← Quay lại trang sách

- 4 -

"Ai đó?"

Căn hộ ấm cúng và khá rộng rãi với chúng tôi. Trong đó đã có sẵn một căn bếp, phòng tắm và một phòng sinh hoạt lớn. Bên ngoài còn có một cái hiên rộng nối sang những nhà bên cạnh với những chậu cây ăn quả lớn.

Từ lúc đó, chỉ thỉnh thoảng Marcel mới có cơ hội ở cạnh chúng tôi bởi anh liên tục phải qua lại giữa Tlemcen và Oran. Thời gian ở nhà, anh dành để chỉ tôi, ví dụ, làm thế nào để đun nước sôi chỉ bằng hai sợi cáp. Anh cố định một sợi dây điện vào một bình kim loại, sợi còn lại vào một lưỡi dao lam được gắn vào một cái nút bần. Sau đó anh thả cái nút ấy ngập trong nước lạnh. Cả hai sợi cáp, anh đút giữ trong một ổ điện cho tới khi nước sôi. Hệ thống này giúp cuộc sống chúng tôi được tiện lợi hơn, đặc biệt vào những lúc bếp củi không cháy, hay chỉ chịu cháy nếu tôi đổ vào đó một cốc dầu.

Nhưng cũng có những điều kỳ quặc. Tôi đã phải tập làm quen với việc ngủ trên hai chục quả lựu đạn tháo chốt cất trong một cái rương dưới gầm giường. Thi thoảng một ý nghĩ thoáng hiện trong đầu tôi, rằng sẽ thế nào nếu chúng tôi nổ tung lên trời khi đang yêu nhau. Bởi dạo này, hiếm có một ngày trôi qua mà không có ai bị ám sát, hay không quả bom nào phát nổ. Tới giờ, tôi đã có thể di chuyển thoải mái quanh thành phố mà không bị quấy rầy, mặc dù điều ấy không có nghĩa rằng những căng thẳng ngày càng tăng không tồn tại. Tất thảy người châu Âu đều ở trong nhà, và chỉ ra cửa hàng khi đặc biệt cần thiết. Trẻ con đã không được đến trường từ lâu. Một hôm thừa lúc Jean-Pierre đang ngủ, Marcel tháp tùng tôi tới khu chợ lớn, nơi có mái che một phần. Anh cầm lăm lăm vũ khí, quan sát kỹ không bỏ sót một ai. Khi chúng tôi mua bán xong xuôi, hai người đàn ông lớn tuổi mặc áo Burnus xám, một dạng áo choàng len có mũ trùm, đi qua và ném những ánh nhìn hằn học về phía chúng tôi, tôi nghe thấy họ gọi theo "Rumi!" ("Dân theo đạo Thiên Chúa!"), trước khi hai kẻ ấy nhổ nước bọt sau lưng chúng tôi.

Cách chúng tôi vài trăm mét vang lên ngay sau đó ba tiếng nổ. Một gã trai trẻ chạy qua và ném ba quả lựu đạn vào cửa hàng và quán cà phê. Sau các tiếng nổ, dân địa phương bổ ra từ các ngôi nhà và cùng với người qua đường quen biết vây quanh thủ phạm. Bằng cách đó họ đã giúp đỡ hắn trốn thoát.

Đây không phải lần duy nhất tôi giáp mặt với nguy hiểm. Chẳng lâu sau đó, mấy thằng bé Ả Rập chọi đá vào tôi, chúng bỏ chạy ngay khi Marcel chĩa súng lên đe dọa. Sau đó chúng tôi cài lựu đạn cầm tay và đặt các hộp kim loại để trước hiên như một hệ thống cảnh báo. Ngay từ đêm đầu tiên, mấy hộp sắt đã kêu loảng xoảng lúc chúng tôi đang say ngủ. Giật mình, Marcel vồ lấy súng và hỏi to: "Ai đó?". Hai tiếng nổ vang lên thay câu trả lời: hai con mèo của bà chủ nhà vô phúc lạc vào bẫy của chúng tôi!

"Sự kiện không may" này đương nhiên dẫn tới hậu quả là chúng tôi bị đuổi ra khỏi căn hộ ấy, và tôi cùng con trai lại một lần nữa phải vào khách sạn ở.

