- 2 - Những thế giới khác nhau
Đằng sau một khuôn mặt
Với thời gian, tôi dần làm quen bà chủ nhà. Sau khi tôi hỏi liệu mấy đứa trẻ con có phải là con bà thì bà kể sau khi chồng chết bà làm công việc nuôi trẻ. Sở xã hội giao cho bà trong mỗi đợt từ hai đến ba đứa trẻ mồ côi cả bố lẫn mẹ, hoặc mồ côi bố hay mẹ.
Tôi thấy bà thật dễ thương khi đón nhận nhiệm vụ đầy trách nhiệm và nặng nề này. Lũ trẻ sống một thời gian ở nhà bà và tha hồ vùng vẫy. Chẳng mấy chốc tôi tiếp xúc với chúng còn nhiều hơn với bà. Thực tình mà nói tôi chẳng có gì để trao đổi cùng bà.
Vào thời gian đầu bà nhiều lần mời tôi sang chơi, và ngay lập tức, gần như sỗ sàng, mời tôi một cốc rượu vang đỏ. Khi tôi từ chối và nói rằng mình không thích rượu, bà hồ hởi giải thích cho tôi rằng ở Pháp, đặc biệt là ở vùng nông thôn, uống rượu vang là chuyện thường tình. Mà làm vậy còn tốt cho sức khỏe.
Tiếp theo đó bà bình thản nhét nút đậy vào chai, uống một hơi hết cốc của mình, sau đó là cốc dành cho tôi. Bà không tỏ ra tự ái, có lẽ chỉ hơi buồn một chút, vì không tìm được ở tôi một người bạn nhậu.
Khi chứng kiến tửu lượng của người đàn bà này, tôi lại nhớ tới con gấu bị say rượu của mình. Tôi cũng ngạc nhiên về bao nhiêu là vỏ chai xếp hàng trong góc bếp dưới sưởi ấm của bà. Rõ ràng là ở đây người ta cũng có thói quen tích góp mọi thứ, đằng nào thì đây cũng là một chốn khỉ ho cò gáy.
Vào một ngày tôi gõ cửa bà để mượn bao diêm. Tôi giật mình khi nghe giọng nói líu lo của bà bảo tôi vào nhà. Tôi bước vào. Bà ngồi trên một chiếc ghế, phía trước mặt ở trên bàn là một cốc rượu vang đầy, cạnh đó là một vỏ chai rỗng, bà nhìn tôi trân trân, mặt mũi đỏ gay. Khi có một đứa trẻ đến chỗ tôi, chắc vì muốn được chơi cùng, thì bỗng nhiên bà ta đứng bật dậy, hai tay túm lấy tai nó, nhấc bổng đứa bé tội nghiệp đang khóc thét, kéo nó đi mấy mét rồi đặt phịch xuống một chiếc ghế cứng. Và bà ta nói, lưỡi đã líu lại:
"Tao đã bảo rồi, cứ ngồi yên ở đấy!"
Tôi phẫn nộ nói với bà rằng người ta không không bao giờ được phép nhấc trẻ con lên bằng cách đó. Bà ta chỉ cười và nói: "Không sao mà! Không sao mà!".
Tôi lấy mấy que diêm từ chiếc hộp lớn và cám ơn, trước khi rời khỏi nhà bà với tâm trạng bàng hoàng. Từ ngày này tôi thề sẽ phải để ý đến người đàn bà dường như coi việc hành hạ trẻ con là một thứ thú vui này.
Có học mà vô minh
Giữa chừng Paulette mang theo một người em gái của bà đến thăm tôi. Bà này tên là Jeanne, tóc màu sẫm cũng cắt rất ngắn, thấp hơn Paulette, hơi mủm mỉm và còn lâu mới đẹp bằng bà chị. Nhìn vào phong cách thì bà có vẻ có một cá tính sôi nổi hơn Paulette. Cả hai chẳng mang theo một thứ gì và ngay lập tức từ chối khi tôi mời họ uống trà. Cũng may là như vậy bởi tôi quên rằng mình chỉ có một bát uống nước, chứ không có tách trà hẳn hoi.
