỗ tôi, trong đó có một cô hai mươi tuổi, góa bụa, vô sinh. Cô tên là Nguyễn Thị Cúc và chẳng bao lâu cô đã trở thành bạn gái của tôi.

Một hôm tôi bất ngờ gặp trên đường phố ở Gia Lâm người phụ nữ đã cho cô tôi và tôi thuê nhà ở Hà Nội hồi đó. Hiền có hai đứa con nhỏ. Em gái trẻ và xinh đẹp của Hiền đi cùng với chị. Người chồng Việt Nam của chị là lính dù trong quân đội Pháp và mới bị bắt gần đây. Chỉ hôm sau, chị đã mất hết tất cả và phải ngồi ăn xin trên đường phố. Tôi thuê cho chị một túp lều nhỏ cách chỗ tôi không xa và lo cho chị hàng tuần lễ.

Vào một buổi sáng, tôi nhìn thấy chị cùng với em gái rời đi trong một chiếc xe xích lô. Tôi cũng không suy nghĩ gì về chuyện đó, nhưng tôi bỗng có cảm giác kỳ lạ khi thấy chị quay về một mình.

Trước khi đi làm, tôi ghé qua chỗ chị. Chị mở cửa cho tôi và khi hỏi em gái chị đâu thì chị không cầm được nước mắt.

Chị không trả lời, chỉ lắc đầu, hai bàn tay tự đập vào mặt. Tôi hiểu được việc gì đã xảy ra. "Chị đã bán nó! Hãy nói cho tôi bán cho ai và ở đâu! Ngay lập tức!", tôi ra lệnh cho chị.

Giờ đây chị bắt đầu kể, với điệu bộ vô cùng xấu hổ. Chị đã bán em gái mình cho một nhà chứa lấy 3.000 đồng. Chị không dám nhờ tôi tìm việc làm vì tôi đã làm quá nhiều điều cho chị. Tôi để chị đứng đó với mấy đứa con đang khóc lóc, tôi cầm số tiền chị vừa nhận được, lấy thêm tiền từ trong chiếc rương nhà tôi và leo lên một chiếc xích lô để chuộc cô gái trở về trước khi mọi việc quá muộn.

Tôi đã trả 3.500 đồng để chuộc cô gái về. Cô ta chưa bị làm sao. Cô gái quỳ xuống đất và hôn chân tôi. Khi về tới nhà, họ hứa với tôi sẽ kiếm tiền bằng cách khác. Họ cũng đã kiếm được việc làm lương thiện. Một bà già láng giềng lo trông hai đứa trẻ vào ban ngày.

Thời đó thật quá đơn giản dùng tiền để định đoạt số mạng của con người.

Vị khách ngồi trong góc

Dần dần ngày tôi càng phục hồi về tinh thần và bằng khoản tiền kiếm được, tôi mua cho mình quần áo đẹp và nhiều đồ trang sức mà tùy hứng lúc nào tôi cũng có thể đổi được lấy đồ mới tại tiệm kim hoàn. Ở đây có vô số những đồ quý giá mà những người di tản để lại với giá bèo bọt.

Đấy là tháng Tư 1954. Ngày càng có nhiều lính Pháp đến chỗ chúng tôi, nhiều người dự kiến sẽ được điều đến chỗ pháo đài Điện Biên Phủ.

Từ một tuần lễ nay, cứ tối nào cũng vậy, có một người lính trẻ luôn ngồi ở đúng cái góc quen thuộc trong quán bar của tôi và nhìn tôi chằm chằm. Anh ta lúc nào cũng trầm ngâm và trông có vẻ hoang mang. Trái ngược với những chiến hữu to mồm không lúc nào bỏ lỡ cơ hội để khoe khoang họ lại chinh phục được một cô gái, anh ta im lặng, bối rối một cách rõ rệt. Ánh mắt của anh ta gần như xin lỗi về thái độ của những người kia.

Nhân viên của tôi thường cười anh ta vì anh ta nhút nhát và họ nói: "Bây giờ họ đưa đến cho chúng ta cả trẻ con vừa mới ra khỏi nôi nữa!". Liệu anh ta bao nhiêu tuổi? Mười tám, có thể là mười chín? Anh ta không hút thuốc. Anh cũng không uống rượu và ngồi nhâm nhi chai nước ngọt duy nhất trong cả buổi tối. Cứ nửa giờ đồng hồ anh mới uống một ngụm, cả một buổi tối dài như vậy.