Hân hoan

Bà Fatma làm việc tại quầy lễ tân có vẻ là một người rất thích giúp đỡ. Bà luôn chuẩn bị sẵn một tách trà bạc hà cho tôi và con trai, và bởi khách sạn tương đối vắng khách, bà thường đề nghị trông thằng bé hộ để tôi có thời gian làm việc riêng. Tôi vui vẻ nhận lời bà và sung sướng về việc không phải suốt ngày ru rú trong căn phòng với bầu không khí hiểm nguy và ngờ vực.

Một ngày nọ, lúc bà đang trông thằng bé, Marcel mang tôi đến căn cứ của anh ở Tlemcen. Trước đó vị thẩm phán làm xong giấy tờ cho tôi, và kể từ lúc này tôi được phép chính thức đi lại trên khu vực này với tư cách là một công dân Pháp.

Chúng tôi đi qua một bốt của lính đặc công Pháp, những người đang cố gắng giữ gìn trật tự trị an của thành phố. Marcel tự hào chỉ tôi vị trí anh hay làm việc nhất. Cách đây không lâu, anh tự dựng cho mình một quán bar nhỏ với những phương tiện đơn sơ nhất.

Những quân nhân khi trở về căn cứ có thể nghỉ ngơi ở đây. Anh căng một chiếc dù làm mái che, gắn lên đó một cái báo cao su thổi phồng lên như một thứ trang trí. Trên sân trong tòa nhà có trồng mấy cây cam. Tôi nhìn quanh để chắc chắn không có ai lảng vảng gần rồi cố gắng giấu thật nhiều quả chín vào túi tôi khi không thể mang được nữa và quay trở về nhà trọ.

Có một bất ngờ đợi tôi ở quầy lễ tân: Liên đến! Chồng cô hiện cũng đang đóng quân tại Tlemcen, và khi cô muốn thăm chúng tôi, người chủ nhà cũ đã chuyển cho cô địa chỉ khách sạn tôi đang ở. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau trong hân hoan. Liên giờ đang sống ở phía bên kia thành phố, và như thế, chúng tôi hẹn gặp lại nhau trong những ngày tiếp theo. Tôi sung sướng cảm tạ Trời Đất đã cho tôi gặp lại người bạn gái.

Gieo gió gặt bão

Việc nấu ăn trong phòng khách sạn đương nhiên bị cấm hoàn toàn, nhưng tôi không để mình bị gò trong khuôn khổ. Tôi thường tự nấu cơm cho mình với một cái hộp sắt và xắt cá trộn vào đó.

Vào một ngày tháng Một năm 1957, lúc đang làm sạch một mớ cá trích, thì tôi bị bất tỉnh. Con trai bò về phía tôi mà níu tóc, tiếng khóc của nó làm tôi tỉnh lại. Nằm trên sàn bếp lạnh, mặt úp vào mấy con cá trích, tôi dần dần nhận ra mọi thứ xung quanh. Vậy là đã rõ: tôi lại có bầu. Tôi chưa muốn cho Marcel biết và chỉ chia sẻ với Liên. Cô mừng cho tôi.

Tình hình xung quanh chúng tôi lúc này dần trở nên căng thẳng. Một ngày nọ, khi Marcel không trở về khách sạn như thường lệ, suốt cả đêm tôi nằm thức chong chong. Chuyện gì đang xảy ra thế này?

Mãi buổi tối hôm sau anh mới trở về. Ở Oran anh tìm mà không thấy chuyến tàu trở về Tlemcen. Rồi anh lại lỡ mất đoàn tàu ở cả bến tiếp theo. Cuối cùng, anh bỏ cuộc. Sau đó, khi nghe tin chính đoàn tàu ấy bị nổ tung lên không khí, Marcel gần như không thể tin nổi vận may của bản thân.

Không lâu sau đó, anh mang về một chiếc xe nôi cũ cho Jean-Pierre. Anh kể với tôi về người đó, rằng anh ta là một người tình nguyện gia nhập vào đội dân quân vũ trang và sau đó bị thất vọng vô cùng. Như rất nhiều những người nông dân khác trong khu vực, anh ta sống cả cuộc đời cùng gia đình trong một nông trại không xa Tlemcen. Một ngày nọ, nông trại bị một nhóm quân giải phóng thuộc Mặt trận giải phóng dân tộc FLN tấn công cướp bóc. Bản thân anh trong thời gian ấy lại đang ở trong thành phố. Không một ai sống sót qua trận thảm sát, mọi gia đình đều bị giết tiệt. Đàn bà bị mổ bụng và nhét đá vào trong. Đàn ông nằm la liệt với bộ phận sinh dục nhét trong mồm cạnh những đứa trẻ bị tàn sát.