Chuyến thăm của họ dường như chỉ để thỏa mãn sự hiếu kỳ, hơn là để thăm hỏi của tôi. Họ thị sát chỗ ở của tôi, và tôi nhận thấy họ ngạc nhiên như thế nào khi mục kích bếp lửa đơn sơ của tôi. Rốt cuộc thì họ cũng hỏi thăm tình hình của tôi, tôi trả lời họ là lịch sinh em bé của tôi nằm vào nửa sau của tháng Giêng. Chẳng mấy chốc sau đó họ lại lên xe taxi và rời nhà tôi mà không nói thêm một lời nào.
Từ khi tôi đến đây họ không phải là người duy nhất mặc dù tiết trời lạnh lẽo nhưng rõ ràng vẫn có cái hứng thú thỉnh thoảng dừng lại cạnh nông trại để đảo chân và giết thời gian bằng cách quan sát tôi. Lời đồn đại có một người đàn bà châu Á sống ở đây đã lan truyền với tốc độ cực nhanh, và như vậy tôi đã trở thành cái đích tham quan của một số dân làng không còn điều gì hay hơn để làm.
Vào một ngày có một người đàn ông, một người công nhân, dám đi vào đến tận cửa nhà bà chủ cho thuê nhà của tôi. Ông ta biết bà này và tìm cách bắt chuyện ngay khi thấy bà xuất hiện. Và bởi vì tôi vừa đi dạo quay trở về, bà giới thiệu tôi với ông. Ông ta cũng chỉ đợi có thế.
Ông ta vô cùng tò mò và ngay lập tức hỏi về lý do tại sao tôi sống ở đây. Bà chủ nhà trả lời hộ tôi và mời chúng tôi vào nhà rồi mời người đàn ông một cốc rượu vang và tôi một cốc nước. Bà vui mừng vì lại có người qua chơi.
Người đàn ông tỏ ra dễ chịu và tỏ ra quan tâm đến các phong tục tập quán của nước tôi, tôi cũng vui lòng trả lời nhiều câu hỏi của ông. Khi tôi hỏi ông đã sang Việt Nam chưa thì cả hai người phá lên cười. Người đàn ông lắc đầu và nói lần đầu tiên mới nghe đến tên đất nước này và không biết nó nằm ở đâu. Tôi choáng váng nhận ra là vẫn có những người thiếu hiểu biết và vô cảm, mặc dù nước Pháp trong hàng thập kỷ đã cử bao nhiêu thanh niên trai tráng sang Việt Nam và có nhiều người đã bỏ mạng cho mẫu quốc ở đó.
Điều này khiến tôi thật sự rất ngạc nhiên.
Một vị thầy thuốc liều lĩnh
Trong nhiều lần đi dạo tôi thấy trẻ em thường nô đùa và đi xe đạp trên các cánh đồng lân cận. Tôi mua một gói kẹo để tặng chúng, nếu lũ trẻ không còn thấy e ngại trước tôi. Phải mất một thời gian tôi mới cho được chiếc kẹo đầu tiên. Ranh giới ngăn cách qua đó được xóa bỏ, tính tò mò đã chiến thắng. Lũ trẻ từ đây đều đặn đến thăm tôi và nhận kẹo. Nhưng việc này phải giữ bí mật. Một cậu bé tiết lộ cho tôi rằng bố mẹ cậu cấm không được đến gần tôi, đặc biệt là không được bắt chuyện. Tôi tìm cách giải thích thái độ này và dần dần hiểu rằng ở đây người ta cần rất nhiều thời gian để có thể mở lòng mình. Nhưng nào tôi có thể làm được gì - sự đời là như vậy. Lịch sinh con của tôi ngày càng xích lại gần hơn, và tôi đã chuẩn bị sẵn mọi thứ cho việc trở về từ bệnh viện. Vào một buổi sáng, khi thấy có dấu hiệu chuyển dạ, tôi sang chỗ nhà bà chủ. Bà cử một thằng bé đi xe đạp vào xóm để đón ông bác sĩ.
Thay vào việc ngồi xuống chiếc ghế mà bà đưa cho, tôi đi đi lại lại trong căn bếp, hai tay ôm chặt lấy cái bụng kềnh càng.
Tôi không sợ hãi rằng trong trường hợp cấp bách sẽ phải tự sinh con.
Cho đến lúc thằng bé thở hổn hển quay trở về thì gần một tiếng đồng hồ đã trôi qua. Sau đó chúng tôi nghe tiếng động cơ xe máy. Đây phải là người bác sĩ! Những gì chứng kiến sau đó khiến tôi trong phút chốc quên cả cơn đau đẻ: Ông bác sĩ có ý định chở tôi ngồi phía sau lưng ông trên chiếc xe Vespa bé xíu tới bệnh viện ở Tours nằm cách đây hơn ba mươi cây số. Ông không có ô tô.
