← Quay lại trang sách

- 3 -

Trong mơ tôi thấy...

Tháng Giêng 1955, bạn trai của tôi bỗng nhiên mắc bệnh vàng da. Tháng Hai, anh bay đến một bệnh viện phục hồi chức năng ở Đà Lạt nằm tại phía Đông Bắc. Người ta gọi Đà Lạt là "Thành phố của mùa xuân vĩnh cửu". Thời tiết quanh năm dễ chịu ở đây với nhiệt độ không khí hai mươi độ đối với người nước ngoài thật thoải mái so với những cơn nóng bức oi ả trong những vùng khác của cả nước. Nông trang chè và cà phê ở khu vực này càng làm tăng thêm vẻ đa dạng đáng yêu của những sắc màu nổi bật.

Tôi đã thích ứng với cuộc sống mới của mình. Con trai tôi ngày càng lớn lên, sống hồn nhiên vui vẻ. Đêm đêm tôi nằm âu yếm con và ngủ ngon lành.

Bỗng một đêm tôi mơ thấy bạn trai của tôi quân phục rách bươm đang đi lạc trong rừng sâu, bên cạnh anh có một con hổ đang định vồ anh ăn thịt. Anh đang gặp nguy hiểm! Tôi giật mình tỉnh giấc, người ướt đẫm mồ hôi và thấy bất an, tôi thức dậy và thắp hương khấn cho anh. Tất nhiên tôi không thể giải thích cho mình được giấc mơ đó, tôi biết rằng anh đang ở bệnh viện và ở đó anh không thể gặp nguy hiểm. Tôi khấn vái cả đêm và khấn cả tổ tiên tôi lẫn mẹ tôi để họ phù hộ cho anh sớm lành bệnh trở về với tôi.

Cho tới ngày đã hẹn không thấy anh xuất hiện, tôi lập tức tới doanh trại để hỏi thăm về anh. Khi biết anh đã khỏe mạnh trở về tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Tuy nhiên anh bị phạt giam tám ngày vì anh đã tự gây nguy hiểm cho bản thân mình.

Tôi bình tĩnh chờ anh đến Lăng Cha Cả với tôi. Trông anh có vẻ hồi phục và anh kể lại cho tôi nghe điều đã xảy ra.

Anh đi dạo chơi ở Đà Lạt, bên ven khu rừng rậm, và với bản chất hiếu kỳ, ưa mạo hiểm của mình, anh quyết định không đi theo con đường mòn có sẵn. Sau khi luồn lách một đoạn dài, anh bỗng trượt chân xuống một cái dốc sâu chừng hai mét, đường lên quá dốc và anh không thể leo lên được, vì vậy anh quyết định đi tiếp, hy vọng tìm được lối khác nhưng lại lạc trong rừng sâu. Cỏ voi sắc nhọn cứa rách làn da vốn nhạy cảm của anh ở nhiều chỗ. Không xa chỗ anh đất rung lên vì có đàn voi lớn chạy qua, dẫm nát cả những túm cỏ cao và lướt qua chỗ anh. Anh lang thang trong rừng cả một ngày mà không có nước uống. Vì hoàn toàn kiệt sức, anh không biết phải làm gì nữa và bèn ngồi xuống, bỏ mặc cho số phận định đoạt. Nhưng anh đã gặp may vì có một người thổ dân đi săn và phát hiện ra anh, người đó đưa anh về chỗ bộ tộc của ông.

Ở đây phụ nữ mình trần chạy khắp nơi (và sau này anh mới biết rằng đàn ông nghiêm cấm không được sờ vào ngực của họ vì nếu làm vậy thì có thể bị giết chết). Tất cả những người dân trong bản đều hiền lành và vui vẻ, và họ cũng rất ngạc nhiên thấy một người lạ mắt màu sáng và da trắng. Họ cho anh ăn uống và ngày hôm sau, ngày mồng bốn tháng Ba, đúng ngày sinh nhật thứ hai mươi của anh, người đàn ông đã tìm thấy anh lại đưa anh về với "thế giới khác". Người dân bản xứ chỉ xin muối làm phần thưởng cho việc cứu anh vì muối đối với họ còn quý hơn vàng. Ông nhận được hai kí lô muối và vô cùng hài lòng quay lại hướng rừng sâu.

Người ta định tuyên bố Marcel đã chết vì chưa bao giờ có một người nước ngoài sau nhiều giờ như vậy lại có thể sống sót từ rừng rậm trở về. Dù lúc đầu cấp trên của anh rất vui mừng thấy anh sống sót trở về, nhưng anh vẫn bị xử phạt với mức tạm giam tám ngày vì đã quá liều lĩnh và không chấp hành quy định.

Hạt giống hy vọng

Giờ đây anh đã khỏe lại. Gần như hàng ngày, sau giờ nghỉ tôi vào khu trang trại quân đội để thăm anh và mang cho anh những món ăn anh ưa thích do tôi nấu, trong khi đó một bà láng giềng trông con cho tôi.

Khi một trong những cấp trên của anh thường nhìn thấy tôi đến, ông gợi ý để tôi có thể ngủ lại chỗ Marcel để đỡ phải đi lại vất vả. Tôi cũng có nghe lời gợi ý của ông mấy lần. Nhưng khi ấp chúng tôi bị bọn cướp Bình Xuyên cướp bóc và tôi không có nhà, tôi quyết định không ngủ lại trong doanh trại nữa vì sợ rằng con tôi có thể gặp chuyện.

Sau đó không lâu một vụ việc nữa xảy ra buộc tôi đi đến quyết định phải nhanh chóng chuyển chỗ ở. Giữa ban ngày ban mặt, khi Marcel còn đang ở chỗ tôi, lính dù Căm-pu-chia đột nhập vào ấp chúng tôi và bắt dân chúng phải nộp rượu cho chúng. Khi một trong những tên tội phạm xông vào nhà chúng tôi, Marcel đứng dậy. Hắn dí dao vào bụng anh, anh vội giơ tay lên. Tôi vẫn bình tĩnh và nhanh chóng đưa cho hắn một chai Pastis và thế là hắn rời đi với vẻ hài lòng. Ngay ngày hôm sau tôi đã ở chỗ mới tại một khu phố tốt hơn.

Những bức thư cuối cùng của mẹ Marcel cho thấy bà không thay đổi ý kiến về tôi. Tuy nhiên con trai bà muốn đưa tôi về quê hương anh và nhất định muốn cưới tôi ở đó.

Anh nói với tôi trong khi xé bức thư cuối cùng của bà, từ giờ phút này trở đi tôi sẽ là vợ chưa cưới của anh, không có gì và không một ai có thể ngăn cản được điều đó. Tuy nhiên chúng tôi cũng biết rằng thời gian anh quay trở về Pháp đang xích lại gần. Tất nhiên khi về tới nhà, trước hết anh sẽ được hưởng một kỳ nghỉ phép xứng đáng.

Anh nói làm tôi phải bật cười, rằng sau khi về nước, anh sẽ mua một chiếc xe Vespa và dùng nó để đón tôi từ Việt Nam. Anh còn trẻ và ngây thơ, nhưng phong cách nhiệt thành của anh, cách anh chia sẻ với tôi những giấc mơ và phá bỏ mọi quy tắc làm cho tôi thích thú.