Những nông trại như vậy thường bị buộc sơ tán bằng trực thăng. Tôi hiểu quá rõ nỗi khốn cùng của những con người tội nghiệp này.

Câu chuyện khiến tôi thấy rõ ràng, rằng những cuộc thảm sát như vậy chỉ đem lại ngày càng nhiều những chiến dịch đàn áp hơn. Chẳng mấy chốc, tôi cũng chẳng còn bất ngờ trước những câu chuyện về quân nhân khoe khoang những thứ chiến tích ghê rợn, chẳng hạn một cái vòng cổ được kết lại bằng tai của kẻ thù.

An-giê-ri đã bị cuốn vào vòng xoáy bạo lực của chiến tranh và thù hận.

Gian nan

Tháng Hai, Marcel đột ngột bị điều về Bufarik, và tôi biết, chỗ tiền ít ỏi còn lại chẳng còn đủ dùng bao lâu nữa. Tôi phải làm gì đó, nhưng làm gì?

Tôi chợt nhớ tới những vườn cây ô liu và nông trại trồng cam ở gần đây. Để con lại cho bà Fatma coi sóc, tôi bất chấp nguy hiểm lên đường, cố gắng kín đáo lượm nhặt hết mức có thể những hoa quả rụng trên mặt đất. Những thứ này về sau được tôi bán lại với giá rẻ bên lề chợ cho những người dân bản xứ - một trò diễu cợt của định mệnh chăng?

Sau một vài tuần, tôi cảm thấy hình thức kiếm tiền này mang quá nhiều rủi ro. Tôi phải nghĩ ra cái gì đó khác, và tôi hỏi ý bà Fatma, xin đổi một trong những bao tải hoa quả tôi thu lượm được lấy một cái bàn là điện cũ của bà. Trên phòng, tôi cố định phần tay cầm của cái máy xuống dưới và như vậy, tôi có thể nướng thịt hay cá ở trên mặt bàn là. Rồi, ý tưởng tiếp theo, tôi tới một bốt lính Pháp, và với một nụ cười mê hoặc, tôi giới thiệu với họ về dịch vụ giặt là quần áo của tôi. Tôi còn gì để mất? Và quả vậy: sau khi qua kiểm tra giấy tờ, tôi nhận được công việc, ngày một lần tôi nhận quần áo bẩn, đem về giặt giũ là lượt, ngày hôm sau đem giao lại tại đây.

Và tôi đã thành công! Tôi giặt quần và áo sơ mi trong chậu và bồn rửa trong phòng rồi phơi chúng trước cửa sổ cho khô. Sau đó, tôi là lượt lại tất cả mọi thứ. Bà Fatma tốt bụng, người đã nhắm một mắt cho qua việc nấu nướng trong phòng, giờ phải nhắm cả hai mắt làm lơ bởi cầu dao điện phòng tôi ngày nào cũng sập. Bà cam chịu tất cả với một nụ cười thân thiện. Thế là chẳng còn gì cản trở phương thức kiếm sống mới của tôi nữa.

Tôi muốn làm Marcel bất ngờ khi anh trở về mấy tuần sau đó. Đầy tự hào, tôi chỉ cho anh xem cái hộp đầy tiền tôi kiếm được. Phản ứng của anh khác hẳn với những gì tôi mong đợi. Anh giận dữ đẩy tôi ngã xuống giường: "Cô lấy đâu ra số tiền kia? Cô đã làm trò gì vậy? Có phải cô đã ra đứng đường đánh đĩ không?", anh vung tay lên quát. Tôi chưa bao giờ thấy anh như thế.

Tôi đứng dậy, nhìn thẳng vào anh và từ tốn giải thích làm cách nào tôi kiếm được một khoản đáng kể như vậy. Lúc bấy giờ, với nét mặt thiểu não, anh ngồi sát vào tôi rồi ôm tôi trong vòng tay. Anh xin lỗi vì phản ứng của mình và ghì tôi thật chặt.