Tôi cảm nhận được cặp mắt sáng của anh dõi theo từng cử chỉ của tôi, nhưng mỗi lần tôi nhìn anh thì anh lập tức nhìn xuống đất. Mặt anh đỏ rực và nhờ đó che lấp được trong khoảnh khắc vô số tàn hương trên mặt anh.

Một buổi tối, tôi chuẩn bị cho mình một nụ cười đẹp nhất và đi đến chỗ anh. Tôi nói to: "Này, anh lính, nếu đồ anh đặt chỉ có thế này thì chắc chẳng bao lâu nữa tôi sập tiệm mất!" Tôi vừa nói vừa chỉ vào cái cốc còn một nửa của anh. "Xin lỗi bà, nhưng mà tôi không có nhiều tiền. Ở chỗ bà đây tôi có thể quên cái doanh trại đi một chút, bà có biết không." Anh cúi đầu xuống với vẻ hoàn toàn bối rối và nhỏ nhẹ nói thêm khi tôi đang định đi: "... và bà là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng gặp! Chỉ nhìn bà thôi tôi đã thấy hạnh phúc!".

Tôi sững sờ. Đó là điều tôi không hề mong đợi. "Nhưng anh ta can đảm đấy", tôi nghĩ. Anh đã quên đi trong một giây cái nhút nhát của anh thường làm anh đỏ bừng mặt lên để dành cho tôi lời khen đó. Tôi cười vui vẻ với anh. Mặc dù tôi thực sự đã nhiều lần được nghe những lời khen, nhưng lời khen của anh làm tôi thoáng xúc động. Đó là những lời, như tôi cảm nhận được, đến từ trái tim.

Trước khi vào bếp tôi bảo với Nguyên đang phục vụ khách: Nguyên, mang cho ông khách ở góc đằng kia một cốc nước ngọt mới nhe, của quán mời!".

Marcel

Hơi lạ là mỗi buổi tối tôi bắt đầu chờ người lính này. Anh ta tên Marcel và là hạ sĩ. Ở tuổi mười tám anh sang Việt Nam vào tháng Mười một năm ngoái, vào lúc hầu như chưa biết điều gì đã xảy ra ở đây.

Marcel kể cho tôi nghe về cuộc đời của anh và việc anh đã mất đi người bố vào năm anh chín tuổi. Năm mười tuổi, anh được mẹ đưa vào một ký túc xá quân đội với tư cách là trẻ mồ côi do chiến tranh. Anh ở đó nhiều năm và rất ít khi được về nhà. Cuộc đời đã chỉ cho anh thấy, có một gia đình nhiều khi còn khó hơn là không có gia đình. Tôi quá hiểu điều đó ở anh!

Tôi cảm thấy thương hại anh. Anh cũng là trẻ mồ côi, giống như tôi, cho tới nay chưa tìm được hạnh phúc ở trên đời này. Về ý nghĩa của cuộc chiến tranh anh hiểu quá ít, cũng như tôi. Những con người ở đây, như anh ta nói, đều đối xử tốt với anh từ khi anh đặt chân tới đây.

Sau một vài tuần, anh hỏi tôi một cách bối rối và rất thận trọng rằng tôi đã có nơi có chốn nào chưa. Lúc này tôi quyết định cho anh một câu trả lời thành thật: "Tôi đã có mang ba tháng với một người đàn ông mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Và tôi sống một mình".

"Nếu như vậy và nếu cô muốn, tôi muốn được trở thành bạn của cô", anh trả lời tôi, vừa buồn bã, vừa đầy hy vọng.

Tôi nhận lời. Chúng tôi trở thành bạn và sau đó thành một đôi mà không hề hứa hẹn gì với nhau và cũng không một lần nói với nhau hai chữ tình yêu. Vào thời điểm này đơn giản là tôi thích anh và như vậy đối với anh là đủ. Ngoài ra không ai trong chúng tôi biết rằng ngày tiếp theo sẽ mang lại điều gì. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó anh sẽ rời bỏ tôi.

Trời mưa tầm tã mấy ngày, đường xá trong thành phố có những chỗ bị ngập. Chúng tôi phải chờ cho tới khi nước rút, cho tới khi đường xá lại khô dần và anh mãi mới có được những giờ nghỉ. Chúng tôi muốn cùng nhau đi xích lô sang bên Hà Nội. Ở bên đó anh chỉ biết mỗi doanh trại và bệnh viện Lannessan (Nhà thương Đồn Thủy), nơi anh thường xuyên hiến máu. Cho tôi lúc ấy, tôi chỉ cho anh xem chiếc hồ nhỏ xinh đẹp, những tòa biệt thự với những đại lộ đầy bóng cây tiêu huyền râm mát, dẫn về hướng Bạch Mai. Về phần anh, anh cũng kể cho tôi nghe về Tháp Eiffel ở Paris và về thành phố Tours quê hương của anh, nơi mà người ta, như anh kể, cũng trồng những cây tiêu huyền bên hè phố.