Dần dần, niềm hy vọng cho con tôi và tôi đang lớn dần trong tim. Tôi muốn trong đời tôi một lần được nhìn thấy tháp Eiffel! Cho dù chồng chưa cưới của tôi không nghĩ tới điều này một cách nghiêm túc thì tôi cũng sẽ bằng mọi giá đi tìm một cuộc sống mới ở nơi đó và sẽ sống bình yên với con trai tôi tại đó.

Mong muốn đó không phải chỉ mới nảy nở trong tôi. Có một hôm tôi đi mua sắm đồ và khi sắp về tới nhà, tôi gặp một người phụ nữ, chị ta cười vui vẻ với tôi làm tôi muốn bắt chuyện với chị. Chị tên là Ngọc và trẻ hơn tôi một tuổi.

Ngọc sinh ra ở Hà Đông, một làng cách Hà Nội không xa, và ở cuối phố tôi. Nhận lời mời của chị, tôi bế con trên tay và đi cùng chị về nhà.

Khi uống một chén chè, chị kể chuyện của mình cho tôi nghe. Chị cũng mất đứa con đầu với một người đàn ông Việt Nam. Sau đó người này bỏ chị. Chị lại có một đứa con trai với một người Pháp, thằng bé gần cùng tuổi với con tôi. Người này cũng bỏ rơi chị khi biết chị mang thai. Giờ đây chị có một người bạn trai mới, cũng là lính và anh sẵn sàng đưa chị sang Pháp, nhưng đương nhiên là không mong muốn kèm cái "đuôi". Chị sống ở Sài Gòn trong khi một người bạn gái, cách chị rất xa, đang nuôi con cho chị như chính con mình. Tôi cảm nhận được rằng chị rất đau khổ vì chuyện này khi chị ngắm nhìn con tôi với đôi mắt to đầy nhung nhớ và xin tôi cho chị bế cháu vào lòng một lát. Tôi đưa thằng bé cho chị bế và động viên chị ráng hy vọng một ngày nào đó bạn chị sẽ thay đổi ý kiến. Tôi cảm thấy thương chị.

Vịt nóng

Là phụ bếp, bình thường ra người ta đâu có được nghiệm trải gì nhiều. Công việc hàng ngày chủ yếu tập trung vào nhặt rau, làm cá, thái thịt thành những miếng vừa mồm. Nếu xong việc thì tôi lại phục vụ ở quầy. Tôi không phải lo thêm việc gì khác.

Có một người phụ nữ trẻ gốc Hoa cũng làm việc với tôi ở trong bếp. Như cô ta kể cho tôi, mẹ cô làm việc trong một nhà hàng ở Chợ Lớn. Cô này lo cả việc đi chợ mua thịt cho nhà hàng. Một hôm, với vẻ mặt vô cùng hồ hởi, cô đem về hai mươi con vịt chết để hai chúng tôi vặt lông trước khi quét phẩm. Tôi hỏi lý do vì sao sáng nay cô lại hồ hởi như vậy, cô trả lời tôi vì những con vịt. Cũng may là nó không "nóng"!

Tôi không cười vì chưa hiểu được ý nghĩa của câu chuyện tiếu lâm. Sau đó cô giải thích với tôi rằng "vịt nóng" là những con vật người ta dùng trong nhà thổ của người Hoa và vì vậy mà được đặt tên như vậy.

Tôi cười cho phải lẽ, ra vẻ như mình đã hiểu để khỏi làm mất lòng cô, nhưng thật ra tôi chẳng hiểu rằng vịt trong thực đơn của chúng tôi và những con vịt "nóng" ở nhà thổ Trung Hoa thì có liên quan gì với nhau. Cô ta nhận ra điều đó và giải thích cho tôi. Người ta đều biết rằng những sĩ quan có điều kiện hơn thường kiếm cho mình những cô gái điếm đắt tiền nhất, trong khi đó những người có hàm thấp hơn thường phải mua vui tại nhà thổ quân đội khổng lồ "Parc aux Buffles", nơi có hàng nghìn cô điếm người Việt và Căm-pu-chia lăn xả vào họ khi họ vừa mới bước chân tới cửa. Tôi cũng được chồng chưa cưới của tôi kể rằng có cả gái Ma-rốc ngủ ngay trong doanh trại để thỏa mãn những người đàn ông trong tốp lính. Tôi tưởng chừng như đứt hơi khi nghe cô kể tiếp.

Trong số họ có một vài kẻ dị nhân, họ tìm kiếm và cũng đã tìm được những thú vui đặc biệt trong một số nhà thổ nhất định ở Chợ Lớn. Thú vui đặc biệt đó là kẹp mỏ những con vịt còn sống vào khe cửa và hành hạ chúng từ phía sau ở thế quỳ trong khi chúng giãy dụa.

Chân chúng, trước đó đã bị tước hết móng, vùng vẫy đạp vào hòn dái người đàn ông để tìm đường thoát, làm cho người này càng thêm hưng phấn. Xong việc rồi con vật tội nghiệp lập tức bị giết chết, và sau đó tôi được phép đoán xem điều gì sẽ xảy ra đối với món thịt vịt ngon lành đó...

Sau đó một thời gian dài tôi không tránh được cảm giác ghê tởm mỗi khi tiếp xúc với loài vịt.

Nhân duyên

Quán chỗ tôi làm kinh doanh tốt. Tôi thích nhất là phục vụ ở quầy, nơi tôi có thể móc nối quan hệ trong khi phục vụ khách. Như một sự tình cờ đã được định đoạt, một hôm có một người đàn ông trẻ mà tôi quen biết từ trước ghé qua: đó là Jean, chồng chưa cưới của cô Sao A Mùng xinh đẹp. Ngay sau đó cô ta bước vào quán và vô cùng ngạc nhiên khi thấy tôi, rồi chúng tôi ôm chầm lấy nhau.