Tôi kiếm được khá nhiều nhờ công việc kia, còn nhiều hơn số anh kiếm được trong vài tháng.

Của Trời cho

Lúc này Marcel lại phải luân chuyển qua lại giữa Tlemcen và Oran. Bởi vậy mà tôi buộc phải bớt nhận các hợp đồng giặt là và dành nhiều thời gian hơn cho Jean-Pierre, thằng bé giờ đã mau mắn biết đi.

Những buổi tối Marcel ở nhà, chúng tôi không bao giờ nhắc đến những cảnh bạo tàn mà anh phải bắt buộc chứng kiến. Chỉ nhìn qua vẻ mặt ngày càng phờ phạc trong mỗi lần anh trở về đã đủ nói lên tất cả.

Một buổi tối đầu tháng Ba vợ chồng Liên đến thăm chúng tôi mà không báo trước. Chồng Liên được rảnh vài hôm, hai người có ý mời chúng tôi cùng làm một chuyến xe du ngoạn với họ vào sớm hôm sau. Họ muốn tham quan dãy núi Atlas hùng vĩ không mấy cách xa chỗ chúng tôi. Bọn tôi thực không cần phải nhắc nhở họ rằng những dự định như vậy nguy hiểm và vô lý thế nào vào thời điểm này. Xuất thân là lính lê dương, chồng Liên là người hiểu rõ nhất những nguy hiểm rình rập. Tuy nhiên anh ấy vẫn quả quyết rằng lộ trình anh chọn là an toàn. Hơn nữa, anh cũng nói, chúng tôi sẽ không đi mà không có vũ khí. Dù vậy chúng tôi vẫn cảm ơn và chối từ. Sự tình diễn ra sau đó cho thấy lựa chọn của chúng tôi là đúng đắn. Chiếc xe sa vào một ổ phục kích đã được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng. Thi thể của hai người được tìm thấy không lâu sau đó và được những người lính trẻ đưa trở về Tlemcen.

Cái chết của người bạn gái là một cú giáng mạnh vào tâm hồn tôi. Trong giây lát tôi ý thức về môi trường mà sinh linh còn chưa chào đời đang nảy nở trong tôi phải lớn lên trong đó, ấy là nếu tôi vẫn còn sống sót. Cuộc chiến tranh tàn bạo này chỉ biết đến những qui tắc đơn giản: "Tín đồ" chiến đấu chống lại những "kẻ vô thần", giới tính, tuổi tác hay màu da chẳng có nghĩa lý gì ở đây!

Tôi hiểu rõ, Trời cho đi cái gì thì cũng có thể lấy đi cái ấy bất kỳ lúc nào. Tôi đã phải bỏ lại đứa con trai yêu quý ở Việt Nam; liệu tôi có sẵn sàng hy sinh đứa tiếp theo? Không, tôi không thể nào tiếp tục đem những sinh linh vô tội vào vòng mạo hiểm.

Khi trước tôi lựa chọn theo Marcel đi An-giê-ri nhanh bao nhiêu thì giờ tôi quyết ý quay trở về Pháp nhanh bấy nhiêu. Và như Ông Trời muốn ngỏ ý cho tôi biết quyết định của mình là đúng đắn, các bước thực hiện sau đó đã diễn ra một cách chóng vánh. Chồng tôi nhận lệnh luân chuyển tới Oran, không đành để tôi ở lại Tlemcen một thân một mình, anh đưa tôi theo cùng. Bà Fatma vừa chào vừa khóc, tôi hứa sẽ mãi giữ những kỷ niệm đẹp về bà trong tim và cảm ơn bà vì tất cả những gì bà đã làm cho chúng tôi trong thời gian qua.

Và rồi tôi cùng con trai đã yên vị trên một chiếc máy bay quân sự mang chúng tôi tới Oran. Thời khắc ấy đã tới: tôi phải nói chuyện với Marcel.

Giọt nước mắt quả cảm

Ngay khi hạ cánh ở căn cứ Senia, chúng tôi đi taxi vào thành phố. Những đại lộ to rộng, những tòa nhà sang trọng, tô điểm thêm bằng những con đường mái vòm, những con phố dài nằm dưới bóng những cây bạch đàn lớn - tôi cảm thấy Oran có lẽ còn đẹp hơn cả Algiers, có lẽ bởi đã lâu rồi tôi không ở tại một thành phố lớn.

