← Quay lại trang sách

Chương bốn - 1 - Những thế giới khác nhau

Biển sâu sóng cả

Tôi vô vọng cố gắng để làm quen với chuyển động chao đảo của con tàu theo các đợt sóng lên xuống, kể cả trên boong tàu lẫn trong căn phòng bé xíu, không có cửa sổ của mình. Tôi phải ở cùng buồng với người đàn bà mà cô tôi vẫy tay chào trước đó. Người tôi nôn nao. Tôi bị say sóng. Tôi khổ sở đến điên cuồng vì sóng biển dữ dội, không có thứ gì và không có ai giúp được tôi.

Hai hôm sau đó, vào ngày mười hai tháng Mười một, khi chúng tôi cặp bến ở Sing-ga-po lần đầu tiên tôi mới hết nôn. Tôi lên bến cảng, đi đi lại lại trên cầu tàu. Rốt cuộc thì đã có khí trời, tôi khoan khoái hít thở sâu như đang có một đặc ân. Ý nghĩ về chuyến vượt biển dài lênh đênh trước mắt khiến lòng tôi đầy sợ âu. Tuy nhiên cảm giác hạnh phúc được có mặt trên con tàu này vẫn còn lớn hơn nỗi dày vò mà tôi phải chịu đựng.

Mấy ngày sau đó chúng tôi đến Columbo ở Ceylon. Tại đây tôi đi chụp ảnh và gửi tấm ảnh được tráng rửa ngay sau đó sang An-giê-ri cho vị hôn phu của tôi. Nó là một tín hiệu về tôi để mang lại niềm vui cho Marcel. Bây giờ anh ấy có thể nhìn thấy là tôi đang trên đường sang châu Âu!

Cả ngày lẫn đêm tôi giữ khư khư tấm hộ chiếu và tiền nong bên người để tránh bị mất cắp. Người đàn bà cùng cabin với tôi thường xuyên có mặt chỗ người quen ở trên cùng hành lang. Đến tối muộn tôi vẫn còn nghe tiếng họ sát phạt chơi bài ba quân.

.

Bởi phần lớn thời gian phải tìm cách để khắc phục cơn say sóng nên tôi không tham gia vào các bài tập chống tai nạn trên biển. Hậu quả của việc này là sau buổi tập đầu tiên có hai thủy thủ xuất hiện ở chỗ tôi. Sau khi gõ cửa và không thấy tôi động tĩnh gì, họ đạp cửa xông vào. Họ thông báo cho tôi biết việc tập luyện là nghĩa vụ và tôi bắt buộc phải tham gia. Tôi vẫn nằm yên, người mệt lả và mặt mày tái nhợt. Tôi trả lời họ một cách khó nhọc:

"Tôi chẳng thiết đến mấy bài tập của các ông! Nếu có phải chết thì tôi sẽ chịu chết! Các ông đừng để ý đến tối, xin cứ để cho tôi yên!" Hai người thủy thủ chưng hửng rời khỏi cabin của tôi và chẳng bao giờ quay lại nữa.

Từ một tuần con tàu của chúng tôi đi trên biển Ả Rập, với đích là Dschibuti ở vịnh Aden. Những đợt biển động khiến tôi không còn ăn được một tí gì nữa. Tôi bắt đầu mất trọng lượng. Chúng tôi hy vọng chẳng mấy chốc sẽ lại có thể được đặt chân trên đất liền.

Vào một ngày biển lặng hơn tôi liều đi lên boong tàu, ở đó tôi thấy một nhóm người nhỏ đứng cạnh thuyền trưởng, mắt trân trân nhìn xuống biển qua thành tàu. Có người kể lại người ta vừa mai táng trên biển thân thể nhỏ xíu của đứa trẻ đẻ non trên tàu trước đó.

Buồn bã tôi quay trở lại cabin của mình. Bây giờ tôi bắt buộc mình ăn một thứ gì đó, cho dù đó chỉ là lát bánh mì đã khô cứng.

Một chuyến rong chơi ngắn

Ở Dschibuti rốt cuộc tôi được lên đất liền. Tôi cảm thấy thật thỏa mãn. Tàu dừng ở bến cảng mấy tiếng và như vậy tôi cho phép mình có một đợt giải lao dài hơn thường lệ. Sau khi đã nuốt chửng cả một suất cá mòi nướng khổng lồ, tôi quyết định đi tham quan các dãy phố mua bán.