Ở bên nhau chúng tôi quên đi mối đe dọa của cuộc chiến tranh không cho phép chúng tôi nghĩ đến ngày mai.

Cuộc sống ngày qua ngày

Mỗi một lần Nguyên lại hỏi tôi cũng như bao nhiêu người quen khác: "Sao chị lại chọn người đàn ông này? Da anh ấy đầy tàn hương, anh ấy không có tiền và lại bệnh tật nữa. Và anh ấy chưa hỏi chị lấy một lần là chị có muốn sang Pháp cùng với anh ấy hay không".

Vâng, họ có lý. Mặt và lưng của Marcel đầy tàn hương, nhưng mà tôi lại thấy điều đó đầy bí ẩn, cũng vì ông tôi hồi xưa cũng đã khẳng định rằng tàn hương là những đồng xu vàng chảy ra và mang lại hạnh phúc.

Về tiền mà nói thì chắc chắn tôi sung túc hơn anh ta, nhưng tôi không nghĩ đến tiền. Và cũng đúng là anh có bệnh. Cô giúp việc của tôi đã kể cho tôi nghe, có một hôm cô ta đổ bô thấy anh chảy máu và phân có giun. Nhưng cái đó cũng chẳng phải là điều gì lớn lao cả. Tôi nhớ tới những cây thuốc của ông tôi và nhanh chóng mua chúng ở chợ. Tôi nấu lên và cho anh uống thứ thuốc tôi pha chế - và anh đã nhanh chóng khỏe lại. Tại sao anh ta lại phải đưa tôi sang Pháp, nếu chính bản thân anh chưa biết rằng ngày mai mình sẽ ở đâu và cũng chưa thể chắc chắn rằng liệu mình có còn sống sót qua cuộc chiến tranh này không? Ngoài ra tôi cũng chẳng muốn đi khỏi chốn này.

Và mỗi một lần tôi trả lời họ vẫn một câu giống nhau: "Có lẽ trong đời này tôi phải làm một chút gì tốt đẹp cho một người nào đó chăng? Tôi chỉ muốn chăm lo cho anh ta." Họ lắc đầu và để cho tôi yên.

Quan hệ của chúng tôi diễn ra hầu như trôi chảy. Mỗi khi có điều kiện, Marcel chờ tôi ở quán bar đến khi tôi được nghỉ. Anh để cho tôi chăm sóc anh và nấu cho anh ăn. Tôi rất cảm động về việc có hôm anh bảo đưa tôi toàn bộ lương của anh, coi như là một khoảng bù đắp lại. Đương nhiên là mãi về sau tôi mới chấp nhận lời gợi ý đó.

Trong mối quan hệ của chúng tôi luôn có những tình huống khôi hài do phong tục và ngôn ngữ khác biệt. Có một hôm, khi chúng tôi mới bắt đầu quan hệ với nhau, anh ấy giận dỗi về việc tôi nuôi một con gấu trong nhà và ở một số quầy người ta chào bán thịt chó bôi phẩm đỏ. "Các người ở đây là quân mọi rợ! Các người ăn cả thịt chó!" Tôi không nói gì về điều đó. Riêng về con gấu thì một hôm tôi quyết định làm một việc thiện đặc biệt đối với nó, tôi cho nó uống một chầu lớn rượu vang đỏ. Không ngờ mắt nó đỏ lên. Con thú thường ngày hiền dịu giờ đây hoàn toàn hoảng loạn, nó nhanh nhẹn giơ hai chân trước, giương móng ra định vồ tôi. Khi tôi nhảy lùi lại, nó bèn trèo lên cây, leo cao tới mức căng hết xích, nó gào lên với tôi vẻ cực kỳ hung dữ. Khi con thú đã tỉnh cơn say, tôi bảo một người lính lê dương vốn muốn có con gấu đó mang nó đi.

