← Quay lại trang sách

- 3 - Những thế giới khác nhau

Được ăn cả, ngã về không

Niềm kinh hãi trước cảnh biển động mà tôi đã lường trước chuyến đi còn lớn hơn nhiều so với nỗi lo sợ cho hệ quả tương lai của những việc chúng tôi đã làm. Hai đứa quyết định sát giờ tàu nhổ neo mới đến điểm ghi danh dành cho các quân nhân.

Chúng tôi quan sát tất cả từ xa. Khi không còn ai xếp hàng trước cổng lên tàu, chúng tôi mới sải bước về phía người đàn ông làm nhiệm vụ kiểm tra. Marcel đưa cho ông ta giấy tờ và nói rành mạch: "Suýt chút nữa thì chúng tôi lỡ mất chuyến tàu. Đây là vợ và con trai tôi. Giấy tờ sẽ tới ngay bây giờ".

Người đàn ông liếc nhìn chúng tôi. Chúng tôi đứng đợi những "giấy tờ" cố nhiên chẳng bao giờ đến. Tàu chưa thể nhổ neo bởi chúng tôi vẫn chưa lên. Trên tàu có tiếng hỏi nguyên nhân chậm trễ. Khi nhân viên kiểm soát nói vọng lên rằng ông còn đang đợi giấy tờ trên đường tới, một mệnh lệnh được phát xuống: "Cho lên, chuyện đấy tính sau. Muộn mất hai mươi phút rồi".

Chỉ với mấy tiếng "Cảm ơn sếp!", chúng tôi lướt nhanh qua người đàn ông với đứa con và túi xách trên tay. Bước một thành công!

Chúng tôi dành cả ngày tới tận hoàng hôn bên nhau. Để tránh gây chú ý, Marcel mang hành lý lên boong và thả mình lên cái ghế nằm dành cho anh. Tôi tự tìm cho mình một chỗ dưới thuyền cứu hộ. Trời đã tối hẳn từ lâu, nhưng chẳng mấy chốc, tiếng khóc thất thanh của đứa con đang ướt sũng của tôi thu hút sự chú ý của một sĩ quan.

Người đàn ông đưa chúng tôi lên buồng chỉ huy, nơi tôi kể lại với vẻ ngây thơ, rằng mình chỉ đi theo chồng dù quả là không có giấy tờ. Marcel bị triệu tập. Ông ta nói căng thẳng:

"Bây giờ không kịp quay lại nữa. Tôi biết làm thế nào với hai người đây?"

Marcel không giấu được nổi vui mừng. Anh tỏ vẻ bối rối, nhìn chằm chằm xuống sàn mà không nói một lời.

"Tôi muốn được ở bên chồng mình nơi chiến trận", tôi mở miệng giải thích mục đích của mình. "Quyết định nằm ở Ngài, Ngài Thuyền trưởng. Nếu Ngài không cho phép, cứ tự nhiên ném hai mẹ con tôi xuống biển. Tôi sẵn sàng".

Ông chỉ huy nhìn tôi. Một phút tĩnh lặng đằng đẵng trôi qua. Ông quay về phía Marcel rồi nói:

"Cậu trẻ à, khi cặp bến, anh nhất định sẽ bị bắt. Nhưng hiện tại hãy chăm sóc cho vợ con mình đi."

Ông hướng về chỗ hai người thủy thủ đã dẫn chúng tôi vào và ra lệnh: "Chuẩn bị cho phu nhận này và đứa trẻ một chỗ ngủ, tìm cho họ cái gì lót dạ nữa".

Vui mừng khôn xiết, chúng tôi sụp xuống trong vòng tay nhau. Ông chỉ huy lắc đầu cười, tôi nghe tiếng ông nói: "Hai người điên thật rồi!".

Lạ lẫm ở phương xa

Tôi chịu đựng chuyến tàu dài hai ngày khá hơn dự tính, ngay cả khi cố gắng đến mấy cũng chẳng ăn được gì vì say sóng. Chúng tôi cập bến Bắc Phi và rẽ sóng biển xanh về hướng Algiers, thành phố trắng toát trong ánh nắng mặt trời. Tôi cảm nhận bầu không khí ấm áp. Như tất cả những hành khách khác, chúng tôi rời khỏi con tàu ngay khi nó cập bến.