Họ mời tôi một cốc nước ngọt và kể cho tôi nghe những gì họ đã nếm trải trong thời gian qua. Jean được điều vào miền Nam và đem theo người mình yêu nhất đi cùng. Ở đây, tại Sài Gòn, Sao A Mùng làm việc trong một cửa hàng sách. Cả hai khẳng định rằng một ngày nào đó họ sẽ rời khỏi nước này để xây dựng một tương lai hạnh phúc trên đất Pháp. Họ vẫn yêu nhau và quấn quít bên nhau như thuở nào. Tôi vui mừng thấy họ thần tượng hóa lẫn nhau. Jean muốn lo những thủ tục cần thiết. Khi tôi bày tỏ với Mùng rằng tôi cũng sống cùng với một người Pháp nhưng không biết làm cách nào để xuất ngoại, cô gợi ý với tôi rằng cô sẽ giới thiệu để tôi làm quen với một người bạn của cô. Chúng tôi hẹn nhau rồi tạm biệt. Ngày lại ngày, trong đầu tôi cứ luẩn quẩn cái lịch hẹn, người chỉ xưng tên một cách đơn giản là "ông Phan". Ông là một nhà học giả với kiến thức rộng. Từ ông tỏa ra một sức mạnh diệu kỳ, một uy lực mà tôi chưa bao giờ chứng kiến. Ông gần như tạo ra một ấn tượng rằng ông có một mối liên đới trực tiếp "Trời" khi ông chiếu ánh mắt vào tôi, dịu dàng và xuyên thấu. Ông tỏ ra biết nhiều điều riêng tư về tôi, mặc dù tôi chỉ kể rất ít với ông và ông tỏ ra thiện cảm với tôi. Thiện cảm này có được ở cả hai chúng tôi. Ông hứa sẽ hỗ trợ tôi về mặt tinh thần bằng cách ông sẽ cầu nguyện cho tôi và ông tin chắc rằng những lời cầu nguyện đó sẽ hiệu nghiệm và sẽ che chở cho tôi. Ông khuyên tôi cần làm ngay một cuốn hộ chiếu để có thể xuất ngoại và thông báo cho ông về từng bước tiếp theo. Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó tôi cảm thấy mạnh mẽ lạ thường và cám ơn sự tình cờ bằng cách này đã đưa đường chỉ lối cho tôi.

Bạo loạn trong thành phố

Vẫn trong tháng đó, tôi và chồng chưa cưới của tôi đi xich lô máy đến công sở phụ trách để đệ đơn xin làm hộ chiếu cho tôi. Để làm việc này tôi cần phải có chứng minh thư và sổ tiêm chủng. Cả hai loại giấy tờ đó tôi đều giấu trong mình, dưới chiếc áo dài.

Thành phố hôm đó gần như vắng người. Chỉ có mấy người đi xe đạp và chúng tôi trên đường phố. Khi vừa đi ngang qua Dinh Tổng Thống bỗng có hai tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả chiếc xích lô của chúng tôi. Người lái xe kinh hãi, suýt mất lái, ông tắt máy và run rẩy xuống xe. Ba tiếng nổ tiếp theo, chắc đến từ phía sau của Dinh Tổng Thống.

Chỉ cách chúng tôi vài mét, một người lính của quân đội miền Nam Việt Nam canh gác cửa vào Dinh chĩa tiểu liên về phía chúng tôi và sẵn sàng nhả đạn. Anh ta đang tìm nguồn gốc nơi phát ra tiếng nổ. Marcel giơ tay lên và tỏ ra bình tĩnh, tôi cũng vậy. Người lính gác soi mói nhìn chúng tôi một lát rồi ra hiệu cho chúng tôi đi. Chúng tôi cũng lập tức đi khỏi đó.

Giờ đây chỗ nào người ta cũng bắt đầu nổ súng. Chúng tôi quyết định nhanh chóng quay trở lại, trước hết đưa tôi về nhà và sau đó đưa chồng chưa cưới của tôi xuống chỗ doanh trại. Nhiều ngày trôi qua, gần như mọi người đều ở trong nhà vì trong thành phố đang hỗn loạn.

Những người theo giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo liên kết với băng Bình Xuyên để tấn công Dinh Tổng Thống. Từ sau vụ nổ ở Sài Gòn thường diễn ra các trận chiến khốc liệt trên đường phố. Sau nhiều ngày đánh nhau, những nhóm quân này đã bị quân đội của Tổng Thống Diệm đánh bật ra khỏi thành phố. Vụ nổ đó làm cho dân chúng ngày càng cảm thấy bất an hơn. Những dòng người, trong đó có cả những người nông dân đơn thuần, bắt đầu di chuyển ra hướng Bắc vì ở trong Nam họ cũng không được hưởng hòa bình.

Mấy ngày sau Marcel đến thăm tôi vào một buổi sáng, lần này cũng không xin phép, đến cùng với tôi đến "trụ sở cảnh sát" gần Nhà thờ lớn. Trên đường đi xich lô tôi thấy ở chỗ trước đây còn nhà cửa thì giờ đây chỉ là những đóng tro tàn lớn.

Khi đến cửa tòa nhà cảnh sát, chúng tôi không thể nhích chân thêm một bước nào để tiến về phía cửa, có quá nhiều người đứng ở đây. Tất cả đều gào thét xin xỏ các thứ giấy tờ và xô đẩy, chen lấn với hy vọng là bằng cách này sẽ nhanh đến lượt mình. Chúng tôi chỉ biết đứng đó, ngạc nhiên và bất lực.

Ngôn ngữ của đồng tiền

Tôi cảm thấy vô vọng. Nhưng Marcel nắm chặt tay tôi và dùng sức để chen lấn lên phía trước, cho tới khi chúng tôi đứng dưới một chiếc cửa sổ lớn. Có lẽ vì anh là người nước ngoài duy nhất trong đám đông nên viên công chức quan sát đám đông bên ngoài cửa kính đã phát hiện ra anh.

Người đàn ông mở cửa sổ và kéo anh vào trong với sự trợ giúp của một đồng nghiệp. Họ hỏi anh muốn gì ở đây và khi nghe anh kể rằng anh đi cùng với vợ chưa cưới vì vợ anh nhất thiết cần một cuốn hộ chiếu, khi đó họ ra lệnh cho đám đông đang phản đối dữ dội phải nhường đường cho tôi vào. Viên công chức tiếp chúng tôi cực kỳ lịch thiệp và vui vẻ. Chúng tôi được phép ngồi để điền tờ khai. Nhưng tôi còn thiếu tờ giấy khai sinh. Khi tôi hỏi phải chờ bao nhiêu lâu để có được cuốn hộ chiếu, ông ta nói nhỏ: "Ít nhất một năm".

Marcel im lặng chẳng biết nói gì. Anh nhìn tôi với vẻ không tin. Nhưng tôi thì hiểu ngay viên công chức đó muốn nói gì. Tôi cũng hỏi nhỏ lại: "Thưa ông, chắc chúng ta có thể nói chuyện với nhau được chứ. Lúc nào ông có thời gian?".

"Sáu giờ chiều nay, sau giờ nghỉ, bên cạnh cửa vào Nhà thờ lớn. Bà hãy chờ tôi ở đó", ông nói với tôi một cách hài lòng vì tôi đã hiểu thông điệp của ông.

"Một năm" có một ý nghĩa khác hoàn toàn, và cứ thế là: "Không bao giờ, trừ khi cô chịu chi". Tôi đã được ông Phan cảnh báo trước.

Tôi không hề ngạc nhiên mà ngược lại. Đút lót cho viên công chức này có nghĩa là tôi có thể xúc tiến được công việc của mình theo cách tôi mong muốn.

Đúng sáu giờ, tôi gặp ông ta. Chúng tôi đi vài bước cho có vẻ tự nhiên. Tôi hỏi thẳng ông ta xem ông ta muốn bao nhiêu. Ông ta nêu một khoản tiền lớn mà theo ông ta thì còn phải chia cho hai đồng nghiệp nữa.