Một vài tuần trôi qua, vào một buổi tối anh bạn tôi trở về trong tình trạng bụng đói, tôi mời anh ta ăn hai miếng thịt rán rất ngon, đương nhiên là anh đã chén sạch. Khi tôi hỏi anh ấy ăn có ngon không thì anh ấy gật đầu hài lòng. Rồi tôi nói với anh: "Thịt chó cũng ngon đấy chứ nhỉ! Bây giờ anh cũng là quân mọi rợ rồi đấy!"

Tôi để anh ngồi đó và cười to đi vào bếp. Mãi về sau tôi vẫn còn thú vị về vẻ mặt anh lúc đấy.

Một lần khác, trong căn nhà của tôi, tôi chỉ về hướng chiếc tủ con bên giường ngủ và nói với giọng nghiêm nghị: "Anh thấy không? Đấy! Nó chết rồi!" Anh bàng hoàng nhìn tôi và hỏi với giọng đầy lo lắng: "Đã xảy ra cái gì? Ai chết?" Đến khi biết được rằng tôi ám chỉ cái quạt cây thì anh bắt đầu cười.

Anh sửa cái quạt và tôi thấy rằng anh rất khéo tay. Tôi khen anh và kể điều đó với tất cả những người mình quen, từ đó anh nhanh chóng có tiếng là một người hùng sửa chữa đồ đạc ở chỗ chúng tôi. Rõ ràng là anh thích được khen và quên đi cảm giác bị coi thường, điều mà người ta đã luôn nhồi nhét vào đầu anh thời niên thiếu. Bằng cách đó chúng tôi đã hỗ trợ lẫn nhau: anh sửa chữa những đồ vật hỏng hóc, còn tôi thì dạy cho anh không cần sợ hãi trong cuộc đời, biết từ chối và sống với con người thực của mình.

Đêm đêm, thỉnh thoảng Marcel bí mật trốn khỏi doanh trại đề về với tôi mấy tiếng. Anh đã phải quen với việc chăng màn chống muỗi và ngủ trên một chiếc phản gỗ cứng. Anh cũng không cảm thấy phiền toái nữa khi thấy mấy cái lỗ dùi bằng kim ở tấm giấy bồi tường ngày càng to ra để người ta có thể quan sát chúng tôi rõ hơn khi làm tình hoặc cô giúp việc đột nhiên kiếm cớ mang nước sạch vào cho chúng tôi. Ngay cả tiếng loa phóng thanh thông báo về máy bay bay trên bầu trời Gia Lâm, về việc tìm và tuyển dụng lính mới hoặc về những khẩu hiệu chống cộng sản, trước khi nhạc quân sự nổi lên cũng không cản trở chúng tôi trong khi tiến hành những sự vụ quen thuộc của mình.

Có một lần có một chiếc trong số máy bay này lượn một giờ trên bầu trời vì, như tôi nghe được sau này, có một chiếc dù có bốn quả bom mắc vào chốt của bánh sau. Sau nhiều thủ thuật phức tạp, viên phi công đã tháo gỡ được chiếc dù cùng với những quả bom mà không để lại hậu quả gì nghiêm trọng.

Không phải tất cả những chuyến bay kiểu đó đều diễn ra trôi chảy. Có một đêm có một chiếc máy bay tiếp tế rồi vỡ tan tành chỉ cách nhà của tôi vài trăm mét. Viên phi công đã nhầm hệ thống đèn của cầu Paul-Doumer (Cầu Long Biên) với đèn của đường băng.

Vì Marcel vẫn tiếp tục đến thăm tôi mà không được phép, có một lần anh bị phát hiện và bị tạm giam tám ngày. Tuy vậy tôi có quen một người lái xe thường đến quán bar của chúng tôi. Tôi nhờ người này, đương nhiên là phải đãi anh ta một vài chén để hàng ngày anh ta mang đồ ăn ngon vào cho bạn trai của tôi, những món ăn ngon miệng hơn nhiều so với đồ ăn căng tin của doanh trại.

Tôi muốn để mỗi ngày qua đi đều là một ngày đáng sống đối với anh.

Thư gửi cho tôi

Marcel không phải là người nói suông. Đương nhiên tôi nhận biết những đức tính tốt trong anh và anh thể hiện chúng bằng hành động. Quan hệ của tôi với anh càng gắn bó, khi một hôm anh chủ động tuyên bố rằng anh sẽ để đứa trẻ trong bụng tôi mang tên anh để cho nó có một gia đình. Anh muốn nhận nó làm con nuôi và sẽ lo mọi thủ tục.

