← Quay lại trang sách

- 5 -

Kẻ ti tiện

Chồng tôi hiện đang phục vụ tại Rochefort, cách chúng tôi hơn trăm cây số, chỉ mỗi cuối tuần anh mới đi tàu về nhà. Để thỉnh thoảng trong tuần có thể thăm chúng tôi, anh tự mua cho mình một chiếc xe máy nhỏ và cố gắng về với chúng tôi, thường là trái phép. Trời đã sang thu, ngoài đồng lúa mạch vừa gật xong. Một hôm, tôi gặp bà phu nhân ông Thị trưởng trong một hiệu bánh. Bà thân thiện chào hỏi chúng tôi, nhìn hai đứa con tôi trong xe nôi trìu mến rồi hỏi liệu chúng tôi đã ăn táo chưa, bởi món này rất tốt cho sức khỏe. Tôi nói chưa và bà bảo tôi rằng mấy cây táo to nằm sau vườn nhà chúng tôi là của bà. Nếu muốn, tôi có thể nhặt bao nhiêu quả đã chín rụng tùy thích! Để không thì chúng cũng hỏng. Tôi vui vẻ đồng ý và ngỏ lời cám ơn. Bà thực là một người phụ nữ tốt bụng.

Fontaine vẫn ngủ say ở nhà. Tôi cầm hai cái túi, đưa con trai ra ngoài nhặt táo. Hứng khởi vô cùng với cuộc phiêu lưu, nó tập trung giúp tôi gom quả. Chẳng mấy chốc mà cả hai túi đều đã đầy. Chậm rãi, chúng tôi kéo lê chúng về nhà. Gần ngay trước cửa, đột nhiên người thuê đất xuất hiện từ trong góc. Ông ta đã quan sát chúng tôi suốt từ nãy và giờ đang đứng rình. "Cô làm gì ở đây? Ăn trộm hoa quả có phải không?", ông ta nói gay gắt.

"Không", tôi trả lời đơn giản, "bà phu nhân Thị trưởng đã cho phép tôi lấy số táo này. Chúng tôi gom quả về để tôi làm mứt". Con trai sợ sệt trốn sau lưng tôi.

"Tôi không quan tâm cô làm gì với chúng. Tôi là người thuê đất ở đây, chỗ táo này thuộc về tôi. Nhưng mà tôi có thể bán lại cho cô, cũng không đắt đâu", ông ta nói tiếp và bắt đầu nhẩm tính. Để nhận thấy chi tiết này, cơn giận dữ cuộn lên trong tôi. Tôi tiến lại gần và dốc cạn hai cái túi. Táo rơi đầy trước mặt ông ta. Rồi tôi nắm tay con trai và nói, trước khi bỏ vào trong nhà: "Ông cứ giữ cả đi!".

Tôi đã sớm quen với thái độ hận thù của con người này đối với tôi, với ông ta, tôi chỉ còn có cảm giác khinh bỉ. Nhưng nghĩ đến chỗ hoa quả ấy rồi sẽ héo hỏng tôi vẫn thấy thật tiếc.

Học phí

Chẳng mấy chốc Marcel không thể nào đồng cảm với bộ máy chính trị và quân đội Pháp được nữa. Trước đây là những sự kiện kinh hoàng ở Việt Nam, sau này những trận chiến bạo tàn ở An-giê-ri, tất cả những thứ ấy đã trở nên vô nghĩa lý đối với anh. Bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn của cấp trên và mẹ, anh xuất ngũ vào tháng Ba năm 1958, lòng đầy giận dữ. Anh muốn bắt đầu một cuộc sống mới với tư cách một thường dân.

Tôi ủng hộ anh hết sức như có thể. Dù vậy, tôi cảm thấy tương đối khó khăn bởi chúng tôi đã sống khá tách biệt và tôi cũng không biết anh nên bắt đầu từ đâu là tốt nhất.