Chúng tôi dễ dàng tìm được khách sạn. Vào phòng, tôi thố lộ với Marcel chuyện mình đã có bầu và ý muốn quay trở về Pháp. Tôi nhận ra được cảm xúc buồn vui lẫn lộn trong anh, nhưng như bao lần, anh ủng hộ quyết định của tôi. "Như vậy có lẽ là tốt nhất", anh nói.

Phải để anh lại một mình, tôi đau khổ vô cùng, nhưng trách nhiệm bảo đảm an toàn cho các con tôi lớn hơn hết.

Marcel nhanh chóng sắp xếp chuyến bay cho chúng tôi quay trở lại Lyon, và chẳng mấy chốc, vào một buổi sáng, một chiếc DC-4 đã đỗ cho mẹ con tôi ở sân bay. Chồng tôi hộ tống chúng tôi tới tận chỗ máy bay và ôm chúng tôi thật chặt trước khi hai mẹ con lên máy bay. Thế rồi cửa đóng lại. Cố nhìn ra bên ngoài, tôi chưa bao giờ thấy Marcel như thế: anh khóc. Lấy ống tay áo gạt đi nước mắt, anh úp hai bàn tay lên mặt.

Tôi chẳng làm gì cho anh được nữa, nhưng vào lúc này, tôi cầu khấn Tổ tiên thay tôi giúp anh.

Người đang yêu sẽ mãi yêu

Hạ cánh tại Lyon-Bron, tôi thở phào khi lại được đặt chân trên đất Pháp. Đồng thời tôi cũng không nghĩ ra được một lý do nào để thực sự vui mừng. Nhưng lần này, tôi chẳng còn sợ hãi điều gì nữa, bây giờ tôi cũng đã có khả năng trò chuyện bằng tiếng Pháp tốt hơn nhiều. Chúng tôi đi xe buýt tới nhà ga, ở đó tôi dừng lại mua ít bánh mỳ và hoa quả. Sau đó chúng tôi lên tàu đi Tours. Một chiếc taxi đưa chúng tôi tới Tauxigny, ngôi làng nơi căn hộ cứ vẫn đang chờ chúng tôi.

Nơi này vẫn y nguyên như khi chúng tôi đi. Tôi cho đứa con trai đang mệt mỏi bú và đặt nó lên giường. Mấy bông hoa khô từ bó hoa cưới của tôi vẫn nằm trên mặt tủ đầu giường. Sau khi đã pha cho mình một chén trà, tôi cất đồ đạc từ va li và nhẩm tính những việc phải lo liệu ngày mai. Tôi bỏ hoa quả vào một cái đĩa làm đồ cúng để đặt lên bàn thờ mà Marcel đã đóng rồi thắp ba nén nhang. Tôi cảm ơn Tổ tiên đã phù hộ cho tôi có một chuyến hồi hương an toàn. Tôi khấn Trời độ trì cho chồng tôi ở An-giê-ri và cho cả chúng tôi. Tôi cũng không quên cả đứa con trai tôi phải để lại ở Việt Nam, tôi hy vọng sẽ có một ngày đón nó sang cùng chúng tôi.

Tin tôi trở về cùng con trai nhanh chóng truyền đi khắp xóm. Một lần nữa tôi lại được chào đón một cách thân thiện, nhưng chỉ còn ít người tới thăm hỏi như trước kia. Vợ ông Thị trưởng vẫn thỉnh thoảng tới thăm chúng tôi, đôi lúc cũng có những đứa trẻ mang đến cho tôi ít cuốn tạp chí như dạo trước khi ra đi.

Paulette đã được thông báo qua thư. Bà đến hỏi han chúng tôi, con trai của bà và được biết về cái thai tôi đang mang trong bụng.