Đây không phải trạm dừng chân cuối cùng của chúng tôi. Trong hai giờ tiếp theo, chúng tôi phải rời khỏi Algiers để bắt tàu hỏa tới doanh trại quân đội Pháp tại Sidi-Bel-Abbes ở Tây Nam An-giê-ri. Ở đó có rất nhiều lính lê dương từ khắp nơi trên thế giới, trong số đó có một quân nhân cũng lấy vợ người Việt Nam. Hai người đã hứa sẽ giúp đỡ Marcel nếu có một ngày tôi cùng đến An-giê-ri. Và tôi cũng có thể lưu lại ở đó khoảng thời gian đầu, bởi ngay trong ngày hôm đó, Marcel phải khởi hành đi Tlemcen, nằm ở vùng Tây Nam Oran.

Trong lúc chồng tôi đang bận rộn sắp xếp hành lý cho chặng hành trình tiếp theo, tôi quyết định gạt đi những cảm giác uể oải trong lòng bằng cách thăm quan thành phố cùng đứa con trên tay. Tại đây, ở "Algiers Trắng", một tên gọi khác của thành phố, vài thiếu niên người châu Âu ngồi bên hiên quán cà phê ven đường, cười nói vô tư bên cốc rượu Pastis, không để ý đến tối. Qua kiến trúc, người ta có thể thấy rõ tầm ảnh hưởng của Pháp tới nơi này. Nếu không nghe ra những giọng nói tiếng Ả Rập, tôi còn hằng tưởng mình đang ở Marseille.

Những người bán hàng rong địa phương hòa mình vào đám người châu Âu, và sự hiện diện của vô số lực lượng cảnh sát không mảy may ảnh hưởng gì tới sự hài hòa này.

Gần sát tôi là một thành phố cổ với khu phố An-giê-ri tên Kasbah. Nhưng thường lại ồn ào chào mời tôi mua hàng bằng một thứ ngôn ngữ lạ lẫm. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy những người phụ nữ mặc bộ đồ trắng toát, họ được gọi là "Fatma". Họ giấu kín gương mặt sau lớp voan, tôi không hiểu tại sao.

Mùi hôi thối xộc mũi từ những tảng thịt cừu bao phủ bởi ruồi nhặng treo trước các gian hàng hòa trộn với mùi thơm từ vô số các quán ăn, món làm từ cơm bột mì, hay còn gọi là Couscous, cá nướng than và Meshui, một món ăn làm từ thịt cừu hoặc thịt linh dương, đang đuoc bày bán.

Đàn ông khoác trên người những áo choàng dài nom hơi giống sơ mi với ống tay rộng và mũ, gọi là Dschellabah, một số người đội khăn xếp, những ông già với chòm râu dê, lẫn trong đó có cả những đứa trẻ gầy nhẳng nhơ trong bộ quần áo cũ nát, nô đùa chạy quanh chúng tôi. Từ một góc xa vang lên tiếng Ả Rập. Một vài binh sĩ da trắng đeo súng bước xuống từ cầu thang dốc đứng dẫn xuống hàng rào thép gai giữa hai con hẻm.

Một số mảng tường đất từng một thời sơn trắng của những ngôi nhà xây theo phong cách của người Moor bây giờ mang đầy những khẩu hiệu chính trị, như "Libérez Messali!" ("Hãy phóng thích Messali!"). Người đàn ông này, theo tôi được biết, đã khởi xướng một cuộc vận động cách mạng vao cuối những năm hai mươi. Những khẩu hiệu thế này nhắc nhở người qua lại rằng họ đang ngụ tại một mảnh đất khao khát độc lập và đang chiến đấu chống lại những kẻ xâm lược và ngoại đạo bằng tất cả những gì nó có.