Chúng tôi hẹn gặp nhau tối hôm sau tại một nhà hàng ở Chợ Lớn. Marcel đưa tôi đến đó, không phải chỉ vì thông lệ là chồng không thể để vợ chưa cưới một mình đi gặp một người đàn ông lạ mà vì khoảng tiền lớn mà tôi mang bên mình. Biết đâu chẳng có rủi ro tôi bị một tên cướp Bình Xuyên cướp.

Tại bàn ăn, tôi trao cho người đàn ông món tiền ông ta đòi hỏi và tất nhiên tôi thanh toán cả tiền ăn cho ông. Vì tôi hiểu được ngôn ngữ của đồng tiền nên giấy khai sinh của tôi đã được kèm với tờ khai - chỉ sau đó ba ngày.

Lựa chọn nghiệt ngã

Mọi việc dường như được tiến hành một cách hoàn hảo, nhưng lại kẹt ở một chỗ. Sau một vài tuần tôi hỏi lại viên công chức xem đơn của tôi đã được thụ lý tới đâu. Ông ta khẳng định với tôi rằng việc thụ lý hồ sơ được tiến hành với tiến độ thời gian bình thường và khoảng một tháng nữa sẽ xong. Và người ta sẽ cấp hộ chiếu cho tôi.

Khi tôi cám ơn và nói rằng tôi rất vui vì có thể cùng với con trai tôi sang Pháp, lúc đó bỗng nhiên ông ta sựng lại, tôi nghe ông ta nói những điều làm tôi tê dại hoàn toàn. Những lời của ông ta từ từ ngấm vào đầu tôi như một liều thuốc độc.

"Bà đã đính hôn, hay là sao?", ông hỏi tôi câu đầu tiên. Tôi gật đầu, vẻ vui mừng và tự hào.

"Và chồng chưa cưới của bà đã nhận con ông ta và đăng ký hộ khẩu cho nó?", ông ta hỏi tiếp.

"Nó không phải là con anh ta mà là con tôi", tôi nói một cách ngạc nhiên nhưng tự tin. "Chồng chưa cưới của tôi muốn nhận thằng bé làm con nuôi sau khi chúng tôi đã tới Pháp. Nhưng bây giờ anh ấy đối với thằng bé đã như bố của nó."

"Bà không thể đưa thằng bé đi cùng được", ông ta trả lời. "Vì ông bà chưa cưới nhau nên không thể được. Thằng bé phải ở lại đây, không thể nào làm khác."

Hẳn ông ta thấy mặt tôi tái nhợt đi. Tôi luôn luôn đinh ninh rằng mình sẽ có thể cùng con trai rời khỏi đất nước và không có gì vướng mắc, nhưng giờ đây? Giờ đây bỗng dưng tôi phải chia lìa với con tôi? Tôi hoàn toàn không thể hiểu nổi.

"Tôi lấy làm tiếc, tôi nghĩ rằng bà đã biết sự việc."

Tôi chỉ biết gật đầu nhẹ để cám ơn. Tôi bị sốc đến nỗi không thể khóc được nữa. Nỗi buồn vô tận kéo theo sự giận dữ và thất vọng vì phải hy sinh quá nhiều.

Giờ đây là cuối tháng Tư 1955 và tôi phải đưa ra một lựa chọn, với tất cả các hệ lụy của nó. Phải chăng là tôi nên để bị tiếp tục cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh hay là tôi nên chuẩn bị để phó thác đứa con trai yêu quý của tôi một mình cho số phận?

Tối hôm đó, tôi đến gặp ông Phan với những câu hỏi dày vò và chưa được giải đáp, để ông tư vấn cho tôi.

Một quyết định sáng suốt

Vẫn như mọi lần, ông Phan đón tiếp tôi một cách thân mật. Trong suốt thời gian tôi giải bày, ông không nói một lời nào, chỉ gật đầu. Trước ông tôi không cảm thấy xấu hổ. Tôi không biết làm gì ngoài việc cứ để cho nước mắt tuôn trào. Tôi còn có thể làm được gì nữa?

Ông an ủi tôi và pha cho chúng tôi một ấm chè. Ông mang ra từ trong bếp một đĩa mứt gừng. Rồi ông bảo tôi cho ông biết ngày tháng năm sinh của con tôi. Ông đứng dậy và đi vào một phòng bên cạnh, trong khi tôi nắm chặt chén chè trong tay.

Một lúc lâu sau. Dĩa mứt gừng đã hết. Ông quay lại và mỉm cười. Ông đã xem sao chiếu mệnh của con tôi. Rất chắc chắn và đầy sức thuyết phục, ông khuyên tôi để con trai mình lại Sài Gòn. Tốt nhất là liên hệ với một tổ chức tôn giáo để đảm bảo sau này tìm lại được đứa trẻ mà mình tin tưởng giao cho họ. Sao của nó tốt đấy, không có vấn đề gì đâu, ông nói với tôi. Con trai tôi sẽ vượt qua được tất cả một cách an lành.

Tôi không biết chính xác rằng điều gì đã khiến tôi tin ông. Trong thâm tâm tôi cảm nhận được rằng người đàn ông thông thái này đã nói với tôi sự thật.

Như tôi được biết, ông Phan cũng có nhiều mối quan hệ với những người có thế lực và ông cũng được hưởng những đặc quyền nhất định nhờ khả năng cố vấn của ông. Tôi thầm nghĩ rằng một trong những mối quan hệ của ông có thể bổ ích cho tôi trong trường hợp này. Dù sao chăng nữa tối hôm đó ông cũng đã giải đáp được câu hỏi nóng bỏng của tôi, bất kể là lời khuyên của ông có phải là điều tôi muốn nghe hay không, nhưng đối với tôi số phận của con tôi như vậy đã được định đoạt.

Những bài học loại khác

"Một người bạn là một người mà ta biết và người đó biết ta. Cho dù người đó chẳng làm gì, nhưng vẫn là bạn ta, một khi anh ta chẳng phương hại đến ta. Còn một người bạn tốt là người mang lại cho ta những điều tốt lành." (Loan)

Khi chúng tôi tiếp tục trò chuyện, ông Phan nói rằng tôi cũng là một người thông thái. Ý của ông muốn nói rằng tôi có nhiều năng khiếu. Tôi phủ nhận một cách rất ngạc nhiên, vì trong mắt tôi, tôi chỉ là một người đàn bà học thức kém cỏi. Một người nhỏ thó như tôi, xuất thân từ một cái làng nhỏ xíu ở tỉnh làm sao lại có được sức mạnh của tri thức? Tuy vậy ông vẫn giữ quan điểm đầy thuyết phục của ông và gợi ý cho tôi để trong thời gian còn lại cho tới khi tôi xuất cảnh, ông truyền lại cho tôi một số kiến thức của ông, với tư cách của một bậc đàn anh. Đối với ông việc này rất quan trọng, như ông nói, ông không muốn để hiểu biết của ông thất truyền.

Đối với tôi đây là một niềm vinh hạnh! Khi tôi hỏi tại sao ông không lựa chọn một thân nhân trong gia đình ông, ông nhìn tôi và nói, không nhất thiết là người nhà mới là người nối dõi con đường kiến thức, mà phải là một người đã được định sẵn. Tôi chỉ biết đồng ý với ông và chấp thuận. Sẽ không có gì là tổn hại, nếu bằng cách này tôi có thể chuẩn bị sẵn tâm thế cho những tháng ngày sẽ đến.