Tôi kiên quyết phản đối. Thà rằng tôi sinh con ở đây còn hơn trên chiếc xe máy của ông! Khi thấy tôi không chịu nghe, ông quyết định đi gọi một người hàng xóm có ô tô. Ông ta bỏ đi, và tôi lại tiếp tục chờ đợi.
Người hàng xóm chở tôi đến bệnh viện một cách cẩn trọng và khẩn trương. Ông ta là một người rất chu đáo, thậm chí ông còn ở lại bên tôi, cho tới khi có một nữ y tá đến chăm sóc tôi.
Việc sinh nở diễn ra không có sự cố gì. Vào ngày 19 tháng Giêng 1956 tôi sinh một con trai. Khi người nữ y tá cho tôi xem con, trong một tích tắc tôi vụt nghĩ đến con trai Marcel của tôi. Từ đáy lòng tôi cầu mong cho con hạnh phúc và sức khỏe, trước khi âu yếm ngắm đứa con chung của tôi và Marcel.
Lộc trời
Tôi đặt tên con là Jean-Pierre. Ngay sau đó Paulette đến thăm tôi. Từ ông bác sỹ bà nghe tin tôi đã sinh con ở bệnh viện. Bà ngây ngất bởi đứa bé và mang theo quần áo trẻ sơ sinh cũng như đủ thứ đồ vệ sinh. Qua đó bà đã mang lại cho tôi rất nhiều niềm vui.
Sau ít ngày thì một chiếc xe taxi chở tôi và con trai về nhà. Jean-Pierre ngay từ đầu là một đứa bé xinh xắn và lớn lên trông thấy trong thời gian bú sữa. Tôi tự hào là đã có thừa đủ sữa mẹ để cho con bú!
Phải đến tháng Hai thì Marcel mới có thể về phép để thăm chúng tôi, nhưng chỉ trong vòng bốn ngày. Đất ở phía ngoài đóng băng đông cứng. Anh về bằng cách đi nhờ xe, đoạn cuối cùng thì cuốc bộ, chiếc ba lô lính đeo trên vai. Về tới nhà thì cả người anh đã lạnh cóng. Tôi vui mừng là đã giữ căn nhà đơn sơ của chúng tôi đủ ấm. Chúng tôi thật hạnh phúc khi được gặp lại nhau sau cả một thời gian dài xa cách. Marcel nhấc bổng tôi lên và ôm tôi thật chặt trong vòng tay anh. Jean-Pierre đang ngủ. Anh kiễng ngón chân nhẹ nhàng đi đến chỗ chiếc nôi là quà tặng của Paulette cùng với chiếc xe đẩy. Trông anh thật hạnh phúc.
Khi tôi hỏi tại sao không về nhà bằng taxi anh nói là tiền phí quá đắt. Ngay lập tức tôi cảm thấy bị cắn rứt lương tâm. Từ lúc sống ở đây tôi đã nhiều lần đặt taxi vào thành phố, một phần cũng là để chạy trốn khỏi sự cô đơn. Chưa bao giờ tôi ý thức về điều đó như trong khoảng khắc này. Từ nhiều tuần nay tôi cũng chẳng bận tâm nhiều đến chuyện tiền nong. Trong tương lai tôi chắc chắn tôi phải lo việc kiếm tiền!
Paulette mời ba chúng tôi đến uống cà phê ở nhà bà. Căn hộ của bà nằm ở trung tâm, tuy nhỏ nhưng rất tinh tươm, và tôi ngạc nhiên nhận thấy khoảng cách giữa căn hộ của bà và căn phòng đổ nát mà tôi đang sống khủng khiếp biết chừng nào.
Marcel không có nhiều thời gian cho những chuyến viếng thăm như vậy. Trong lần về Pháp cuối cùng anh đã lo mọi giấy tờ cần thiết cho việc kết hôn của chúng tôi. Anh hy vọng sẽ có một tin tức khả quan về lá đơn cuối cùng anh đặt ở Đại sứ quán Việt Nam, tuy nhiên người ta cho anh biết vẫn chưa có trả lời. Thất vọng anh lại gửi tiếp một đơn mới, biết đâu có thêm cơ hội.