Chắc chắn là anh đã thông báo ý định này qua thư viết cho mẹ anh ở Pháp. Thư trả lời đến ngay tức thì. Anh chán nản cho tôi xem bức thư của bà, anh đọc chậm chậm và dịch cho tôi. Tôi nhớ một vài câu: "Ý tưởng gì mà điên rồ thế, nhận một đứa con không phải là của mày, một đứa con hoang làm con nuôi! Con trai yêu quý nhất của mẹ ơi, hãy hiểu rằng người đàn bà đó chắc chắn là một con điếm, cũng như nhiều kẻ khác! Tất nhiên là mẹ hiểu con chỉ vui vẻ với cô ta, nhưng mà hãy quên đi! Con còn quá trẻ và còn có cả cuộc đời ở phía trước."

Mặc dù tôi hoàn toàn không thể hiểu được tại sao người ta lại có thể lên án một người không quen biết theo cái cách như vậy nhưng tôi vẫn im lặng. Dường như ở Pháp cũng chẳng khác gì ở chỗ chúng tôi: ở đó người ta cũng có quyền tự do lựa chọn quyết định của mình. Mặc dầu vậy người ta cũng nên kính trọng người cao tuổi cho dù không nhất thiết phải nghe lời, bởi dù sao thì người đàn bà đó cũng đã ban tặng cho anh cuộc sống. Không có bà thì làm sao có anh bây giờ. Tôi an ủi anh như vậy.

Chỉ một vài ngày sau, một lá thư từ Pháp gửi tôi, nhưng lần này là gửi cho tôi. Tôi rất ngạc nhiên nhận được thư từ nước ngoài, tôi mở ra và nhờ Marcel đọc cho tôi nghe. Tôi không thể tin được những điều mà anh đọc cho tôi với giọng nhát gừng.

Người viết thư này là viên sĩ quan, bố của đứa con tôi! Ông ta xin lỗi vì đã không cho tôi biết tin tức gì về ông. Hiện tại ông đang nghĩ phép trước khi được điều sang An-giê-ri. Bởi vì ông nghĩ rằng tôi đang bụng mang dạ chửa nên ông muốn nhận là bố đứa trẻ và muốn cưới tôi.

Tôi rất bàng hoàng, cả anh bạn tôi cũng vậy. Giờ đây bỗng có hai người đàn ông trong cuộc đời tôi, cả hai đều sẵn sàng để con tôi mang tên của họ. Tôi cân nhắc một lát rồi quyết định theo cảm xúc của mình và vào bếp lấy giấy bút.

Với ánh mắt buồn thiu, anh bạn của tôi bắt đầu ngồi viết những gì tôi đọc cho anh. Tôi cám ơn người đàn ông về gợi ý của ông và thông báo với ông rằng giờ đây tôi đang xây dựng cuộc sống với một người khác, người đó cũng tuyên bố sẵn sàng nhận con tôi làm con nuôi. Có lẽ sẽ tốt hơn cho ông ta, nếu ông ta quên hẳn tôi đi.

Marcel ôm chặt lấy tôi và nói: "Cám ơn em!" Lá thư được gửi đi. Sau đó tôi không nhận được thư trả lời nào nữa.

Trong vòng xoáy của chiến tranh

Thất bại thảm hại của người Pháp ở Điện Biên Phủ tháng Năm 1954 có nghĩa là Pháp trước hết phải rút hết quân đội ở miền Bắc và tiếp sau đó là ở cả nước. Một đường ranh giới tạm thời giờ đây sẽ chia cắt Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Việc đình chiến kéo dài hàng tháng trời, trong khi tại Giơ-ne-vơ diễn ra các cuộc đàm phán về khả năng hòa bình.

Đương nhiên không khí bình yên chỉ là giả tạo. Mặc dù nhiều người, như tôi, sống trong ảo tưởng là hòa bình sẽ được lập lại, bởi vì người ta không bắn nhau nữa, nhưng hàng ngàn người mất hết gốc rễ lại chạy trốn. Họ chạy bằng máy bay, bằng tàu hỏa và tàu thủy, thậm chí chạy bộ vào miền Nam, nơi một người mang tên Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm thủ tướng.

Đặc biệt ở phố phường Hà Nội người ta cảm thấy một bầu không khí đe dọa âm ỉ. Người ta dùng hàng rào thép gai rào quanh những tòa nhà công cộng lớn và nhiều tòa nhà biệt thự được bảo quản chu đáo giờ bị bỏ không. Cả núi đồ gỗ choáng lộn, những bộ xa-lông khảm ngọc trai chất ở ven đường chờ người mua.