Những tòa nhà cổ kính với tranh tường khảm đã mục vỡ đến nửa, một số với cổng vòm dát gỗ tỉ mỉ và công phu tương phản rõ ràng với những gian hàng xuống cấp nối với nhau bởi ban công và những căn hộ đơn sơ xấu xí chắn sau chấn song sắt.

Những căn nhà này phần lớn được kết nối bằng đường cầu thang và hành lang. Sự hỗn độn của những ngôi nhà chồng chéo lên nhau tôi tưởng như không cách nào qua được tỏa ra một bầu không khí quỷ dị. Tôi không dám tiến vào sâu hơn mà quay ngược về hướng cảng. Mùi cá xacdin mới nướng quyến rũ đến mức làm tôi đói cồn cào. Khi tôi về tới bến cảng, Marcel cùng đi với chúng tôi đến nhà ga.

Tôi nói, chúng tôi chen lấn qua đám đông, lên tàu và ngồi vào một băng ghế hẹp. Chỗ tựa lưng cứng ngắc làm tôi phải suy nghĩ xem liệu đứng hẳn lên có thoải mái hơn hay không. Toa tàu chúng tôi đông dần và tôi bắt đầu giết thời gian bằng cách quan sát những người đồng hành.

Gửi lời theo gió

Với những người Chân Đen - tên gọi những người da trắng đẻ ở An-giê-ri - và những người phụ nữ mang mạng che mặt, chúng tôi di chuyển cùng rất nhiều quân nhân và lính lê dương nước ngoài đến Sidi-Bel-Abbes. Chúng tôi ngờ rằng, một vài trong số đó có thể đã từng có mặt ở Việt Nam. Cựu binh già ngồi cạnh những đồng đội trẻ tuổi, chẳng lớn hơn Marcel là bao. Chúng tôi nói chuyện với nhau, và một người rút từ trong túi ra một bức ảnh. Với nhiều tia luyến tiếc hơn kiêu hãnh ánh lên trong mắt, anh chỉ chúng tôi xem người "Con gái xinh đẹp" của anh, người đang đợi anh ở Sài Gòn. Tôi ngắm nhìn những đường nét tinh tế trên gương mặt người phụ nữ trẻ. Những người yêu nhau lại một lần nữa bị chiến tranh chia tách, tôi nghĩ. Tôi cười với người đàn ông trẻ tuổi, đồng cảm, và chúc anh sớm được ôm người thương yêu trong vòng tay. Anh chỉ cất lại bức ảnh trước khi rời đoàn tàu để tới nơi đóng quân tại Bufarik, nam Algiers. Tàu chúng tôi chạy qua vùng đồng bằng Mitidja. Khu vực này có vẻ rất màu mỡ, cạnh những cánh đồng rau xanh như trải về vô tận là những khóm cây ô liu xen kẽ cùng cây cam. Hoa quả và rau xanh vượt qua cả tầm mắt! Ít nhất, chúng tôi cũng sẽ không bị đói, tôi nghĩ thầm.

Sau nhiều tiếng đồng hồ, chúng tôi rời con tàu đã tới bến Sidi-Bel-Abbas. Ngay sau khi Marcel được cất tạm đồ đạc vào một căn lều của đoàn lính lê dương, chúng tôi lên đường tìm cặp đôi đã hứa giúp đỡ chúng tôi khi trước. Sau vài lần lạc lối trong những con hẻm nhỏ, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được căn hộ của họ. Trả lời tiếng gõ cửa của chúng tôi là một người đàn ông châu Âu cao lớn với nước da nhợt nhạt và khẩu súng lục cài thắt lưng. Đứng sau ông là người phụ nữ trẻ với khuôn mặt Á châu. Tôi mừng rỡ khi được gặp một người đồng hương. Theo tôi được biết, người phụ nữ tới từ Sài Gòn.