Như dạo trước, tôi thường cảm thấy mình bị bỏ rơi một mình. Mặc dù điều này chẳng có gì mới mẻ, nhưng tôi cảm nhận được rằng mình đã cứng rắn hơn. Thảng hoặc tôi cũng tự hỏi mình, liệu sống ở đây hay chết ở An-giê-ri hoặc Việt Nam thì tệ hơn. Tôi sợ rằng mình không còn thể yêu thương được nữa. Rồi tôi nhìn đứa con trai tôi vui vẻ dạo chơi trên đôi chân nhỏ bé của nó, rồi cảm nhận thấy cái thai đang cựa quậy ở trong bụng. Tất cả những điều ấy truyền cho tôi năng lượng, chuyển hóa sự cứng rắn thành sức mạnh và thuyết phục tôi rằng cuộc sống của mình không vô nghĩa. Tôi vẫn còn có khả năng yêu thương.

Fontaine

Ngày lại ngày, rồi bao tuần, bao tháng trời trôi qua. Xuân này tôi dành thời gian bên con trai và nhìn ngắm thiên nhiên đang bừng tỉnh từ giấc ngủ đông, trong lúc bụng tôi ngày một thêm tròn vo. Những bức thư it ỏi từ Marcel tôi đọc đi đọc lại đến gần như thuộc làu. Anh còn sống và rất mong đợi được gặp lại chúng tôi vào tháng Sáu tới.

Đối với Jean-Pierre, tôi là người tiếp xúc duy nhất. Chúng tôi cùng nhàu nghịch vỏ ốc hay đá cuội. Mỗi lần những cái tháp nhỏ chúng tôi dựng lên đổ ụp xuống, nó đều cười nắc nẻ. Từ lâu tôi đã cai sữa cho nó. Chủ yếu chúng tôi ăn cơm và rau, cùng với cá hoặc thịt nếm xì dầu. Thằng bé gắn chặt với tôi như hình với bóng.

Một ngày nọ, người đưa thư với chiếc xe đạp cũ mang tới cho tôi một lá thư từ An-giê-ri. Tôi mời người đàn ông vào nhà như mọi lần. Bỗng dưng con tôi sáp lại gần, tóm lấy đùi của ông và nhe răng cắn. Người nhân viên bưu điện rú lên đau đớn và đánh rơi túi thư. Jean-Pierre thì đứng đó và hớn hở, vui mừng ra mặt vì hiệu quả của miếng cắn.

"Thằng bé con ghê hơn cả chó!", người đàn ông tức giận hét lên và đưa tay xoa chân. Tôi xin lỗi và giúp ông thu thập lại thư từ. Jean-Pierre phản ứng như vậy rõ ràng là ghen tức.

Cuối cùng Marcel cũng trở về. Cuộc xum họp xóa nhòa khoảng thời gian xa cách. Muộn phiền duy nhất là hành xử của con trai chúng tôi. Nó không nhận ra cha và không muốn cho anh vào nhà. Marcel lúc đầu rất giận, nhưng về sau chỉ buồn bã. Phải mất hơn một tuần, thằng bé mới nhận thức được người trước mắt nó là ai. Marcel bắt đầu suy nghĩ, liệu cách chúng tôi lâu như thế có còn hợp lý nữa hay không.

Vào ngày 24 tháng Sáu năm 1957, tôi vừa tỉnh giấc thì vỡ ối. Tôi lay gọi Marcel và nhờ anh đun một nồi nước. Giật mình tỉnh giấc, anh lo lắng hỏi liệu tôi có muốn tới bệnh viện hay không. Tôi từ chối bởi không còn kịp nữa, mà tôi cũng không sợ phải sinh đứa bé một mình. Nghe theo lời tôi, anh rời phòng ngủ. Những cơn đau đẻ bắt đầu kéo tới đều đặn, tôi nghĩ tới một dòng suối trong vắt róc rách chảy để quên đi cơn đau. Và như thế, một bé gái xinh xắn chào đời, tôi đặt tên con là Fontaine.

Những điều quan trọng và vớ vẩn

Bác sỹ do Marcel gọi tới nơi khi hết thảy đã xong xuôi. Hoàn toàn lạc lõng, ông ta đứng ở chân giường, có vẻ như đang đắn đo xem nên cắt dây rốn thế nào. Mãi không thấy ông có động tĩnh gì, tôi nôn nóng nói: "Ông cứ làm đi xem nào! Hay tôi phải tự làm? Tôi biết làm thế nào đấy".

Người đàn ông lấy lại sự điềm tĩnh và cắt rốn, trong lúc tôi quan sát kỹ lưỡng xem ông ta làm mọi việc có chuẩn xác hay không.