Vào một ngày tháng Tám, những người lính Pháp đóng quân ở Gia Lâm, trong đó có Marcel, nhận được lệnh chuyển những chi tiết cầu về phía đông và tháo dỡ nhà kho tại căn cứ đóng quân này của họ để lắp ráp tại Cát Bi và Đồ Sơn, hai địa điểm gần Hải Phòng. Giờ đây bạn tôi đã ra đi mà không thể báo cho tôi biết chính xác anh ở đâu, còn tôi thì ở lại.

Vào một buổi tối, khi ý định đi tìm anh đang lởn vởn trong đầu tôi, tôi thấy một người ngồi ở thềm nhà tôi. Tôi giật mình vì tôi đã nhận ra ngay lập tức người ngồi đó là ai: Hùng!

Anh ta đã tìm thấy tôi! Tôi lờ anh đi và khi anh bắt đầu xin lỗi tôi, tôi cũng chẳng thèm nhìn anh và định đi qua. Anh ta quay lại, qùy khóc dưới chân tôi, túm lấy tà áo dài của tôi và van xin tôi đón nhận lại anh.

Tôi gạt gót xăng đan vào mặt anh ta một cách khinh bỉ và bước qua người anh để vào trong căn lều. Tim tôi đập mạnh vì hồi hộp, nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ cảm thấy giận dữ.

Tôi còn nghe tiếng rên rỉ của anh hàng phút nữa, cho tới khi anh rời đi và biến khỏi cuộc đời tôi, lần này vĩnh viễn. Sự xuất hiện bất ngờ của anh ta khiến tôi phải nhanh chóng đi tìm Marcel.

Câu chuyện ở sau bức vách

Phần lớn nhân viên của tôi quyết định ở lại, trong khi Nguyên và tôi muốn lên đường đi về hướng Hải Phòng, lần này đem theo một số đồ gỗ, tiền và đồ trang sức.

Thật bột phát và đơn giản, chúng tôi vừa cười vừa vẫy một chiếc xe tải quân đội chở vật liệu vẫn còn chỗ trống trên thùng xe.

Người lái xe vui vẻ cười đáp lại và dừng xe. Tôi hỏi người lái xe và những người lính xếp đồ lên xe cho tôi và đi cùng xem họ có quen một hạ sĩ quan có tên là Marcel không, và họ đều trả lời là không.

Đến nơi giáp giới với Hải Phòng chúng tôi xin người tài xế cho xuống xe gần một cây cầu mà tôi biết. Tôi lại liều lĩnh mỉm cười và nhờ họ dỡ đồ xuống và xếp ngay ngắn cho tôi. Họ cũng làm việc đó! Trước khi họ đi tiếp, tôi chân thành cám ơn họ và dặn họ nhớ tới tôi nếu họ tình cờ gặp anh bạn trai như đã kể của tôi.

Thời gian trôi đi không lâu, Nguyên và tôi đang ngồi trên đống đồ gỗ và tính toán xem giờ đây sẽ tiếp tục như thế nào đây, bỗng nhiên chúng tôi thấy chiếc xe tải vừa đưa chúng tôi tới đây chạy lại gần, ngồi sau vô lăng vẫn là người lái xe đó, bên cạnh là Marcel, anh vẫy tôi với nét mặt sáng ngời. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Ngay lập tức, anh kể cho tôi nghe về cái điều không tưởng đã xảy ra. Tại căn cứ Cát Bi, cách một cái chùa không xa, anh đang cùng với một số người lính khác dựng một tấm vách ngăn cao và dài thì chiếc xe tải đó đến. Những người trong xe tỏa đi các nơi, và người lái xe nói chuyện với một người đàn ông khác ở phía bên kia bức vách trong khi anh ta đang dỡ đồ từ trên xe xuống. Marcel tình cờ nghe được câu chuyện. Anh lái xe kể cho người đàn ông rằng anh chưa hề gặp một mụ đàn bà nào nhỏ bé và xấc xược như vậy, cô ta dám hỏi anh và những người đàn ông khác xem họ có dỡ toàn bộ đồ của cô và bạn gái của cô từ trên xe xuống được không rồi lại còn xếp ngay ngắn như cô mong muốn nữa! Nhưng cô ả là một người xinh đẹp, đúng là xinh thật! Và cô đang đi tìm người yêu của mình tên là Marcel. Khi nghe thấy tên mình, anh bạn tôi giật mình và, vẫn còn đứng sau bức vách, hỏi thật to, người phụ nữ đó trong như thế nào, có phải là cô ta rất bé nhỏ và lại đang có bầu nữa không.