Vào sáng ngày thứ ba Marcel vẫn đang ngủ say. Trước đó chúng tôi nói chuyện với nhau gần cả đêm. Tôi thức dậy cho con bú và vừa cho thêm gỗ vào than hồng và rót nước vào siêu để chuẩn bị đun chè. Tôi đến cánh cửa sổ để cạo lớp băng vào buổi tối đóng ở phía trong mặt kính và nhìn ra ngoài. Và tôi ngỡ ngàng nhận thấy một điều kỳ diệu. Nó xảy ra ở đây, ngay trước mặt tôi! Hàng trăm, hàng ngàn, có lẽ đến hàng triệu viên đường đang từ trên trời rơi xuống, ngay trước cửa nhà chúng tôi!
Nhanh hết mức, tôi dọn sạch quần áo từ hai thùng các tông. Tôi lấy thêm cả cái nồi, chiếc xô nhựa từ góc nhà rồi vội vàng chạy ra ngoài, trước khi điều kỳ diệu trôi qua. Tôi đặt mỗi thứ thùng, xô, nồi dưới bầu trời xám và quỳ gối cảm tạ. "Pháp là một đất nước thật may mắn! Ở đây đường rơi xuống từ trên trời, còn ở Việt Nam thì chúng tôi phải lao động khổ ải trên đồng ruộng! Xin tạ ơn Trời!" tôi kêu to và vui mừng khôn xiết khi các thùng, xô, chậu cứ đầy dần.
Marcel xuất hiện bên cạnh cửa mà do quá xúc động tôi đã quên khép lại và hỏi tôi đang làm gì, giọng vẫn còn ngái ngủ. "Đường! Đường!", tôi kêu lên hạnh phúc. Anh mỉm cười lắc đầu. Chúng tôi ngồi vào chỗ ấm rồi anh giải thích, trong lúc tôi vẫn còn đang run bắn vì lạnh và háo hức, rằng đây không phải là đường, mà là các bông tuyết lớn. Tôi chỉ nói: "Anh cứ hẵng chờ đấy! Anh không tin em ư? Em sẽ chứng minh cho anh, chỉ cần cho xô đầu tiên đầy rồi anh sẽ thấy!" Anh lại mỉm cười rồi gật đầu. Chúng tôi kiên nhẫn chờ và chầm chậm uống trà. Sau đó tôi mang xô đường đầu tiên vào nhà. Tôi ngạc nhiên vì sờ vào thì thấy lạnh tanh, nhưng vẫn chắc chắn rằng đang có đường trước mặt mình. Sau một phần tư tiếng đồng hồ thì tất cả tan thành nước, tôi ngồi đó buồn bã. Marcel đã có lý.
Điều kỳ diệu với những bông tuyết đầu tiên trong đời của tôi đã để lại một hậu quả: Hai thùng các tông đựng quần áo của tôi đã biến thành giấy nhão.
Thỏ có phải ở đâu cũng giống nhau!
Từ đó trở đi, để tiết kiệm tiền, tôi ít khi vào thành phố và thực sự chỉ đi khi không thể trì hoãn một việc mua bán nào đó. Tôi đội ơn Paulette mỗi lần như vậy lại trông con hộ tôi trong mấy tiếng, trong lúc tôi bận đi mua sắm. Từ khi có cháu nội, bà trở nên nhã nhặn hơn với tôi, nhưng tôi cảm thấy mọi ác cảm của bà vẫn y nguyên. Ngay sau khi đến đây tôi đã tặng bà một bộ ấm chén pha trà kèm theo một tấm vải thêu lót bàn, bà cũng cám ơn nhưng nói thêm:
"Được rồi, nhưng mà ở đây chúng tôi không dùng những thứ như thế này." Vào những năm sau đó không bao giờ tôi còn thấy lại những món quà tặng này nữa.
Mùa xuân về và mang theo nhiệt độ dễ chịu. Phần lớn thời gian tôi ở nhà, một mình cùng Jean-Pierre. Thỉnh thoảng tôi đẩy xe nôi qua đường rừng và các khoảng cây thưa, thả bước dưới bóng râm của cây bạch dương. Những cánh đồng lúa mạch, ngô và nho tô điểm phong cảnh mà giờ đây tôi mới phát hiện ra vẻ đẹp của nó.