Khi ông bác sỹ lắc đầu rồi đi, Marcel vào xóm thông báo cho mẹ anh được biết. Tôi hút mũi cho con và nhổ đi những thứ không sạch sẽ. Chồng tôi trở về, giúp tôi đặt lên dây rốn đã cuộn lại một đồng xu bạc lớn mà tôi chuẩn bị từ lâu. Tôi vui mừng khôn xiết khi lại có một đứa con gái.

Một thời gian ngắn sau đó, một người phụ nữ lạ mặt tới thăm chúng tôi. Với phục sức giản dị và đôi bàn tay ngăm đen gồ ghề, bà mang một vẻ khiêm tốn và dễ gần. Marcel nhận ra bà ngay lập tức và giới thiệu tôi. Ấy là dì Madeleine, một người em gái của Paulette. Khi nghe tin về đứa con gái mới sinh của chúng tôi, bà tự nhiên đan cho cháu hẳn một bộ đồ trẻ em. Rồi người phụ nữ này lặn lội cả một quãng đường xa chỉ để đem bộ quần áo ấy cho chúng tôi.

Tôi cảm động và hạnh phúc vì cuối cùng cũng được quen biết một người họ hàng tại Pháp có thiện ý với mẹ con chúng tôi.

Một vài ngày sau, con gái chúng tôi chính thức được đăng ký khai sinh với tên Fontaine Hélène. Rồi Paulette tới thăm chúng tôi, xiêm y đoan trang đẹp đẻ như mọi lần. Bà đem theo đồ chơi cho Jean-Pierre làm nó vô cùng sung sướng. Chúng tôi kể với bà về chuyến thăm của dì Madeleine. Qua giọng điệu của bà, tôi biết bà không thích chuyện ấy. "Madeleine đến đây rồi? Dì ấy tự đi cả quãng đường xa như thế ư?" Rồi bà nhìn tôi: "Cô biết không, Jacquie, dì ấy sống ở rìa thành phố. Một nông dân thực thụ" "Có lẽ vậy", tôi trả lời, "nhưng dì ấy thân thiện và chu đáo. Và ai biết được dì đã bỏ nhiều công sức thế nào vào cho bộ đồ kia chứ".

Bà đổi chủ đề. Bà tỏ vẻ sửng sốt khi nghe tên tôi đặt cho con gái: bà cho rằng cái tên ấy thật nực cười. Rụt rè nhưng rành mạch, Marcel đáp lại:

"Loan là mẹ đứa trẻ. Cô ấy sinh nó ra và có quyền đặt tên theo ý cô ấy muốn."

"Hélène còn tạm chấp nhận được. Ta có thể đặt tên nó là Hélène nhưng chắc chắn không thể là Fontaine!", bà nói. Đã tới lúc bà ấy phải đi.

Nhẫn nại, không để bà mẹ chồng có lý do mà cãi vã, tôi bế con gái nhỏ vào lòng và cười với nó một cái thật tươi. Bà ta có nghĩ gì thì tôi chẳng buồn quan tâm!

Mối nguy hiểm đến từ chiếc hộp

Tôi đặt may một chiếc áo dài bằng vải xa tanh đẹp màu xanh lá cây sẫm trong thành phố. Tôi thấy mình xứng đáng. Trang phục cổ truyền hợp với tôi nhiều hơn quần áo phương Tây, và như thế, tôi làm quen với việc ăn vận như vậy, tự tin khoác tay người chồng hãnh diện của mình đi dạo trong công viên thành phố Tours. Những con mắt ngạc nhiên và ngưỡng mộ của những người qua lại dán về phía chúng tôi. Trước khi rời nhà để quay lại An-giê-ri, Marcel tậu một khẩu súng, vì sự an toàn của chúng tôi, như anh nói. Anh sống trong cảnh giác thường trực, lúc ngủ mới thả lỏng, mà ấy chỉ là khi không cơn ác mộng nào quấy rầy. Anh còn nói với tôi rằng anh đã quá mệt mỏi với chiến tranh, và mong chờ biết bao cái ngày nghĩa vụ quân sự tại nước ngoài của anh kết thúc. Với hi vọng ấy, chúng tôi chia tay nhau vào một buổi sớm.