Và giờ đây anh đã đến và đang đứng trước mặt tôi!

Tưởng như hòa bình lập lại...!

Bạn trai tôi giờ đây chạy qua chạy lại giữa Gia Lâm, Cát Bi và Đồ Sơn trong khi những tốp lính Pháp cuối cùng dần dần rút khỏi miền Bắc. Nguyên và tôi dọn về ở hai căn hộ kề sát nhau ở ven Hải Phòng. Đồng thời tôi mở ngay gần đó hai quán nhậu, một chiếc tôi đặt tên là "Chez Jacquie", hai quán nằm đối diện và rất tiện đường cho những người lính.

Khi tôi kể cho Marcel nghe về việc lại mở nhà hàng, anh nói rằng tôi điên. Đáng lý ra, như hàng trăm người Việt Nam khác, tôi phải chuẩn bị để di cư vào Nam, đến cái nơi mà chắc chắn là anh sắp được điều đến đó, trước khi quá muộn. Tôi đã không nghe lời anh. Cuối cùng thì anh có quyền gì mà quyết định về bản thân tôi. Anh không biết gì cả, tôi nghĩ như vậy. Tôi tin tưởng chắc chắn về hòa bình. Thời gian sẽ chứng minh rằng tôi có lý! Nửa cuối năm 1954 chúng tôi vẫn sống cùng với nhau, mặc dù bất đồng quan điểm.

Sau hai ngày dài đau đẻ với những cơn đau kinh người và tôi khi đó luôn gọi tên Marcel một cách tuyệt vọng, cuối cùng thì ngày Mồng Ba tháng Mười 1954, đứa con của tôi cũng chào đời trong căn nhà của Nguyên. Trong giờ phút khó khăn này Nguyên luôn ở bên tôi. Tôi sinh ra một cậu con trai, nặng hơn 4 kg làm tôi rách cả chỗ kín. Tôi rất yếu vì mất nhiều máu, phải nằm liệt giường hơn hai tuần lễ và lúc đầu tôi không có sữa cho con bú, điều đó làm tôi thấy rất bất hạnh.

Sân bay Gia Lâm, nơi cha của tác giả từng đóng quân một thời gian.

Marcel mặc thường phục đến thăm tôi, và đứa trẻ. Khi thấy rằng tôi không thể cho con bú, anh đi vào phố để kiếm sữa cho đứa bé. Chuyện đó không phải là không mạo hiểm. Giữa đường bỗng nhiên anh bị cảnh sát Pháp chặn lại và cho rằng anh là kẻ đào ngũ. Anh đã trình giấy tờ và giải thích rằng vì sao anh lại đi ở đây. Họ đưa anh tới một cửa hàng để mua sữa. Nguyên giúp tôi giải quyết mọi thủ tục giấy tờ. Chúng tôi đã quyết định đặt tên cho đứa con trai là Marcel. Nó là một đứa trẻ tuyệt vời và tôi tin chắc rằng chúng tôi giờ sẽ có một cuộc sống hòa bình ở đây.

Cảng Hải Phòng năm1954.

Chợ hoa ở Hải Phòng (1954)

Tự thân vận động

Khi bình phục trở lại, tôi mừng vì có sữa cho con bú. Không lâu sau đó tôi lại đi làm. Ban ngày một cô trông trẻ chăm sóc thằng bé, trong khi một cô gái khác chịu trách nhiệm về việc nhà và lo nấu ăn.

Tôi mua cho con tôi nhiều đồ trang sức, trong đó có cả một chiếc vòng đeo tay to bằng vàng già tuổi. Một hôm cô trông trẻ đánh cắp chiếc vòng để đem bán. Khi bị tôi phát hiện ra cô ta van xin tôi đừng trừng phạt cô. Tôi cảm thấy thương hại và cho cô một tháng lương để cô ra đi. Tôi thực tình chẳng quan tâm tới việc mình có nhiều thêm hay ít của cải hơn một chút.