Thoạt đầu Marcel tìm được công việc ở một nhà máy sản xuất đá phiến. Nhà máy nằm gần nơi chúng tôi đang ở. Những miếng đá với cạnh sắc nhọn khiến anh trở về nhà mỗi ngày với đôi bàn tay đầy vết cắt. Như thế, anh thay đổi công việc sau ba tuần và thử may mắn với công việc đại diện bảo hiểm mà không có hợp đồng. Cả anh và tôi đều không biết những luật lệ của thị trường việc làm. Anh không được một đồng lương nào cuối tháng. Mọi việc không thể tiếp tục thế này được nữa.

Lúc sang xuân có một nhà xuất bản báo chí lớn ở Tours đang tuyển nhân viên, anh nộp đơn và nhận được vị trí. Tôi mừng cho anh biết bao! Ngày ngày anh lái xe máy đi suốt một chặng đường dài vào trong thành phố. Chẳng bao lâu sau, thất vọng đầu tiên đã tới: thay vì được làm việc trong văn phòng như đã hứa, tạm thời anh phải đi giao báo. Anh sợ sẽ mất công việc ở một hãng danh tiếng, nhưng trên tất cả, ấy là mẹ anh đã đi kể khắp nơi rằng con trai bà nay đã là nhân viên văn phòng, vì không muốn bị coi là kẻ thất bại, anh chọn cách không nói gì. Không lâu sau đó, họ bắt anh đi chở thêm cả những cuộn giấy lớn bằng xe tải. Ngay cả khi ấy, anh vẫn im lặng, hằng tháng trời. Sau cùng, anh còn bị bắt quét dọn văn phòng và xưởng máy vào giờ nghỉ. Anh trở về nhà trong giận dữ và mệt mỏi vô ngần. "Anh từng tham chiến để bảo vệ những con người này! Bây giờ họ lại dí chổi vào tay anh để quét dọn rác rưởi cho họ!"

Tôi khuyên anh cần phải khiếu nại. Anh cũng đã làm như thế. Họ vẫn chỉ an ủi với anh rằng việc này sẽ chỉ kéo dài thêm đôi tháng nữa. Tuy nhiên đến những hai năm sau vẫn chẳng có gì thay đổi, chỉ trừ nỗi cay đắng một lớn dần trong Marcel.

Đường cùng

Lúc bấy giờ là mùa thu năm 1958. Chúng tôi lại chuẩn bị có em bé và buộc phải chấp nhận sự việc như đã xảy ra, dù muốn hay không. Niềm vui của Marcel chỉ có giới hạn. "Trời ơi, lại thêm một miệng ăn...", là phản ứng đầu tiên của anh. Lúc đầu, anh chỉ tức tối vì sự kém tin cậy của loại bao cao su chúng tôi sử dụng, thời ấy vẫn chưa có thuốc tránh thai. Nhưng sau đó anh lại ôm tôi vào lòng bởi anh thấy được lời nói của anh đã làm tôi buồn tủi thế nào, rồi an ủi: "Thêm hay bớt một miệng ăn không phải là vấn đề".

Tôi thì ngược lại mong chờ đứa trẻ, ngay cả khi tôi hiểu rằng sự xuất hiện của nó sẽ khiến cuộc sống hằng ngày của gia đình tôi không trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi luôn tìm ra cách tự xoay xở, bây giờ cũng sẽ như vậy. Cùng lúc, tôi lại nghĩ đến lời tiên tri đang dần thành hiện thực của người thầy bói thời thơ ấu. Tôi sẽ sống ở nước ngoài, ông nói, tôi sẽ sinh nhiều con và sở hữu một ngôi nhà của riêng mình. Hai điều đầu tiên ông nói rõ ràng đã ứng nghiệm, nhưng điều thứ ba, ở thời điểm hiện tại, tôi vẫn chưa hình dung được sẽ trở thành hiện thực thế nào được trong hoàn cảnh của chúng tôi. Nhưng sâu tận trong thâm tâm, tôi chưa bao giờ từ bỏ hi vọng. Có lẽ cái gì cũng cần có thời điểm của nó.

Vào một ngày khi tôi đang phơi áo quần trước nhà, một người trong làng mà chúng tôi chỉ quen sơ dắt chó đi ngang qua và hỏi một cách thân thiện: "Cô có muốn nuôi chó không? Tôi đang dư một con". Ông chỉ con chó lai nhỏ mà tôi thấy rất đáng yêu.