Suốt thời gian tôi cứ lượn đi lượn lại, đắm chìm trong bao ấn tượng ập vào mình. Chỉ đến khi có một tiếng còi tàu vọng đến từ rất xa tôi mới giật mình choàng tỉnh - đây chính là con tàu của tôi! Hoảng hốt tôi quay ngoắt lại, tuy nhiên chẳng ai có thể hay tỏ ra muốn hiểu tôi. Thay vào việc chỉ đường cho tôi đến hải cảng, những người buôn bán lại tiếp tục chào hàng và tìm cách túm chặt lấy cánh tay tôi. Cuối cùng tôi chọn bừa một hướng để trở lại tàu.

Tim tôi đập thình thịch lên tận cổ và người tôi ướt đẫm mồ hôi khi tôi nhìn thấy một chiếc xe Jeep với hai thủy thủ. Tôi tuyệt vọng vẫy bằng cả hai tay ra hiệu và đã gặp may: Họ đã dừng xe lại. Tôi bắt chước tiếng còi tàu và chỉ vào đồng hồ trên tay của họ.

Hai người thủy thủ hiểu ngay lập tức và cho tôi lên xe. Như tôi đã đoán từ trước, họ đi ngược với hướng mà tôi chọn trước đó. Sau những phút đầy lo lắng, cuối cùng chúng tôi đã đi đến bến cảng. Thở phào nhẹ nhõm, tôi hôn lên má hai người thủy thủ theo yêu cầu của họ, trước khi họ mang tôi tới tàu. Chỉ một lát sau đó tàu nhổ neo.

Lại thêm một lần nữa tôi đã gặp may! Tuy nhiên chuyến rong chơi mạo hiểm ngắn đã để lại hậu quả, tôi quyết định từ nay cho đến khi cặp bến ở Marseille sẽ không rời khỏi con tàu nữa.

Làm ơn phải tội

Chúng tôi bỏ lại Biển Đỏ ở phía sau và đi qua kênh đào Suez rồi cặp bến ở Port Said. Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi chặng hành trình tiếp theo ở Địa Trung Hải diễn ra yên ả hơn nhiều. Và rốt cuộc: Vào ngày 1 tháng Mười hai năm 1955 tàu đã cặp bến ở Marseille! Tôi đã đạt được mục tiêu của mình, tôi đã đến nước Pháp!

Một cách kiên nhẫn tôi nhập vào hàng người đứng trước nơi kiểm tra hộ chiếu. Mặc dù chúng tôi đứng sát nhau, tôi vẫn cảm thấy thời tiết lạnh lẽo như thế nào. Bất giác tôi nhớ về những ngày giá rét ở miền Bắc Việt Nam.

"Bonjour, Madame!", người cảnh sát cửa khẩu chào tôi một cách thân thiện. Ông ta mỉm cười, đóng dấu vào hộ chiếu của tôi và cho phép tôi đi tiếp.

Tôi đứng đợi tại sảnh chờ, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Bây giờ thì sẽ rõ liệu Marcel có cho người ra đón tôi hay không. Sau ít phút một người đàn ông dáng người tròn trĩnh, da tái xanh, nhưng toát lên vẻ thiện cảm, cầm một tấm ảnh trên tay đi thẳng đến chỗ tôi và chỉ cho tôi người chụp trên ảnh - chính là tôi. "Xin lỗi, có phải cô là người phụ nữ này? Vợ đính hôn của Marcel?" Đấy là vị mục sư đã được báo trước trong thư; một thầy giáo cũ của Marcel đã nhờ ông đi đón tôi và đưa tôi đến đúng chuyến tàu về Tours.

Ông cho va li của tôi lên xe và chở tôi ra nhà ga. Ở đó ông mua giúp tôi vé tàu bằng tiền do tôi đưa. Ông giải thích cho tôi rằng đến Lyon thì tôi phải đổi tàu.

Sau khi ông đưa tôi lên một khoang trống trên tàu, tôi hỏi ông tiền công cho việc giúp đỡ tôi là bao nhiêu. Ông chỉ lắc đầu một cách nhã nhặn.

"Chắc chắn là cô sẽ còn phải cần tiền", ông nói trước khi chúc tôi mọi điều tốt lành và chia tay.