Rồi tôi được biết ông Phan không chỉ là nhà chiêm tinh học, mà còn là một "Magnétiseur" (thầy thuốc chữa bệnh bằng tâm linh) - và một sứ giả của thần linh. Nhiều lần ông đã sống như ẩn sĩ nhiều tháng liền ở trên núi và đã thu lượm kiến thức của mình qua nhiều năm ở Tây Tạng. Hàng tháng tôi đến chỗ ông nhiều lần, phần lớn là sau khi tôi ghé qua công sở để hỏi về hộ chiếu của tôi. Trong thời gian đó ông giải thích cho tôi tác dụng của một số câu khấn của ông trước khi ông truyền nó cho tôi. Bài giảng chỉ là truyền khẩu, không hề có ghi chép. Tôi phải học thuộc lòng tất cả.

Trước hết tôi học cách tập trung và ngồi thiền cũng như ý nghĩa của sự cân bằng giữa thể xác và tinh thần đối với sức khỏe. Tôi học được dinh dưỡng như thế nào là phù hợp nhất để đạt kết quả của thiền học. Sau đó ông giải thích cho tôi cơ sở của Saman giáo và ý nghĩa của các biểu tượng.

Tất cả đều tác động lẫn nhau. Như tôi ghi nhận được, sự hiểu biết của ông Phan chỉ là một dấu chấm nhỏ xíu trong vòng tròn vô tận, quay chậm nhưng liên tục theo một chiều, theo chiều của cuộc sống và số phận mà người ta hoặc là có thể tác động vào nó một cách thuận lợi hoặc là không. Vì vậy, phải lựa chọn khắt khe những đối tượng có năng lực để truyền lại sự hiểu biết này. Chỉ có người có "linh hồn đẹp" mới có khả năng tạo ra được ảnh hưởng tốt trên thế giới. Nếu một người nào đó làm một điều xấu thì đó là theo số phận của mình anh ta phải làm điều đó. Đương nhiên nghĩa vụ của một người tốt và của những người có sự hiểu biết như ông Phan là biến điều xấu thành điều tốt. Điều đó có thể làm được thông qua sức mạnh của lời khấn, kèm theo là những nghi lễ nhất định.

Tất cả những gì xảy ra quanh ta đều là vật chất sống động. Chúng ta không ngừng phát đi những tín hiệu thông qua cách cư xử của chúng ta, bằng những lời khấn hoặc những suy nghĩ của chúng ta mà tần số của chúng cả những con thú cũng có thể đón nhận được. Nếu thông điệp hoặc lời cầu nguyện đó đã tới đích hoặc lời khấn đã thấu thì sẽ có câu trả lời hoặc một sự hướng dẫn cho ta, trong một giấc mơ hoặc trong một sự "tình cờ" tích cực bỗng nhiên xảy ra hoặc cũng có thể qua hình hài của một con thú bị chết. Tùy theo con vật nào chết và chết như thế nào hoặc khi sống nó phản ứng ra làm sao, người ta có thể chỉ ra tất cả những điều tiếp theo.

Tôi ngạc nhiên về tính đa dạng của các ứng dụng. Ví dụ ông Phan có thể thông qua những cách thức nhất định tác động vào những đồ vật được nói đến trước đó như mong muốn mà không cần sờ vào chúng. Ông cũng có khả năng bảo vệ người, căn phòng hoặc tòa nhà trước những điều ác. Thông qua những hình vẽ mà sau này ông đã hủy đi, ông giải thích thêm cho tôi về tác động và trình tự của những lễ nghi mà người ta có thể áp dụng một cách đa dạng. Song song với điều đó ông cũng đọc những ngôi sao xem nó có thuận lợi đối với một công việc nào đó hay không và đưa ra những dự đoán thích hợp.

Điều quan trọng là không sử dụng kiến thức đó để làm giàu cho mình mà chỉ để giúp đỡ những người yếu theo nhu cầu và giữ được sự cân bằng cho môi trường xung quanh một cách lành mạnh. Ngoài ra còn cấm cầu khấn tổ tiên phù hộ về những việc vụn vặt nhỏ nhoi. Kiến thức của ông Phan liên quan chủ yếu tới việc duy trì sự lành mạnh về tinh thần để đảm bảo được một cuộc sống hài hòa trên trái đất.

Nhiều điều gợi lại cho tôi nhớ tới những tập tục thời xưa, khi còn nhỏ tôi thường thấy ở những ông thầy lang. Tôi cảm nhận được rằng những kiến thức này không còn xa lạ đối với tôi và tôi có thể hiểu ông Phan và làm theo những chỉ dẫn của ông một cách dễ dàng. Khi tôi nói với ông, tôi không biết rằng cách khấn của tôi có đúng không vì tôi chỉ khấn tổ tiên tôi và khấn Trời khi tôi muốn xin một điều gì đó, ông trả lời tôi làm như vậy là đúng vì điều đó đến từ tình cảm sâu thẳm của tôi.

Thông qua người thầy này tôi đã nhìn nhận thế giới hoàn toàn khác. Tôi phát hiện trong tôi có những khả năng tiềm ẩn và để trực giác của tôi phát huy mạnh mẽ hơn.

Như cảm nhận đầu tiên của ông cho thấy rằng tôi xứng đáng là truyền nhân của ông, tôi cần phải nghe theo trực giác của mình và sử dụng nó làm công cụ cho cuộc sống. Điều quan trọng là cần làm những điều tốt, những điều bổ ích và giúp đỡ những người khác.

Tôi thầm biết ơn về việc mình đã được học ở một con người thông thái và sáng suốt như vậy nhiều điều về sức mạnh của đức tin.

Cuộc chia ly ngắn ngủi

Lúc này những sự kiện dồn dập xảy ra. Vẫn trong tháng Năm, đơn vị của Marcel rốt cuộc cũng phải rời Việt Nam và được điều trở về Pháp. Chúng tôi hầu như không còn thời gian để suy nghĩ và cân nhắc xem điều gì tốt nhất đối với con tôi. Cũng không có điều kiện để lo thủ tục cho một đám cưới cấp tốc, càng không kịp để lo việc nhận con nuôi. Một cấp trên thiển cận của Marcel thậm chí còn muốn ngăn anh cưới một phụ nữ bản xứ đã có con với một người khác; người ta không hề muốn thấy điều đó ở những người Pháp đã bại trận. Thêm vào đó người ta nói với anh rằng anh còn quá trẻ và ngây thơ, nếu nói về tình yêu thì có thể về nước đã, rồi cân nhắc thận trọng và tìm thời cơ thích hợp sau.

Chúng tôi khẳng định rằng có lẽ chưa kết hôn sẽ tốt hơn đối với tôi bởi vì có nguy cơ sẽ bị phía "bên kia" soi mói và thậm chỉ hạ sát chỉ vì có dính dáng tới một người nước ngoài thuộc dạng thù địch. Cách phố tôi không xa người ta đã phát hiện được xác của một đôi bị cứa cổ.