Một cách hồn nhiên như bản tính của mình tôi đồng ý. Tôi luôn yêu quý động vật. Và bây giờ bọn trẻ có thêm bạn cùng chơi. Khi Marcel trở về vào buổi chiều, anh cũng rất vui. Thế là gia đình chúng tôi có thêm một thành viên mới.

Cuối tuần, tất cả chúng tôi đang ngủ say thì bị đánh thức bởi tiếng la ó thất thanh trước nhà. Tôi bật dậy và đi xuống, Marcel theo sau lưng. Những người thuê nhà dưới chúng tôi cũng mở hé cửa xem mọi việc cho rõ ràng. Trước nhà, một người đàn ông lớn tuổi giận dữ đứng đó, giơ trước chúng tôi một con gà chết với vẻ tố cáo và nổi xung: "Đây, các người nhìn thấy không! Chó nhà các người cắn chết gà nhà tôi! Những ba con! Các người phải trả tiền cho tôi!"

"Làm gì có chuyện ấy", tôi trả lời. "Chó nhà tôi không rời chúng tôi nửa bước."

"Tôi chắc chắn đây là chó nhà các người. Có người nhìn thấy nó. Các người mau trả tiền gà cho tôi!", ông ta gào lên. Marcel da trắng bệch. Rồi anh im lặng quay đầu vào nhà. Một lúc sau, anh quay ra, một tay dắt theo con chó, tay kia cầm súng. Anh để con chó chạy mấy bước, rồi trước khi tôi kịp hiểu anh định làm gì, anh nổ súng. Anh bắn chết con chó ngay trước mặt tôi và người đàn ông kia, nỗi sợ hãi giờ hiện rõ trong mắt hắn.

Marcel lên đạn thêm một lần rồi nói: "Chuyện giải quyết thế đã xong chưa? Nếu vẫn chưa, tôi còn đủ một viên nữa cho ông!"

Gã đàn ông chỉ khẽ gật đầu rồi chạy biến. Cả cửa nhà ông hàng xóm cũng đã đóng chặt. Marcel đứng đó, mắt long lanh nước, và tôi hiểu anh buồn tới mức nào vì chuyện anh vừa làm.

Buồn rầu và cay đắng tôi tự hỏi, liệu tới bao giờ người ta mới chịu để chúng tôi được yên.

Chúng tôi chôn con chó ngoài đồng. Với bọn trẻ chúng tôi kể rằng con chó đi lạc mất. Một khoảng thời gian ngắn sau, chúng tôi quyết định rời bỏ nơi này mãi mãi.

Đầu năm 1959, chúng tôi nhận được một căn nhà xã hội dễ chịu ở trung tâm thành phố Tours, và chuyển tới với tràn đầy những niềm hi vọng mới. Tháng Năm, tôi hạ sinh một bé trai mạnh khỏe trong bệnh viện. Tôi gọi bé là Daniel. Cả Marcel và hai đứa lớn đều hân hoan cùng tôi, không ai chịu ở nhà.

Giờ thì mọi dấu hiệu đều chỉ rằng mọi điều kiện tạo nên một cuộc sống bình thường và thanh thản đều đã trọn vẹn, và tôi được truyền thêm dũng khí.

Khác biệt cũng là một tội lỗi

Khu phố chúng tôi đang sống cũng có nhiều gia đình đông con. Luôn luôn có tiếng người gào thét hay quát tháo, tiếng trẻ con khóc đối với tôi đã trở thành một dạng âm thanh nền mỗi ngày. Tôi không thực sự quen với việc phải chung sống cùng nhiều con người trong một khoảng không gian hẹp như thế này. Không kể những tiện lợi, chúng tôi hiểu rõ rằng mình đang sống trong một khu phố cách ly.