Con tàu vừa chuyển bánh thì có bốn người phụ nữ trẻ vào ngồi ở chỗ tôi. Chúng tôi trò chuyện với nhau và chẳng mấy chốc thì tôi biết họ làm nghề mại dâm. Họ trên đường đến Paris. Họ hỏi liệu tôi có muốn làm việc cùng với họ ở đó như một thứ "của lạ" hay không. Chắc chắn là tôi sẽ kiếm được bộn tiền... Khi nhận thấy chẳng ăn thua gì thì họ để cho tôi yên.

Ở Lyon tôi xuống tàu. Bởi không biết phải đi tiếp bằng tàu nào, tôi hỏi một người lính trẻ đứng trên ga. Được tặng một ổ bánh mì có nhân thịt to tướng, anh ta dẫn tôi đến đường ray đúng. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể trả tiền để đền ơn anh ta hay không, người lính gật đầu. Bởi tôi chưa biết cách tính tiền Pháp, tôi đưa cho anh ta hai nghìn trong số mười lăm nghìn đồng Franc mà tôi mang theo người.

Người lính trố mắt, nhưng không hề do dự, cầm số tiền và biến mất tăm ngay. Mãi về sau này tôi mới biết là sự giúp đỡ của người đàn ông trẻ này đã gây cho tôi một thiệt hại lớn chừng nào.

Lửa và băng giá

Lúc ấy đã là vào đầu giờ chiều, khi tàu của tôi vào nhà ga chính ở Tours. Trong chuyến đi dài tôi đã ngắm nhìn phong cảnh một màu nâu xám trơ trụi của quê hương mới, rồi sau đó đắm chìm vào một giấc ngủ sâu.

Chỉ khi con tàu phanh rít lại tôi mới bừng tỉnh dậy. Một giọng phụ nữ đơn điệu vang lên từ các loa phóng thanh: "Tours! Tours!".

Tôi xuống tàu và đôi mắt tìm người đàn bà chẳng mấy chốc sẽ trở thành mẹ chồng của tôi. Tôi cảm thấy những cái nhìn ngạc nhiên và tò mò hướng về phía mình - ở chốn này có lẽ tôi là người phụ nữ châu Á duy nhất.

Chẳng mấy chốc thì tôi phát hiện ra bà. Bà chờ ở phía đầu đường ray. Khi nhìn thấy tôi, bà lập tức đến ngay chỗ tôi. Trong lúc tiến lại gần nhau, người nọ quan sát người kia.

Bà có dáng người cao dong dỏng, lưng thẳng cứng, bước đi toát lên vẻ kiêu hãnh. Bộ váy áo được chăm chút cẩn thận vừa như in. Ví đầm của bà hợp không chê được với bộ váy áo. Mái tóc màu nâu sáng cắt ngắn và uốn cong theo phong cách tân thời làm tôn những nét tinh tế trên gương mặt bà. Đôi môi bà bất động, còn ở cặp mắt của bà thì tôi không dám chắc chúng có màu diệp lục hay màu nâu. Liệu đây có phải là một vẻ đẹp "tư sản" đích thực?

Cái nhìn của bà khiến tôi cảm thấy còn nhỏ bé hơn cả so với chiều cao một mét bốn mươi lăm trong thực tế của mình. Tôi cảm thấy mỏi mệt vì chuyến đi dài và vì cảm xúc xáo trộn. Áo quần của tôi nhăn nhúm, chiếc va li nhỏ lòi lõm do bị va đập. Có nghĩa là tôi thật khác với người đàn bà đang tiến lại gần mình. Và tôi lại đang có thai nữa!

Tôi đặt va li xuống đất và tặng bà một nụ cười đầu tiên thân thiện. Nhưng động tác ôm hôn mà tôi chờ đợi từ bà đã không đến. Người đàn bà cao hơn tôi gần hai cái đầu này đứng trước tôi, với một nụ cười khách khí. Bà chỉ chìa tay về hướng tôi và giữ một khoảng cách hết tầm sải tay cho phép.

"Chắc hẳn cô là Jacquie? Cuối cùng thì cô cũng đã tới đây. Cô có nói tiếng Pháp không? Cô có hiểu được tôi không?"

Ngạc nhiên vì bà gọi tôi là "Jacquie" và hơi có cảm giác bị uy hiếp bởi khoảng cách mà bà tạo ra, tôi gật đầu xác nhận.

"Tôi là mẹ của Marcel. Cô có thể gọi tôi là Paulette. Con trai tôi đã kể bao nhiêu điều về cô! Và tôi chỉ nghe toàn là những điều tốt đẹp!"