Người đàn ông nhận ra Marcel và dẫn chúng tôi vào trong. Sau cuộc chuyện phiếm bên ly trà và một miếng bánh quy khô cho con trai tôi, hai người mới thú thực rằng họ tuyệt nhiên không hề có ý định giúp đỡ chúng tôi hay có chỗ cho tôi trú tạm trong khoảng thời gian đầu. Trái lại, họ còn nói đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng tôi. Có lẽ ngày đó họ chỉ nói sẽ giúp chúng tôi theo phép lịch sự, chứ không thực sự nghĩ rằng có một ngày tôi lại tới thật. Và thế là chẳng đầy nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã lại đứng ngoài đường, mệt mỏi và thất vọng. Chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài tìm phòng trò cho tôi và con.

Marcel để lại cho tôi nhiều tiền hơn cần thiết để mẹ con tôi có thể sống được trong một vài tuần. Anh phải rời đi Tlemcen lập tức. Rồi với một vòng ôm vội và cái hôn cho con trai, anh biến mất mà chẳng kịp nói với tôi khi nào, bằng cách nào, hay thậm chí liệu anh có về đón tôi hay không.

Tôi đóng cửa phòng trọ và thả mình lên giường. Tôi nằm đó, ngắm những khuôn mặt thiên sứ trắng toát đắp trên trần, chẳng còn sức mà nghĩ về tương lai.

Cô đơn sẻ nửa

Sau đêm ngắn, tôi bị đánh thức bởi âm thanh hò la bằng tiếng Ả Rập từ một nhà thờ Hồi giáo. Chẳng mấy chốc mà tôi cùng con đánh bạo ra phố. Trước đó, tôi đưa một tấm bưu thiếp cho một Fatma to béo ở quầy lễ tân, nhờ bà gửi cho Rose. Bà còn chỉ cho tôi, hết sức có thể bằng tiếng Pháp, cửa hàng tạp hóa nằm ở đâu.

Trên phố, cuộc sống thật náo nhiệt. Xe tải cũ gỉ nhèm với động cơ và còi tô ồn ào chở không biết bao nhiêu là cam và rau củ. Ô chở hàng của những phương tiện giao thông khác chất đầy đệm. Giữa những người đi xe đạp, những chiếc xe mà tôi chắc chắn rằng đã từng chở cả ông bà họ qua bao nhiêu chặng đường, thỉnh thoảng xuất hiện một vài chiếc Peugeot cũ trong giao thông như nêm cối. Lâu lâu lại có chiếc Jeep lướt qua tôi, bao giờ cũng với hai quan nhân trang bị súng máy ở trong.

Tôi mua mấy quả cảm và cá xacdin nướng, những thứ giờ đã trở thành một dạng lương thực chủ yếu đối với chúng tôi, bởi chúng rẻ như bèo, mà lại cũng rất hợp với khẩu vị. Tôi vui mừng vì đủ sữa để cho con bú và thằng bé như vậy sẽ không bị thiếu chất.

Những người thương lái và tôi giao tiếp bằng tiếng Pháp và thỉnh thoảng bằng tay nếu bức thiết, khi chúng tôi không thể cố thêm được nữa. Chỉ sau vài ngày, tôi đã có thể đếm được đến mười bằng tiếng Ả Rập.

Nhiều người phụ nữ châu Á sống tại Sidi-Bel-Abbes hơn tôi tưởng lúc đầu. Một hôm nọ, vừa lúc đi chợ, tôi tình cờ gặp một người Việt Nam chào tôi rất thân thiện. Chúng tôi nói chuyện một lúc. Người phụ nữ quê ở Huế mang tên Liên. Cô sống ở An-giê-ri được hai năm cùng với chồng là một lính lê dương, căn hộ nhỏ của hai vợ chồng không cách khu nhà trọ tôi ở là bao. Bởi vì không có con nên phần lớn thời gian cô sống một mình. Liên hân hoan khi thấy một gương mặt lạ mà quen và thường mời tôi cùng con trai qua nhà chơi. Nặng lòng nhớ quê hương, cô hỏi tôi tình hình quê nhà, nơi đã quá lâu rồi cô chưa có cơ hội nhìn lại. Bên tách trà xanh, tôi kể cho cô nghe về cuộc phiêu lưu vượt đại dương của mình, còn cô nói tôi biết về cuộc sống ở An-giê-ri.