Dù là vậy, cuộc sống trong thành phố cũng có nhiều điều thuận lợi. Chung quanh có rất nhiều khu chợ và cửa hàng cửa hiệu cùng vườn trẻ và trường học. Quan trọng nhất có lẽ chính là ở đây, tôi chỉ là một trong nhiều người ngoại quốc và họ đều được sống yên thân. Ít ra là tôi nghĩ vậy.

Thỉnh thoảng vào lúc bốn giờ sáng, lúc bọn trẻ còn đang ngủ, tôi giúp chồng dán áp phích để tăng số tiền lương anh nhận được vào cuối tháng. Ngoài ra chúng tôi còn có thể gửi bọn trẻ cho một bà hàng xóm người Ma-rốc-cô trông hộ.

Marcel và tôi không có nhiều cơ hội được đi dạo cùng nhau. Khu vực xanh tươi duy nhất làm cho tôi thoải mái là Vườn Bách Thảo. Chúng tôi rất thích tản bộ ở đây, giữa những thứ cây cỏ ngoại lai làm tôi nhớ về nhà. Chốn đẹp đẻ này cho chúng tôi cảm giác thư thái đã ao ước từ lâu, và nó luôn dẫn đến đúng một chủ đề: chúng tôi nói chuyện về Việt Nam, xứ sở mà không ai trong hai chúng tôi có thể quên được.

Vợ chồng tôi theo sát tin tức về những sự kiện kinh hoàng ở Đông Nam Á trong các chương trình thời sự. Càng ngày càng có nhiều người trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh du kích ở Lào, và mỗi khi nghe thấy hai tiếng Việt Nam, lòng tôi lại quặn thắt nghĩ về đứa con trai còn ở nhà. Tới khi nào tôi mới đón được nó về với chúng tôi đây?

.

Một buổi chiều nọ, chúng tôi vô tình gặp bà của Marcel khi tôi cùng chồng đang đi dạo dưới những bóng cây tiêu huyền trên một con phố lớn. Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy bà. Bà tức thì nhận ra chúng tôi, nhưng thay vì chào hỏi, bà lại quát tháo chúng tôi to tiếng tới mức những người đang đi bộ quanh đó phải ngoái lại nhìn.

"Hai đứa đang làm cái gì ở đây? Vợ mày phải ở nhà chăm con chứ! Làm sao hai đứa lại có thể vứt con một mình được? Đưa nó về nhà ngay!", bà hét vào mặt Marcel và chuẩn bị giơ túi đuổi đánh tôi. Tôi khiếp sợ nhìn bà chòng chọc. Bà đã già rồi và tôi không muốn cự cãi giữa chốn công cộng. Chúng tôi xấu hổ vô cùng và chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài biến ngay khỏi tầm mắt người đàn bà điên rồ này. Tận lúc về tới nhà, hai chúng tôi vẫn còn choáng váng. Chúng tôi đã làm gì nên tội?

Bước ngoặt

Tôi thường xuyên khấn vái trước bàn thờ nhỏ chúng tôi dựng lên ở phòng khách. Với hoa quả, bánh tự nướng và hoa làm đồ cúng, tôi gửi tất thảy những lời nguyện cầu vào làn khói bốc lên từ những nén hương đang cháy, cầu xin bình an cho con trai cả, mẹ và các chị em tôi ở Việt Nam và cả gia đình chúng tôi ở đây nữa. Liệu Trời xanh và ông bà ông vải có sớm đáp lại những lời khấn cầu của tôi?

Bỗng nhiên, điều ước của tôi có vẻ như đã trở thành hiện thực. Một ngày, Marcel trở về từ chỗ làm trong tâm trạng đầy hứng khởi. Một nữ đồng nghiệp trẻ tuổi làm ở văn phòng thư kí tới chỗ anh giữa lúc anh đang quét dọn văn phòng. Thỉnh thoảng hai người có trao đổi ngắn với nhau lúc hết giờ làm việc, và anh có kể với cô ấy về tình thế khó khăn của con trai chúng tôi ở Việt Nam. Cô này có một người bạn gái, chồng của cô đó có vẻ như là một người rất có tầm ảnh hưởng. Cách đây không lâu, họ có nói chuyện về chúng tôi. Và người đàn ông kia đã nói muốn gặp vợ chồng tôi. Có lẽ ông có thể giúp được gì đó.