Do vậy chúng tôi quyết định nghe theo lời khuyên của ông Phan và cùng nhau đến văn phòng của một tổ chức cứu trợ Công giáo tại đường Catinat để đăng ký cho con tôi.

Một người châu Âu ghi lại các dữ liệu, Marcel giải thích cho ông ta rằng anh chỉ có thể nhận đứa bé làm con nuôi ở Pháp vì thời gian quá gấp. Con trai tôi được ghi vào danh sách "trẻ mồ côi chờ nhận làm con nuôi". Tôi sẽ đưa con tới đây sau khi khẳng định rằng không còn điều gì cản trở việc xuất ngoại của mình nữa. Trước khi bàn giao đương nhiên cũng phải nộp một khoản tiền chi phí chăm nuôi đứa trẻ. Chúng tôi ghi nhận điều đó và ra về, trong lòng nhẹ nhõm.

Tuần cuối cùng trước khi con tàu của anh rời bến để về cảng Marseille, Marcel được phép về với tôi. Ban đêm anh ngủ lại chỗ tôi, hoàn toàn suy sụp vì phải rời xa chúng tôi và đất nước này một cách bất ngờ và không chuẩn bị như vậy. Đêm cuối cùng trước khi chia ly, chúng tôi ôm chặt lấy nhau và anh yêu tôi, tưởng chừng như đó là lần cuối cùng.

Sau đó chúng tôi không ngủ tiếp được nữa. Chúng tôi nằm ôm nhau chờ trời sáng. Marcel đưa cho tôi toàn bộ số tiền anh có để tôi trang trải chi phí cho chuyến đi cũng như địa chỉ của mẹ anh ở Pháp, nơi anh sẽ sống và một bức ảnh nhỏ của bà. Anh hứa với tôi một lần nữa, anh sẽ quay lại đón tôi nếu một mình tôi không qua được Pháp. Anh nhất định sẽ viết thư cho tôi và thông báo với tôi mọi việc tiếp theo. Anh cũng để lại chiếc sơ mi của anh cho thằng bé.

Vào thời điểm đó chúng tôi chưa biết rằng để cầm được cuốn hộ chiếu trong tay lại khó đến mức như vậy. Anh ôm vội tôi lần cuối cùng vào sáng sớm, để lại cho tôi cảm giác đơn độc và trống rỗng vô hạn. Mặc dù chưa biết số phận sẽ đưa đẩy mình tới đâu trong cuộc đời, nhưng tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc vì ít nhất chúng tôi cũng đã có thời gian tạm biệt nhau.

Tiếng còi tàu chết chóc

Nhung tốp lính Pháp rút dần khỏi Việt Nam. Những cảnh tượng kinh khủng và bi đát ngày càng xảy ra thường xuyên hơn. Chiến tranh và hậu quả của nó không loại trừ số phận của những con người dính líu tới nó.

Tại cảng Sài Gòn người ta thấy nhiều tàu thủy, trên lan can tàu có nhiều người lính chen lẫn nhau để quay lại nhìn lần cuối và ghi vào tâm trí mình nơi mình rời xa hoặc để giơ tay vẫy chào lần nữa một cô gái đầm đìa nước mắt.

Chia tay không phải là điều hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Có một hôm, khi đến hỏi về thời gian chờ đợi để có tàu sang Pháp, tôi chứng kiến một chiếc tàu hành khách lớn chuẩn bị rời bến và kéo lên những tiếng còi trầm, da diết nhớ nhung. Tôi thấy một người phụ nữ trẻ mang thai vượt mặt, đứng trên cầu tàu nhìn lên boong tàu với ánh mắt tuyệt vọng vẻ như đang đợi tìm người yêu của mình. Cô tập trung hàng phút tìm trong đám đông trên kia, cho tới khi cô nhìn thấy người mình đang tìm kiếm. Cô gào to và gọi tên anh. Một người lính trẻ lúc này mới để ý và vẫy lại cô liên tục và gọi tên cô. Người phụ nữ trẻ hai tay ôm bụng và gào tên: "Hãy nhìn đây! Thà mẹ con em chết còn hơn là sống không có anh!" Rồi bất ngờ cô lấy đà nhảy ào xuống dòng nước bẩn, nổi bọt đục ngầu do chân vịt tàu quay tít bên bến tàu và chìm nghỉm.

Người đàn ông trẻ đứng trên boong tàu nhìn thấy rõ cảnh kinh khủng này. Tôi còn nghe tiếng kêu gào tuyệt vọng và nhìn thấy những chiến hữu túm chặt lấy anh không cho anh nhảy theo người yêu của mình.

Không phải chỉ có những linh hồn đáng thương này mới bị chiến tranh hủy hoại. Một người khác, gần gũi với tôi, cũng phải chịu số phận bi đát không kém. Cô nàng Sao A Mung xinh đẹp bị tách rời khỏi anh Jean, không kịp nói lời tạm biệt. Vào một hôm, Jean bị dùng vũ lực đẩy lên một chiếc máy bay đưa anh đi xa cô mãi mãi. Sau đó Sao A Mung mất trí. Mỗi lần nhìn thấy máy bay bay qua trên đầu chúng tôi, cô lại lăn xuống đất và gào khóc một cách tuyệt vọng: "Jean! Avion (Máy bay)! Jean". Cô chỉ còn là một cái bóng của chính mình. Quá yếu đuối để có thể quyên sinh, cô để mình rơi vào trạng thái điên dại, trống rỗng và vô cảm.

Món quà sinh nhật

Mấy tháng trời trôi qua, cuộc sống của tôi cũng không dễ dàng hơn chút nào. Tôi vẫn chờ cuốn hộ chiếu của mình, mặc dù tôi đã trả lệ phí cấp hộ chiếu từ cuối tháng Năm, nhưng tất cả dường như vẫn bất động. Mỗi một lần, những công chức phụ trách lại nêu lý đó trì hoãn khác nhau. Luôn luôn phát sinh những "lệ phí" mới và tôi đã phải bỏ ra vô số từ khoản tiền tiết kiệm của mình để chi cho việc này.

Trong khi một phần của thế giới bận tâm tới đề tài chủ nghĩa thực dân và nạn phân biệt chủng tộc thì tại đây, ở miền Nam người ta bắt đầu bắt giam và tống vào trại rất nhiều người bị tố cáo là "cộng sản". Mọi nơi đều lo ngại và bất an.

Phần tôi thì lại còn thêm một rắc rối nữa là tôi lại đã mang thai. Nhất thiết phải có một điều gì đó xảy ra, vì với tư cách một bà bầu tôi hoàn toàn không có cơ hội xuất ngoại.

Trong những bức thư của Marcel mà trong đó anh bày tỏ tình yêu đối với tôi, anh luôn sốt ruột hỏi về tình hình giấy tờ của tôi. Anh không thể hiểu nổi vì sao mọi việc lại lâu như vậy. Anh cũng viết tiếp cho tôi rằng anh phản đối ý kiến của mẹ anh vì bà đang có kế hoạch khác với anh.