Một cách thẳng đuột, như tính cách của tôi vẫn vậy, tôi không thể nén được câu trả lời: "Tôi biết mà, tất cả những điều đó có hết trong các thư gửi cho con trai bà".

Tất nhiên đây là một khởi đầu tồi tệ. Da mặt bà ngay lập tức ửng đỏ. Sau đó bà nói tiếp một cách kiềm chế:

"Con trai tôi đã thuê một căn hộ vùng nông thôn nằm ở ngoài thành phố cho cô. Cô có biết không, thật chẳng dễ dàng gì để có thể tìm được chỗ ở cho một người như cô. Đây là một tình huống rất khó xử, và tôi thì chẳng muốn làm phiền toái gì đến ai cả. Nhưng mà bây giờ thì đằng nào cô cũng đã đến đây. Hôm nay tôi sẽ mang cô đến khách sạn. Đáng tiếc là tôi không thể để cô tá túc trong căn hộ của tôi, bởi vì màu da của cô sẽ gây kinh động. Tôi muốn tránh không để người ta nhìn thấy cô ở chỗ tôi, đặc biệt là trong tình trạng này!"

Bà ném cái nhìn lên chiếc áo khoác giấu khá tốt cái bụng chửa của tôi.

Và như vậy chúng tôi đi đến khách sạn ở trung tâm thành phố mà không nói tiếp lời nào. Bà dẫn tôi đến tận phòng và hẹn gặp lại vào ngày mai, sau đó lên taxi trở về nhà.

Tên gọi nào thì cũng vậy

Vì đã mệt lử nên tôi ngủ thật say. Vào sáng hôm sau âm thanh giao thông của thành phố giờ sáng sớm đã đánh thức tôi dậy. Tại một phòng ăn sáng nhỏ, một người bồi bàn toát lên vẻ thân thiện mang đến cho tôi cà phê sữa và hai chiếc bánh croissant với mứt. Tôi ăn hết tất cả và đặt thêm một phần y hệt - bụng tôi đang đói ngấu nghiến.

Một lát sau thì Paulette đến. Tôi trả tiền phòng, rồi chúng tôi lên một chiếc taxi đang chờ. Chúng tôi rời thành phố và đi qua một số ngôi làng nhỏ, sau một tiếng thì chúng tôi đến một nông trại cũ kỹ nằm ở một nơi hoàn toàn hẻo lánh. Nó đã bị để hoang phế từ bảy đời tám hoánh nào. Nông trại gồm một tòa nhà chính, nơi ở của chủ nông trại, và một ngôi nhà ngang nhỏ, trước đây được dùng làm nhà kho chứa nông cụ. Vậy ra đây sẽ là chốn ở mới của tôi!

Một người đàn bà trung niên béo tốt, má đỏ au, bước ra chào chúng tôi. Bà ta là chủ cho thuê nhà. Paulette đã giải thích cho tôi rằng Marcel đã trả trước tiền thuê nhà cho cả một năm. Bà góa chồng. Bà không hề tìm cách giấu diếm sự ngạc nhiên của mình về vẻ ngoài của tôi. Sau khi nhìn tôi chòng chọc từ mọi phía, bà nói rằng chưa bao giờ nhìn thấy một người phụ nữ châu Á.

Trên lối vào căn hộ của tôi, chúng tôi đi qua một chuồng lợn cũ. Căn hộ thực ra chỉ là bốn bức tường với một tấm vách ngăn ở giữa, mái nhà và mấy cửa sổ nhỏ. Marcel đã mang tới đây hai chiếc giường xếp mỏng và đặt sẵn một túi ngủ lên một chiếc giường. Một chiếc bàn gỗ với một chiếc ghế, một lò sưởi nhỏ khiến tôi nhớ đến cơn lạnh khủng khiếp và một chiếc tủ thấp nhiều ngăn là toàn bộ đồ gỗ. Không có bếp. Cầu tiêu nằm ở bên ngoài.

Ánh mắt tôi chạm vào mô hình một ngôi chùa màu đỏ tuyệt đẹp đặt trên chiếc tủ. Khi tôi lại gần để nhìn rõ hơn, Paulette nói:

"Con trai tôi làm cho cô đấy. Để cho cô có một kỷ vật về đất nước mình."