Tất nhiên vẫn còn nhiều người tìm đến để nhìn ngắm tôi từ xa, chẳng hạn khi tôi đem phơi tã lót giặt bằng tay trên dây phơi ngoài trời. Những lúc đó tôi lại nghĩ đến bếp lửa bằng ba hòn đá chụm lại vẫn thực hiện chức năng của nó một cách miễn chê và thầm nói: "Các người cứ thoải mái xem tôi tồn tại ở đây được bao lâu đi! Ừ, tôi vẫn còn sống đấy. Ở chỗ chúng tôi trong rừng rậm thế này vẫn chưa là gì cả!" Vào một ngày, khi tôi đang lúi húi giữa hai luống nho để hái một loại rau dại ở chúng tôi được gọi là rau dền thì có một người nông dân bắt chuyện với tôi, vẻ mặt đầy lo âu. Ông ta đã quan sát tôi từ trước đó và nhìn thấy tôi đang hái loại rau nào.
"Này cô ơi", ông ta nói với tôi một cách thân thiện và lắc đầu, "cô không được hái loại rau này và đặc biệt là không được ăn nó đâu nhé! Đây là thuốc độc đối với thỏ đấy!".
Tôi mỉm cười với ông và cám ơn sự quan tâm của ông. Nhưng tôi biết rất rõ về loại rau này và hiểu mình đang làm gì. "Xin cám ơn ông. Nhưng mà ông có biết không, thỏ ở Việt Nam thì khác, chúng chẳng chết khi ăn phải loại rau này đâu ạ!"
Ông ta ngây người nhìn tôi rồi nhún vai bỏ đi.
Sắc thái
Những lá thư từ Marcel khiến tôi vui buồn lẫn lộn. Tình hình ở An-giê-ri không được tốt. Tốt thế nào cho được? Ở đó đang xảy ra chiến tranh, và tôi hiểu chiến tranh có nghĩa gì.
Một sáng nọ, vừa lúc tôi đang trau dồi vốn tiếng Pháp bằng cách cố gắng đọc vài mẫu truyện tình yêu sến sẩm trong mấy cuốn tạp chí tiếng Pháp, món đồ tôi đổi bằng kẹo với lũ trẻ con, thì một chiếc taxi đỗ trước sân. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi thấy Jeanne, dì của Marcel, bước xuống xe. Bà tới một mình. Trong tay cầm một cái túi. Tôi bước ra trước cửa, chào hỏi. Bà vừa cười vừa tiến vào.
"Ta muốn được trông thấy đứa trẻ một lần! Thằng bé da vàng hay trắng?". Bà nhìn vào trong nôi rồi nói: "Chà, cũng chưa biết được. Nhưng thằng bé rõ là đáng yêu!".
Khi tôi hỏi, liệu bà có con cái hay không, bà cười lắc đầu rồi quay lại nói với tôi: "Ta biết cô không có nhiều, và ta nghĩ những thứ này sẽ có thể rất hữu dụng với cô."
Trước khi tôi có thể mở miệng nói gì, bà lôi từ trong túi ra một cái chảo và một cái dĩa. Cả hai thứ đều đã gỉ đến mức hoen nhèm mà tôi chẳng mấy khi trông thấy. Bởi tôi vốn không có quan hệ gì với bà, và vì thế cũng không biết được bà sống giàu sang hay cơ hàn, lúc ấy với tôi, chỉ hành động của bà đã đủ ý nghĩa. Món quà nom thế nào không quan trọng, quan trọng là nó tới từ trái tim. Và thật vậy: Tôi không có cái chảo nào, mà tôi cũng có thể dùng thêm một cái dĩa.
Biết ơn lòng thân thiện của bà, tôi mời bà ngồi lại và dùng một tách trà. Tôi còn mở thêm một gói bánh quy bơ. Bà không lưu lại lâu bởi xe vẫn đang đợi bên ngoài. Thật là một người tử tế, tôi nghĩ.
Phải mất gần một buổi sáng tôi mới cọ được hết lớp gỉ ra khỏi cái chảo và chiếc dĩa. Cuối cùng thì chúng cũng sáng đến độ có thể sử dụng được.
Ba ngày trôi qua và một chiếc taxi lại tới. Lần này là Jeanne. Gặp lại bà tôi mừng khôn xiết và dẫn bà vào trong, lòng le lói tia hy vọng tìm được người bạn đầu tiên nơi bà. Thế nhưng bà không ngồi xuống mà trưng lên vẻ mặt khó hiểu, kéo từ trong ví xách tay thời trang ra một cái túi rỗng không.