Anh cũng thông báo vắn tắt với tôi rằng có nhiều khả năng không lâu nữa anh sẽ phải sang An-giê-ri. Tại đó Pháp đang dính vào một cuộc chiến tranh thực dân mới.

Tôi nhờ một người quen dịch những lá thư của mình ra tiếng Pháp. Tôi kể với Marcel rằng tôi đang ở thế kẹt như thế nào. Tháng Chín tôi lại nhận được tin của anh.

Anh vui mừng vì sắp được làm bố. Kỳ nghỉ phép của anh giờ đây đã kết thúc, đầu tháng Mười anh sẽ phải sang An-giê-ri. Anh cho tôi địa chỉ để tôi gửi thư cho anh và để anh bố trí người đón tôi tại Pháp nếu tôi còn có cơ hội xuất ngoại.

Ông Phan hỗ trợ tôi hết mình. Ông đảm bảo chắc chắn rằng thời điểm thuận lợi cho việc xuất ngoại của tôi sắp đến. Ông thường xuyên khấn tất cả những vị thần linh nhân từ giúp đỡ và phù hộ. Tôi đang khẩn thiết cần những điều này trong hoàn cảnh của mình!

Đây là giai đoạn bất ổn và đầy căng thẳng trong đời tôi, cứ luôn chờ đợi một tin tích cực từ phía một viên công chức có thiện chí. Nhưng mọi điều đều diễn ra trái với mong mỏi của tôi. Trong phố, tôi tình cờ gặp một người phụ nữ đứng tuổi, một người quen thân với ông Phan, ở trên đường. Bà ta tên là Thốt. Thỉnh thoảng chúng tôi cùng nhau uống chè ở chỗ ông Phan. Tôi nghe kể là bà sở hữu vô số nhà ở nhiều khu phố khác nhau. Bà không chỉ giàu mà còn có thế lực. Giờ đây tôi đang đứng trước mặt bà và chúng tôi chào hỏi nhau một cách thân mật.

Bà rất ngạc nhiên, hầu như không thể tin được khi nhìn thấy tôi, bà hỏi: "Cô bé, cô vẫn chưa đi à? Tại sao thế?".

Tôi nói với bà rằng tôi chưa có hộ chiếu. Bà lắc đầu rồi giơ một ngọn tay rồi cùng tôi lên một chiếc xe xích lô để đến tòa công sở. Người ta để chúng tôi đi qua ngay lập tức và tôi nhận thấy rằng khi chúng tôi bước vào tòa nhà, nhiều viên chức đã cúi đầu kính cẩn trước người phụ nữ này. Bà đòi tôi chỉ ngay cho bà viên công chức chịu trách nhiệm về việc của tôi. Bà đến thẳng chỗ ông ta và hỏi với giọng bình tĩnh: "Xin hỏi giấy tờ của cô này ở đâu?".

Tôi đứng đó, trong thâm tâm rất hồi hộp và khá ngượng ngùng. Lúc đầu tôi không tin vào điều mà mắt mình nhìn thấy. Không nói một lời nào và không chần chừ, người đàn ông cúi mình và lấy từ trong ngăn bàn của ông ra một cuốn sổ màu đỏ: cuốn hộ chiếu của tôi! Ông ta vội vã đóng dấu vào đó, ký tên và đưa cho tôi. Người phụ nữ đứng tuổi cám ơn và kêu tôi theo bà ra ngoài, đến chỗ chiếc xích lô đang chờ chúng tôi.

"Xong rồi, cô bé", bà nói một cách vui vẻ với tôi, "giờ thì cô có thể lo thu xếp chuyến tàu cho cô rồi. Tôi chúc cô mọi điều tốt lành".

Tôi chân thành cám ơn bà. Khi tôi hỏi tại sao bà không ra nước ngoài, bà nói với tôi rằng bà đã quá già, không còn muốn xuất ngoại nữa rồi. Bà còn trả tiền xe và chúng tôi chia tay nhau. Từ giờ phút đó tôi mang mãi trong tim lòng biết ơn sâu sắc đối với bà và hành động nghĩa hiệp của bà.

Tôi chắc chắn rằng những lời khấn của ông Phan đã thấu và Trời đã đưa bà đến cho tôi. Khi về tới nhà và tự hào ngắm nhìn cuốn hộ chiếu của mình, tôi thấy đề ngày Mồng ba tháng Mười 1955, ngày sinh nhật đầu tiên của con trai tôi.

Khóc đâu cần nước mắt

Tôi tiếp tục nghe lời khuyên của ông Phan va ngay sau đó tôi đến chỗ Tổ chức cứu trợ Công giáo để hỏi xem tôi phải làm gì. Chẳng mấy chốc, trở ngại tiếp theo đã hiện ra trước mắt tôi.

Khoản tiền mà tôi phải trả để con tôi được chăm nuôi ít nhất một năm lớn hơn nhiều so với tổng số tiền tôi còn. Nó cũng vượt quá giá trị của số đồ trang sức của tôi, và tôi cũng còn cần tiền cho chuyến đi bằng tàu thủy của tôi nữa.

Tôi lại được giúp đỡ. Không đắn đo, ông Phan cho tôi vay số tiền cần thiết. Tôi có thể trả lại ông lúc nào tôi muốn và đương nhiên là chỉ hoàn trả nếu tôi có điều kiện. Đối với tôi ông đúng là còn hơn cả một người anh lớn. Như vậy rào cản này cũng đã được giải quyết. Vì không ai có thể nói chính xác với tôi bao giờ tôi có một chỗ trên những chuyến tàu thường là kín hết chỗ nên giờ đây đã đến lúc tôi phải chia lìa với con trai tôi. Vẫn trong tháng Mười, một buổi sáng tôi cùng với con tôi đến Tổ chức cứu trợ. Cũng như thường lệ, đêm hôm trước con trai tôi trần truồng ngủ thiếp đi trong vòng tay đầy tin tưởng của tôi, tôi cảm nhận làn da ấm và dịu dàng của nó trên làn da tôi. Tôi nhẹ nhàng đứng dậy và ngắm nhìn nó hồi lâu dưới ánh đèn của ngọn đèn ngủ, nhìn nó nằm đó, hơi thở thật nhịp nhàng. Nó còn quá bé bỏng, còn quá phụ thuộc vào tôi. Nó là một phần của chính bản thân tôi! Hôm đó trời mưa to lắm và tôi nghĩ rằng trời đưa tiễn chúng tôi bằng những giọt nước mắt.

Thời gian sau đó thường xuyên mơ về thời điểm phải bàn giao con trai. Một bà xơ người châu Âu thân thiện bước vào căn phòng chúng tôi đang ngồi chờ, một nụ cười nhẹ nở trên làn môi, đôi bàn tay giơ về phía con tôi, đợi chờ.