Tôi cảm thấy xúc động. Marcel còn lắp cho tôi một cái bàn thờ, đó là cả một tác phẩm nghệ thuật được ráp lại từ hàng bao nhiêu mẫu gỗ. Cho dù nơi ở mới của tôi không hề có một chút tiện nghi nào thì tối thiểu tôi đã có một thứ giúp cho mình chịu đựng được thời gian ở chốn khỉ ho cò gáy này.

"Củi đốt thì cô có thể mua ở chỗ tôi", người đàn bà thông báo cho tôi, ánh mắt lóe lên. Cả Paulette cũng run lên vì rét và kéo chiếc áo khoác bó sát hơn vào bộ váy áo sang trọng ở bên trong. Bà giải thích rằng tôi có thể đến ở làng bên cách đây "chỉ" khoảng ba cây số để mua bánh mì. Ở đó cũng có một phòng khám bác sĩ. Ngoài ra những người buôn bán lưu động cũng đều đặn rẽ qua nông trại để rao bán các thực phẩm thiết yếu nhất. Khi cần thiết thì tôi có thể gọi xe taxi để đi đến Tours.

Bà hỏi liệu tôi có hài lòng với căn hộ không. Khi tôi gật đầu không hề do dự, bà hầu như không giấu nổi sự ngạc nhiên. Làm sao mà bà có thể biết được điều tôi đang nghĩ. Có bao thứ tôi từng trải qua, có biết bao đêm tôi đã ngủ trong cảnh màn trời chiếu đất. Tôi chỉ cần nhớ đến những điều đó. Còn cuộc sống dư dật mà về sau này tôi cũng từng có được ở quê hương thì từ lúc này trở đi tôi phải gạt hẳn ra ngoài ký ức. Từ nay tôi và con tôi bắt đầu một cuộc đời tự do, và chỉ có điều này mới đáng kể! Tôi cảm thấy hài lòng thực sự.

Bà chủ vội vã quay trở ra, khi từ phía nhà bà vang lên tiếng khóc của một đứa trẻ. Paulette trao cho tôi địa chỉ của bà - chỉ là cho trường hợp khẩn cấp, như bà nói. Bà lại chìa tay cho tôi: "Thôi... tôi phải đi đây. Xe taxi đang chờ. Tạm biệt, Jacquie."

"Xin cám ơn về sự giúp đỡ của bà. Nhưng tôi tên là Loan, không phải Jacquie", tôi trả lời. "Hừm, cô biết không, Marcel thường vẫn kể với tôi về quán bar của cô có tên là 'Chez Jacquie'. Cô là chủ quán ở đó mà, có đúng vậy không? Cái tên Jacquie nghe hay hay và tôi thấy thích hơn là tên kia. Mà đằng nào thì tôi cũng chẳng nhớ nổi nó", bà đáp lại, giọng ngọt như mật ong.

Tôi đoán là cãi nhau với người đàn bà ngang ngược này chỉ tốn công vô ích. Bà ta lên taxi, và tôi vẫy tay chào. Tôi quá hiểu là bằng cách đó bà ta muốn đối chất tôi với một phần quá khứ của mình.

Nhưng mà bà ta nào có hay biết gì về tôi, mà nói cho cùng thì tôi cũng chẳng mảy may quan tâm đến điều đó. Tôi là tôi, chỉ đơn giản như vậy! Bất luận ra sao. Bà ta muốn gọi tôi như thế nào cũng được, đó là việc của bà.

Và bà sẽ làm như vậy, cho đến tận cuối đời.

Một góc quê hương

Thân đơn thế côi tôi bắt đầu tổ chức cuộc sống của mình. Marcel được mẹ anh thông báo rằng tôi đã đến nơi an toàn. Tôi nhận được một lá thư của anh, anh viết rằng anh hy vọng sẽ có một kỳ nghỉ phép ngắn, nhưng chắc không phải là trước khi đứa con của chúng tôi ra đời.

Vậy là tôi phải lo sao cho có đủ mọi dự trữ cần thiết trước khi sinh. Củi đốt thì tôi lấy từ bà chủ nhà. Về sau này thì tôi được biết bà ta bán cho tôi với giá quá đắt, nhưng mà tôi còn biết làm gì khác! Cái lạnh ở châu Âu là cả một vấn đề đối với tôi, và đồng thời là một thách thức. Mặc dù đi ngủ với cả bộ quần áo ấm nhất nhưng tôi vẫn rét run cả ngày lẫn đêm. Tôi đẩy chiếc tràng kỷ của mình sát vào lò sưởi và ngủ luôn ở đó.