Công việc chăm sóc bọn trẻ dễ dàng hơn nhiều so với việc trải qua ngày dài còn lại. Chẳng mấy mà tôi đã xong hết việc nấu nướng, lau chùi và giặt giũ, thời gian sau đó đối với tôi thực dài lê thê. Khi lũ trẻ đã ngủ, tôi lại thả mình vào những tạp chí sến súa. Có lần một trong số những thanh niên hay qua lại chỗ tôi còn mời tôi thuốc lá. Tôi hít một vài hơi rồi ho sặc sụa, sau đó trả lại điếu thuốc với cảm giác khó chịu. Ngay cả khi điếu thuốc đầu tiên chẳng ngon lành gì, tôi vẫn biết ơn không khí bầu bạn do những người trẻ tuổi ấy mang lại. Vì thế mà tôi vờ rằng mình thích hút thuốc, và rồi mỗi ngày dần trở nên phụ thuộc hơn một chút mà chính bản thân cũng không ý thức.

Mới đầu tháng bảy Marcel đã trở lại. Trong lúc quân đội Pháp bị cuốn vào ngày một nhiều vào những trận chiến ở khắp An-giê-ri, thời gian phục vụ ở nước ngoài của anh kết thúc. Bây giờ Jean-Pierre đã có thể nhận ngay ra cha và hai bố con đều vui mừng. Marcel tỏ vẻ thông cảm về việc tôi bắt đầu hút thuốc, mặc dù anh không được vui. Và tôi cũng chỉ thỉnh thoảng nuông chiều bản thân một điếu.

Có Marcel trở về bên cạnh thật thích. Khi anh thấy tôi có vẻ mệt mỏi với công việc nhà cửa, như là khi tôi phải đun quần áo rồi cọ chúng bằng đá, anh quyết định lấy tiền tiết kiệm ra mua cho tôi một cái máy giặt. Và theo sau cái máy thần diệu xa xỉ ấy là một cái tủ lạnh. Rồi tới một sáng nọ, nhằm để tuyên chiến dứt điểm với sự cô đơn của tôi, một cái máy vô tuyến truyền hình được chuyển về cho chúng tôi, với thứ này chúng tôi có thể theo sát diễn biến của tất cả những gì đang xảy ra trên khắp thế giới, đặc biệt ở Việt Nam.

Chúng tôi là người đầu tiên trong làng tự hào sở hữu thứ thiết bị như thế. Tôi đứng trước chiếc hộp lạ lùng đang chiếu lên những hình ảnh động trắng đen trong lúc một giọng nói đang thuyết minh gì đó về những hình ảnh ấy.

Chương trình đầu tiên chúng tôi cùng xem với nhau là thời sự. Yên lặng ngồi trước cái máy kỳ diệu, chúng tôi tập trung chú ý lắng nghe. Một người đàn ông đọc bản tin. Marcel hỏi tôi cái gì đó nhưng tôi không trả lời. Mặc cho anh cố gắng nậy ra một lời từ tôi, tôi vẫn khăng khăng giữ im lặng và ra dấu bảo anh yên tĩnh. Bất ngờ bởi hành động của tôi, anh hỏi vì cớ gì tôi lại không trả lời. Tôi thổ lộ nỗi lo sợ của mình: Tôi tin chắc rằng người đàn ông trong cái hộp kỳ lạ kia có thể nghe thấy tiếng chúng tôi, mà tôi không muốn thế.

Marcel bật cười và giải thích cho tôi phương pháp hoạt động của thứ công nghệ này. Chúng tôi tiếp tục với chương trình, anh hứng thú, tôi thì mê hoặc. Cuối cùng, người ta trình chiếu một bộ phim và tôi bỗng nhiên có cảm giác, thiết bị này phát ra nguy hiểm. Trong một cảnh có một người đàn ông chuẩn bị cướp của một người phụ nữ tội nghiệp. Không hề do dự, tôi đứng bật dậy, một chiếc guốc gỗ trong tay, sẵn sàng hỗ trợ người phụ nữ kia. Nhưng trước khi tôi kịp ném chiếc guốc vào kẻ vô lại trên màn hình, Marcel đột ngột tắt máy vô tuyến. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra rằng thứ tôi đang thấy đã được chấm dứt chỉ bằng một cái nhấn nút.