Con trai tôi là một đứa trẻ rất xinh xắn và khỏe mạnh. Có lần một người phụ nữ giàu có mời chào trả nhiều tiền cho tôi nếu tôi bán thằng bé cho bà ấy. Ở chỗ chúng tôi chỉ cần đập tay là đủ để tiến hành các thương vụ, thậm chí thương vụ loại này. Nhiều khi những chào mời như vậy cũng không phải là không hợp lý, nếu bố mẹ những đứa trẻ quá nghèo, bệnh tật hoặc kiệt quệ. Trong trường hợp đó họ phải gác tình cảm riêng tư lại vì hạnh phúc của đứa trẻ, hy vọng nó sẽ có một tương lai xán lạn hơn. Mua một đứa con cũng là giải pháp thông thường đối với những cặp vợ chồng không có con và như vậy họ đã đạt được một nguyện vọng lớn. Tất nhiên là đối với tôi không thể có chuyện đó. Việc người phụ nữ đó mời chào như vậy đương nhiên cũng làm tôi tự hào.

Mỗi tối bạn trai tôi đến với tôi, anh ta chăm lo chu đáo cho đứa bé một cách đầy yêu thương, và tôi rất thích thú ngắm nhìn hai người. Khi đi ngủ, thằng bé luôn nằm trên chiếc sơ mi của anh, có hơi của anh và anh để chiếc áo lại cũng vì mục đích đó.

Tháng Mười một đến đã nhanh chóng đưa tôi trở về với thực tế. Một buổi tối Marcel thông báo với tôi rằng ngày hôm sau anh sẽ phải bay cùng với đơn vị vào Sài Gòn. Anh đề nghị tôi chuyển vào Nam cùng với những người tản cư khác nhưng tôi từ chối. Tôi vẫn cương quyết giữ ý kiến của mình rằng không lâu nữa hòa bình sẽ đến và tôi phản đối chuyển rời khỏi miền Bắc.

Đối với chúng tôi điều đó có nghĩa là giờ đây con đường của chúng tôi sẽ chia đôi ngả. Anh buồn bã chấp nhận quyết định của tôi. Chúng tôi sống bên nhau những giờ cuối cùng và sau đó chia tay nhau mà không hề hứa hẹn điều gì.

Tôi để cho anh đi và tôi ở lại Hải Phòng, hoàn toàn phải tự thân vận động mà không có chút thất vọng hay cảm giác cay đắng nào. Tôi đã đủ tự tin và đủ tiền để cùng với con tôi chống chọi.

Những ngày kinh hoàng

Đối với chúng tôi cuộc sống vẫn tiếp tục trôi đi. Sau đó không lâu tại Hà Nội, khi Việt Minh, phe người Việt thắng trận, thay chân những tốp lính của quân đội Pháp thì dường như số phận tương tự cũng được định đoạt cho Hải Phòng.

Loa phóng thanh trên đường phố luôn phát những khẩu hiệu kích động. Ban đêm những bài ca yêu nước vang lên làm mất đi sự yên tĩnh lạ thường mới có sau chiến tranh.

Vào một buổi sáng lúc đang chuẩn bị đi làm, tôi hãi hùng nhìn qua cửa sổ, thấy một tốp nam giới đang đá vào một thủ cấp đàn ông vừa mới chặt khiến nó lăn lông lóc. Đấy là thủ cấp ông thợ làm bánh ở góc phố, ông làm bánh mì baguette cho người Pháp và cũng là chỗ quen biết của tôi. Hai người trong tốp đàn ông dùng đòn gánh có quấn dây thép gai khiêng theo mấy thủ cấp nữa, cứ thế họ diễu qua phố và gieo rắc bao nỗi lo sợ, kinh hoàng. Tôi thấy lạnh hết sống lưng. Tôi phải làm gì đây? Nguyên muốn ở lại đây, cô tin rằng đó là điều tốt nhất. Còn tôi thì không còn chắc chắn nữa. Điều quan trọng nhất đối với tôi là được tự do, và không có cái gì và không có ai có thể hạn chế được sự tự do này của tôi. Tôi đã tranh đấu quá lâu vì điều đó!

Vì vậy tôi phân vân, cho tới khi nhận được một bức điện của Marcel gửi từ Sài Gòn ra, trong đó anh viết rằng anh ốm lắm và nếu không có tôi chắc anh không qua khỏi. Nếu tôi không vào chắc chắn anh sẽ chết.

Giờ đây tôi biết mình phải làm gì. Trong giây phút đọc bức điện đó tôi hiểu rằng số phận của tôi là phải ra đi. Trời đã gửi cho tôi thông điệp đó, để tôi phải đến với Marcel.

Ngay trong đêm đó, lúc 1 giờ, tôi buộc đứa con trai đang ngủ của tôi trên lưng. Tôi đánh thức Nguyên dậy để chia tay cô. Chúng tôi ôm nhau. Cô không hỏi gì và đứng ?