Tôi xếp lại chiếc dây chuyền của con tôi cho ngay ngắn, trên đó có đeo cây thánh giá nhỏ của cô Bè và tôi ngắm nhìn thằng bé lần cuối cùng. Cặp mắt đen, cái cằm vuông, nốt ruồi trên đuôi mắt bên phải... Tôi nhắm mắt và cà mũi lên trán nó để ghi nhớ cái vị thơm ngọt của nó và thì thào với nó những lời mà nó chưa hiểu được:

"Mẹ phải đi đây. Con ngoan nhé! Sau này mẹ sẽ đến đón con! Tổ tiên chúng ta phù hộ cho con!"

Nó hồ hởi như thường ngày và không hiểu được cái gì đã xảy ra. Khi bà xơ đón nhận nó từ tay tôi một cách trìu mến, nó không khóc. Tôi cũng vậy. Tôi không khóc nổi. Trái tim tôi bỗng nhiên trống rỗng.

Nhân chứng của hạnh phúc

Giờ đây ngày nào tôi cũng ra cảng để hỏi xem có chỗ trống cho tôi không. Đầu tháng Mười một, người ta thông báo với tôi rằng có một bà vừa hoãn chuyến đi của mình và vì thế tôi có thể thế chỗ của bà ta. Và lần đầu tiên hộ chiếu của tôi được đóng dấu xuất cảnh với thời hạn hai tuần. Giờ đây thời gian chỉ tính bằng ngày. Giữa lúc đó, chồng chưa cưới của tôi thông báo sẽ có một cha cố quen biết đón tôi tại cảng Marseille và dẫn tôi đến đúng con tàu đi Tours. Tôi cần phải gửi điện báo cho anh ngay khi tôi biết là mình sẽ đi con tàu nào. Tôi cũng đã làm việc đó và hy vọng rằng giờ đây tất cả mọi việc sẽ trôi chảy. Một lần nữa ông Phan lại chủ động cho tôi tiền để khi đến một đất nước xa lạ tôi không đến nỗi không có đồng nào dính túi. Rồi chúng tôi cùng đi ăn một lần nữa. Và cuối cùng chúng tôi chia tay nhau. Tôi hứa với ông sẽ mãi trân trọng những kiến thức mà ông đã tin tưởng truyền lại cho tôi và ông khẳng định với tôi tình bạn vĩnh cửu của mình.

Sắp đến ngày đi, tôi đến một ngôi chùa ở Chợ Lớn, đó là ngôi chùa do những người nhập cư từ Quảng Đông xây dựng từ thế kỷ trước để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, vị nữ thần biển Trung Hoa phù hộ cho những người thủy thủ. Trong chùa này còn đặt hai bức tượng của Kim Hoa Nương Nương nữ thần sinh nở và Long Mẫu Nương Nương, nữ thần của trẻ sơ sinh và bà mẹ.

Trong hương thơm của những vòng hương khổng lồ treo trên trần, tôi khấn vái và xin xá tội cho tôi vì giờ đây tôi phải lìa xa con tôi và đất nước tôi. Tôi cầu khấn được phù hộ và đứng lặng một phút để chia tay với tổ tiên tôi và mẹ tôi - cội nguồn của tôi.

Một chiếc va li nhỏ đủ để chứa tài sản của tôi, trong đó có một chiếc khăn trải bàn thêu bằng tay rất đẹp cũng như một bộ đồ pha chè bằng sứ tuyệt hảo nhất. Đó là món quà tôi dành cho mẹ chồng tương lai của tôi.

Ngày 10 tháng Mười một 1955, khi những ánh bình minh đầu tiên vừa bừng lên ở chân trời, tôi gọi một chiếc xích lô để đi ra cảng.

Để giấu cái bụng mang thai của mình và để tự vệ trong trường hợp bị cướp và bị dao đâm, tôi dùng vải cứng quấn quanh người. Mái tóc ngắn của tôi được sấy quăn như ảnh những người mẫu châu Âu treo trong các tiệm làm đầu trong thành phố. Tôi đã đổi chiếc áo dài của tôi lấy một chiếc váy và áo sơ mi, bên ngoài tôi khoác một chiếc áo khoác mỏng để tạo cho mình dáng vẻ "văn minh". Tôi đã sẵn sàng!

Nhiều người tụ tập trên bến gần chỗ con tàu đỗ để chia tay nhau. Tôi đi nhanh qua chỗ họ, bỗng dưng tôi tưởng như đứng tim, sóng lưng tôi lạnh toát! Tôi nhìn thấy một người đàn bà đứng trước tôi, bà ta quay lại sau khi giơ tay vẫy một người nào đó, người đàn bà này thì tôi biết quá rõ: Bà cô tôi đứng đó, ném ánh mắt vào tôi.

Bà hầu như không thay đổi mấy. Nét mặt cứng rắn của bà không có thêm một nếp nhăn nào so với thời trước. Những quầng tối, sâu dưới cặp mắt đen và lạnh lùng của bà vẫn còn đó. Chỉ có màu xanh sẫm của chiếc áo dài nhàu nát của bà làm cho bà có vẻ thân thiện hơn một chút. Bà ta đứng lại.

Việc gặp lại con người này trong tình huống này, hoàn toàn bất ngờ, làm tôi bủn rủn đầu gối. Lần đầu tiên sau một thời gian dài tôi mới lại nhớ tới cảm giác thế nào là sợ. Nỗi thất vọng đã kìm nén cảm giác này của tôi từ lâu.

Gặp tôi ở đây, cô tôi cũng bất ngờ đúng như tôi vậy. Cô là người đầu tiên lên tiếng: "Mày mà cũng ở đây? Đừng có nói mày là hành khách trên chuyến tàu này nhé! Làm thế nào mà mày đi được?" Tôi kìm nén và trả lời cũng bằng giọng cứng nhắc như cô, tay chỉ về phía những hành khách ở phía trước.

"Cháu đã làm đúng những gì những người khác ở đây làm!" Tôi bước những bước chân cứng cỏi qua mặt cô và đi về phía cầu lên tàu, không nhìn cô nữa. Tôi cảm nhận được ánh mắt ngờ vực và ghen tị của cô ở sau lưng tôi.

Sau này tôi thường hỏi tôi, ông Trời có ý định gì đấy nhỉ. Tại sao chính người đàn bà độc ác đó lại phải là nhân chứng cho chuyến ra đi của tôi? Liệu bà ta một ngày nào đó có kể với thành viên gia đình tôi về việc này không? Hay đấy là một hình phạt đối với bà khi nhìn thấy tôi trên con tàu này, ra đi đến với tự do, trong khi bà phải ở lại đây? Tôi không bao giờ tìm được câu trả lời.

Khi còi tàu rú lên và con tàu bắt đầu từ từ rời bến, tôi đứng trên boong. Tôi nhớ lại trò đùa tôi đã làm với Hiền, hai chúng tôi đã thổi vào miệng chai, giả làm tiếng còi tàu thủy. Và tiếp sau đó những kỷ niệm lướt qua đôi mắt bên trong của tôi như một bộ phim.

Tôi đã để lại đây, tại Việt Nam, một phần của chính bản thân mình, trong khi cái thai đang quẫy đạp trong bụng báo hiệu rằng không bao lâu nữa, một phần khác của tôi sẽ nảy mầm tại một phương trời xa lạ.