"Tôi chỉ ghé qua để lấy lại cái chảo và dĩa mà tôi cho cô mượn. Xin cô hãy lập tức trả lại cho tôi." Lặng thinh và vô cùng lúng túng, tôi lấy ra hai thứ đồ vật này đã sáng bóng và thả chúng vào trong túi. Bà ta đột nhiên xoay người và nói: "Cô nên học thêm tiếng Pháp: cho mượn không có nghĩa là tặng!" Rồi đi mất.
Tôi đóng cửa lại sau lưng bà ta và vịn ngồi xuống. Tại sao bà ta lại có thể đối xử với tôi như thế?
Jean-Pierre đã tỉnh, nó đói. Tôi rửa ráy cho thằng bé và đặt nó lên ngực mình, vẫn lắc đầu. Tôi thì thầm với nó: "Con à, hôm nay một bà có xấu tính đã tới đây. Nhưng không sao hết, bà ta không làm được gì con đâu, có mẹ đây rồi".
Tôi quệt đi dòng nước mắt trên gò má. Không ai trông thấy.
Điều ít tồi tệ nhất trong những điều tồi tệ
Tôi hay nghe tiếng khóc của mấy đứa con nuôi của bà chủ cho thuê nhà. Tôi cũng biết rằng bà ta đối xử với chúng không mấy dịu dàng, có thể bởi bà đã uống vài chén, mà dù không phải cũng vậy. Bởi thấy thương cho lũ trẻ, thỉnh thoảng tôi cũng chơi cùng đứa con trai nhỏ ở bên ngoài hay đưa nó vào nhà để trông cùng với Jean-Pierre trong khi bà ấy để ý tới hai đứa còn lại.
Một hôm nọ, tôi chợt thấy đứa con trai cứ gãi đầu liên tục. Tôi phát hiện trên da nó nổi những nốt sần nhỏ và nhiều những vết tấy đỏ lớn. Tôi không biết ấy là bệnh gì. Lúc tôi định cùng đi với nó tới gặp người phụ nữ kia, thằng bé run rẩy và cầu xin tôi không làm vậy. Ấy là tại tấm vải trải giường sần sùi thô ráp, thằng bé lắp bắp. Tôi biết có cái gì đó không ổn. Ánh nhìn sợ hãi của thằng nhỏ cứ mãi ám ảnh tôi.
Ngày hôm sau, tôi quyết định hành động. Tôi đến thăm bà chủ cho thuê nhà và làm như thể tôi muốn thân thiết hơn với bà ta. Tôi để cho bà ấy ẵm con trai tôi, bà ta rất thích nó. Chẳng mấy mà người đàn bà lại trở nên vui vẻ. Trong lúc bà ta hôn hít thằng bé, tôi thăm thú quanh căn nhà. Hành lang dẫn vào phòng ngủ với ba chiếc giường gỗ dành cho ba đứa trẻ con. Tôi bước tới gần và ghé tai nghe thử xem người đàn bà kia có còn trong bếp hay không. Khoảnh khắc vén tấm trải giường lên, tôi rút tay lại tức thì trong kinh hãi: thay vì một tấm đệm, tôi trông thấy một lớp tầm ma dày. Thằng bé phải ngủ ở đây!
Lặng người, tôi quay trở lại bếp, vờ như không hay biết gì. Tôi vừa mới phát hiện ra thứ gì thế này? Ngay lúc chúng tôi có thể thoát khỏi nơi đó, tôi đẩy xe nôi vào thị trấn. Tôi phải làm một điều gì đó. Tôi hỏi đường tới chỗ Thị trưởng và thuật lại tất cả những gì đã thấy. Với vẻ khó tin, người đàn ông nói lời cám ơn tôi và hứa sẽ thông báo lại cho cơ quan chức năng.