Cứ hai tuần tôi lại đi bộ tới làng bên để mua một chiếc bánh mì nặng hai cân tại một hiệu bánh nhỏ ở đó, mỗi lần như vậy tôi lại bị ánh mắt tò mò của dân làng theo đuổi. Tôi cũng đến vị bác sĩ sống trong làng và nhờ ông thỉnh thoảng ghé qua khám cho tôi thời điểm sinh con vào giữa tháng Giêng. Rau quả thì cứ hai lần trong tuần có người bán hàng rong mang đến. Mỗi lần tới nơi với chiếc xe Citroen cũ kỹ màu xám, ông ta lại bấm inh ỏi để báo hiệu.

Thay chỗ bếp nấu, tôi đi kiếm ba cục đá to hình ôvan, tạo thành một bếp lửa nhỏ trong nhà. Nhiều năm về trước, bố tôi đã chỉ cho tôi cách làm như thế nào.

Trong nhà có nước máy. Bởi vì tôi chỉ có một cái nồi, một ấm nấu nước, hai chiếc dĩa, hai con dao, một thìa ăn và một cái chậu nhựa nên chẳng có gì nhiều thứ để rửa.

Chỉ có trưởng làng và bác sỹ là có điện thoại. Nếu muốn đi taxi ra thành phố thì tôi phải vào trong thôn và đặt xe ở một quầy bưu điện nhỏ. Tuy nhiên về sau này thì người lái xe taxi cứ vào những ngày hẹn lại đến đón tôi trực tiếp tại nhà.

Ở thành phố lớn Tours tôi nhanh chóng tìm được những nơi cần đến. Trong các cửa hàng ở đó cũng có một hiệu bán đồ châu Á. Thật sung sướng chừng nào khi vừa bước qua cánh cửa thì mùi quen thuộc của các gia vị quê hương đã xộc ngay vào mũi.

Bởi lượng tiền dự trữ cạn đi thật nhanh, tôi chỉ mua thứ gạo hẩm vốn chỉ dùng làm thức ăn gia súc. Tuy nhiên tôi đã tự thưởng cho mình một chai nước mắm mà ở đây được bán với giá cắt cổ.

Về đến nhà thì tôi được tận hưởng một khoái lạc thật sự khi được nếm vị nước mắm đã từ lâu không còn biết đến. Tôi bảo quản nó như một báu vật và chỉ chắt từng giọt để dùng. Chủ cửa hiệu châu Á là một bà cụ người miền Bắc Việt Nam có chồng người Pháp và sống ở Pháp từ lâu. Qua bà và qua một số người Việt Nam đến đây mua các thứ hàng hóa được coi là của lạ, tôi nhận được nhiều thông tin bổ ích về cách sinh sống ở môi trường mới.

Những cuộc trò chuyện như vậy chỉ kéo dài ít phút, nhưng cái cảm giác được gặp mặt người khác và nói vài lời với họ bằng tiếng mẹ đẻ mang đến cho tôi niềm hạnh phúc trong cảnh cô đơn. Cùng nhau chúng tôi hồi tưởng về quê hương, và cứ mỗi một câu chia sẻ, hình ảnh đẹp đẻ về quê hương ấm áp mà ở đó con người chào ngày mới với một nụ cười trên môi lại hiện về trong tâm trí. Những màu sắc, hương vị và giọng nói hòa quyện trong những câu chuyện kể và đẩy lùi lại phía sau, một cách vô thức, chiến tranh và sự khốn cùng là các nguyên do đã dẫn chúng tôi đến đây. Chúng tôi cười ngặt nghẽo về sự sợ hãi của người Pháp trước người châu Á về việc họ có thể cho vào nồi các loại chó mèo bị họ bắt gặp...

Nhưng sau đó lại đến lúc chia tay, và tôi lại phải trở về nhà. Mọi người ở đây đều có ai đó chờ họ ở nhà hay người mà họ chăm sóc. Họ có một mái ấm. Còn tôi thì phải giữ cho riêng mình tất cả cảm xúc trong bốn bức tường ở một nơi chốn hoàn toàn hẻo lánh.

Phải sống dưới những điều kiện thô sơ, gần như cổ xưa, đó không phải là vấn đề đối với tôi. Cái khiến tôi bất an là tình trạng hoàn toàn cô độc của mình. Tôi sợ hãi là mình sẽ bị héo mòn ở chốn này.

Tôi sống hoàn toàn một mình và nhớ nhà một cách khủng khiếp.