Tôi nghe được tình hình ngày càng bất ổn tại đây, về những vụ khủng bố liên miên ngày càng lấy đi nhiều mạng người và những phương pháp trả đũa tàn bạo.

Gần như ngày nào trong những tuần đầu tiên tại Sidi-Bel-Abbes chúng tôi đều cùng nhau. Niềm vui kết tình bạn mới giúp nỗi cô đơn xa cách chồng của chúng tôi vơi đi đáng kể.

"Tôi... không hoan nghênh cô!"

Marcel đột ngột trở về vào tháng Mười, mệt mỏi và căng thẳng. Sau khi ăn vài món hoa quả, anh kể với tôi rằng trong thời gian vừa rồi, anh đã lo xong bản sao chính thức của những giấy tờ tôi cần qua một thẩm phán tại Tlemcen. Anh còn tìm được một căn hộ. Chúng tôi định sẽ lên đường đến Tlemcen với anh ngay hôm sau.

Với Jean-Pierre ngồi trong lòng, lúc đầu thằng bé có vẻ ngọ nguậy kém thoải mái, anh nghe tôi kể về người bạn tôi mới kết thân là Liên và về khoảng thời gian chúng tôi bên nhau. Chúng tôi cùng đi thăm cô để tôi có cơ hội nói lời từ biệt. Trùng hợp làm sao, chồng cô ấy cũng vừa mới trở về sau khi làm nhiệm vụ tai Algiers. Hai người đàn ông nói chuyện trong khi tôi và Liên chuẩn bị cơm chiều. Sau một buổi tối dễ chịu bên nhau, chúng tôi cáo biệt và gửi lại địa chỉ nơi ở mới.

Trong những giờ tàu chạy đầu tiên, cảnh trí chung quanh chẳng thay đổi là bao. Nhưng chẳng mấy chốc mà trước mặt chúng tôi là những cây xương rồng mọc thành hàng dài hai bên bờ con sông đã cạn trơ đáy và vô số những vườn nho nay đã trở thành trang trại ô liu. Một người Chân Đen đứng tuổi gốc Tây Ban Nha từ Orleansville trên cùng chuyến tàu kể chúng tôi nghe về đống hoang tàn khủng khiếp mà cơn động đất để lại hai năm trước, 1954, tại thành phố của ông. Đoàn tàu bỗng giảm tốc độ và tôi ngạc nhiên trông thấy một loạt những giàn gỗ chạy dọc đường ray xe lửa, cao trên mặt đất khoảng một mét, Marcel giải thích rằng ấy là tàn tích của những cột điện thoại bị đánh đổ trong một trận chiến cách đây không lâu.

Phương tiện giao thông tại Tlemcen không khác gì ở Sidi-Bel-Abbes. Những người phụ nữ, lúc không bán vé số, đồ chơi hay dầu ô liu, đứng chờ khách cạnh những gian hàng nhỏ xíu bên lề phố. Tôi để ý thấy phần lớn những người lính chúng tôi gặp mặt đều mang súng, và điều ấy chợt nhắc nhở tôi rằng hiểm nguy vẫn đang lẩn quất khắp nẻo chốn này.

Ở Bel Air, trong khu phố trên, có một ngôi nhà lớn nằm ngay cạnh bờ đá dốc, căn hộ mái hiên của chúng tôi nằm trong đó. Chúng tôi gõ cửa, và một người phụ nữ da trắng cao lớn với cặp mắt xanh ra trả lời chúng toi.

Nhận ra Marcel, bà ném ánh mắt ngạc nhiên về phía tôi và con trai. Bà ta quay lại phía Marcel: "Anh không hề nói với tôi rằng vợ anh không phải người da trắng! Nếu sớm biết, tôi đã không bao giờ cho các người thuê nhà. Nhưng giờ đã muộn quá rồi, các người vào đi".

Sợ sẽ làm bà thay đổi ý kiến, tôi theo vào mà không hề một lời. Lòng tôi lại một lần nữa tràn đầy phiền muộn.