Chẳng mấy lâu sau, hai chiếc xe ô tô đỗ vào trước cổng. Tôi nhìn thấy ông Thị trưởng bước ra từ chiếc xe thứ nhất cũng hai người phụ nữ từ chiếc thứ hai. Họ tiến đến tận trước cửa nhà bà chủ cho thuê nhà của tôi và gõ. Bà ta mở cửa, hoàn toàn bất ngờ. Họ trao đổi ngắn và tôi để ý bà ta cự nự, không muốn cho họ vào. Ông Thị trưởng đẩy người đàn bà sang một bên và tiến vào bên trong. Lúc này, bà ta bắt đầu gào thét vào mặt những người đang đứng đó. Ngày sau đó, bà chạy ra khỏi nhà, với ông Thị trưởng sát sau lưng, và xông thẳng vào chỗ tôi:
"Sau bao nhiêu chuyện tao làm cho mày! Mày trả ơn tao thế này đây, đồ da vàng!", bà ta hét. Ông Thị trưởng cố gắng trần tĩnh người phụ nữ. Nửa tiếng đồng hồ đằng đẵng trôi qua, trong suốt khoảng thời gian đó, tôi vẫn không biết chuyện sẽ được giải quyết thế nào. Cuối cùng, hai người phụ nữ bước ra khỏi căn nhà, đồ đạc đã đóng túi trong tay cùng đám trẻ. Họ rời di cùng nhau.
Ông Thị trưởng tới và giải thích với tôi, rằng bà chủ cho thuê nhà giờ đã bị truất quyền nuôi con. Cố nhiên, người phụ nữ này không muốn cho tôi ở trong căn nhà của bà ta nữa.
Ông giúp tôi gói gém đồ đạc. Cũng không mất mấy thời gian. Với đứa con trong tay, tôi rời đi không vương vấn. Số tiền trọ tôi đã trả đương nhiên không thể đòi lại được. Đó là cái giá tôi trả cho lời tố cáo mà không nuối tiếc dù chỉ một giây.
Có công mài sắt, có ngày nên kim
Ông Thị trưởng đưa chúng tôi tới một căn nhà nhỏ thuộc sở hữu của ông gần thị trấn hơn. Ngụ tại tầng trệt là một gia đình đang thuê cánh đồng bao quanh căn nhà của ông. Căn hộ tầng một vẫn còn trống và theo ý ông, chúng tôi có thể dọn vào đó ở. Trên ấy còn có một căn gác mái chất đầy lõi ngô. Căn nhà trọ này khá đơn sơ, nhưng khi tôi nhìn thấy cái bếp ga mà tôi được quyền sử dụng trong phòng ăn, ngôi nhà này với tôi bỗng trở nên thật xa xỉ. Nhà vệ sinh nằm tách biệt, những người thuê nhà là chúng tôi sẽ phải chia sẻ cùng nhau. Câu chuyện chẳng mấy mà được truyền đi khắp thị trấn. Mặc dù vẫn còn có người khá dè dặt khi tiếp xúc với tôi, rất nhiều người, phần lớn là phụ nữ, chào hỏi cũng như đối xử với tôi tương đối thân thiện.
Trong số ấy có vợ ông Thị trưởng. Bà là một quý bà đứng tuổi, người thảng hoặc tới thăm và hỏi han tình hình cuộc sống mẹ con tôi. Những buổi như vậy, chúng tôi thường cùng uống với nhau tách trà. Có một lần, bà lấy làm ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng động lạ vang trên đầu chỗ chúng tôi. Tôi trấn an bà và giải thích, có lẽ ấy chỉ là tiếng chuột cống. Khi tôi kể cho bà nghe rằng, cách đây không lâu, tôi thấy một con chuột cống ngay gần nôi con trai tôi và dùng búa đập chết nó vì sợ rằng nó có thể cắn thằng bé, tôi để ý thấy bà có vẻ sửng sốt.
Người duy nhất có vẻ không muốn làm quen với sự hiện diện của tôi là người đàn ông cùng thuê nhà. Một hôm nọ, khi chuẩn bị sử dụng nhà vệ sinh, tôi để ý thấy cánh cửa đã bị ai chốt lại. Lấy làm lạ, tôi gõ cửa nhà ông ta. Người đàn ông mở cửa, phủ đầu bằng giọng điệu hung hăng:
"Nhà vệ sinh này dành riêng cho chúng tôi! Cô đi mà tìm nơi khác!" rồi hắn sập cửa lại ngay trước mặt tôi trước khi tôi kịp hé một lời.
Nhưng lần này, tôi không để mình thoái chí. Những ngày sau đó, tôi gom hết xú uế của hai mẹ con vào trong một cái xô. Thế rồi tôi đợi ông ta đến, muốn tới nhà vệ sinh, ông ta nhất định phải đi ngang hay vòng qua trước cửa sổ nhà tôi, và tôi đổ hết toàn bộ dung tích thứ hôi thối ngay trước mũi giày hắn.
Ông ta giật nảy lại trong kinh hãi và hét lên phía tôi: "Cô hất cái gì xuống đây! Cô làm cái gì đấy?"
"Ông không chú ý trong giờ lịch sử rồi", tôi nói vọng xuống. "Tôi đang làm y như đức vua nước Pháp: tôi ném phân xuống từ cửa sổ". Rồi tôi nhẹ nhàng khép cánh cửa sổ lại.
Tôi cười thành tiếng. Ông Hương chắc chắn sẽ rất tự hào về tôi! Vài phút sau, phòng vệ sinh lại mở rộng cửa cho chúng tôi cùng sử dụng.
Bất chấp gian nan
Marcel tới với chúng tôi vào tháng Tám. Mẹ anh ấy đã thuật lại những sự việc diễn ra gần đây qua thư để anh biết nơi mà tìm chúng tôi. Vừa tới nơi, anh lập tức tới chỗ ông Thị trưởng để cảm ơn về sự hỗ trợ cũng như để tìm hiểu xem liệu những giây tờ chúng tôi cần để kết hôn và cho phép tôi nhập tịch, trở thành công dân Pháp, đã tới hay chưa.
Ông lắc đầu và cho chúng tôi biết rằng giấy tờ hiện tại có vẻ vẫn đang nằm tại Sứ quán Việt Nam. Bản thân ông cũng không hiểu được nguyên nhân của sự chậm trễ này. Thế là chúng tôi quyết định lập tức lên đường đi Paris nhằm làm rõ mọi chuyện. Trước đó tôi còn cầu khấn tổ tiên và Thần Phật phù hộ. Ngài Đại sứ Việt Nam đón tiếp mà không để chúng tôi đợi lâu mặc dù không hề có lịch hẹn trước. Ông rất tử tế mời trà xanh sau khi chúng tôi ngồi vào chỗ trong văn phòng của ông. Lúc chúng tôi giải thích những quan ngại của mình và nói với ông, rằng chúng tôi đã chờ đợi những thứ giấy tờ này hơn nửa năm nay, ông đi lấy tập tài liệu của chúng tôi. Ông lướt nhìn vào trong rồi rút ra ba phong bì. Ông trông tôi rồi nói: "Vâng, bây giờ tôi nhớ rồi. Chúng tôi không thể cấp đơn cho cô được bởi mẹ chồng chưa cưới của cô không chấp nhận cuộc hôn nhân này".
Chúng tôi nhìn nhau như thể bị sét đánh ngang tai, rồi Marcel hoang mang nói: "Làm sao mẹ tôi lại không chấp nhận đám cưới? Sao lại thế được?"
"Đây", ông Đại sứ nói và đẩy ba bì thư về phía chúng tôi: "Anh chị tự xem đi".
Trong phong bì là ba bức thư từ mẹ Marcel. Khẩn thiết tới mức van nài, bà cầu xin cấp trên của Marcel làm mọi điều có thể để ngăn trở đám cưới. Rằng con trai bà còn quá trẻ và ngây thơ, và rằng những yêu đương nhảm nhí này không thể nào nghiêm túc. Rằng ấy là nghĩa vụ của người mẹ mà bà phải bảo vệ con mình khỏi sai lầm này.
Thực vô liêm sỉ tới tột cùng. Hằng tháng nay, chúng tôi chỉ chờ được bật đèn xanh là có thể bắt đầu một cuộc sống mới cùng nhau, có thể cho con chúng tôi một tương lai. Và suốt quãng thời gian đó, Paulette đã ngăn cản thành công tất cả những điều ấy.
Tôi điềm tĩnh nói với ông Đại sứ: "Đến tháng Ba này chồng tôi sẽ đủ tuổi. Thế có nghĩa là anh ấy sẽ có thể tự quyết định bản thân muốn gì, đúng không?".
"Tôi yêu người phụ nữ này bằng cả tấm lòng", Marcel nói thêm vào. Ông Đại sứ cười. "Nếu đã vậy, xin mời anh chị ra ngoài chờ thêm một chút. Tôi bảo đảm, anh chị có thể lập tức cầm giấy tờ về."
Và quả thực như vậy.