Chúng tôi hẹn gặp nhau vào một cuối tuần. Tôi mặc bộ áo dài đẹp nhất và trang điểm xinh xắn. Về sau tôi được biết, người đàn ông này là giám đốc một ngân hàng và có uy tín đối với một số nhà ngoại giao. Ông kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện của chúng tôi và còn ghi chép. Ông nói sẽ liên lạc với chúng tôi rồi từ biệt.

Không lâu sau, đầu năm 1960, Marcel thay đổi công việc. Anh giờ là nhân viên đại diện cho một hãng buôn vật liệu xây dựng. Anh có vẻ hài lòng hơn với công việc này.

Sự kiện tiếp theo xảy đến vào đầu năm mới. Tôi vừa bước ra khỏi trung tâm mua sắm thì có một người phụ nữ châu Á trẻ tuổi đứng đó và nhìn tôi chằm chặp, vẻ khó tin. Ấy chính là Ngọc, người tôi làm quen trước chuyến đi viễn xứ tại Sài Gòn. Chúng tôi lao vào vòng tay nhau và ôm thật chặt mà không nói nên lời, vẫn gần như không thể tin được rằng chúng tôi đang đứng trước mặt nhau.

Cô cũng đang sống ở Tours và đã kết hôn với người bạn trai Pháp từ thuở ở Sài Gòn. Cả chồng cô cũng đã xuất ngũ và đang làm tại hãng đường sắt quốc gia. Chúng tôi trao đổi địa chỉ, và bởi cô không sống cùng con cái, cô rất hay đến thăm chúng tôi. Phải lâu lắm rồi tôi mới thấy hạnh phục thế này. Có lẽ Trời xanh đã nghe thấu lời khẩn cầu của tôi! Tôi cười và nghĩ tới ông Phan.

Vào mùa hè năm 1960, nhiều sự kiện diễn ra dồn dập. Người giám đốc ngân hàng mời chúng tôi tới gặp ông. Anh trai ông, hiện đang làm việc tại Tòa thánh Va-ti-căng, cũng đồng ý sẽ giúp đỡ cho trường hợp của chúng tôi. Cùng lúc ông cũng nhận được tin, rằng rất có thể đã tìm được con trai tôi. Trái tim tôi gần như ngừng đập, tôi hồi hộp vô cùng.

Một thằng bé, dù được gọi với cái tên họ hoàn toàn lạ lẫm với chúng tôi, Varat, nhưng những thông tin khác, như ngày tháng năm sinh, nơi sinh và tên riêng Marcel, đều hoàn toàn khớp với những gì chúng tôi đã cung cấp. Thằng bé hiện đang được các bà xơ nhà thờ Công giáo tại Sài Gòn nuôi dưỡng. Tôi chắc chắn đó chính là nó: người ta tìm thấy con trai tôi rồi! Trước niềm hạnh phúc này, tôi không còn khả năng khóc nữa mà bồn chồn chờ đợi những tin tức tiếp theo.

Bởi vì chồng tôi đã tuyên bố đồng ý nhận con trai tôi làm con nuôi, bây giờ cần đặt các đơn từ cần để hợp pháp hóa việc nhận con nuôi. Những thủ tục này có lẽ sẽ phải kéo dài tới ba tháng, sau đó thằng bé sẽ được Đại sứ quán Pháp cấp giấy tờ cho phép nhập cảnh ở Pháp.

Ông giám đốc ngân hàng đã chuẩn bị trước cho chúng tôi các mẫu giấy tờ quan trọng để chúng tôi điền vào, với một cảm giác hạnh phúc tột đỉnh. Khi ra về tôi cúi rạp đầu đầy biết ơn trước con người tốt bụng này và hôn lên bàn tay ông trước khi ông kịp rút lại.

Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lại được ôm đứa con trai tôi hằng mong nhớ trong vòng tay! Giờ chỉ còn lại vấn đề thời gian.

Của Trời lấy đi

Khoảng giữa tháng Chín chúng tôi nhận được thông báo, rằng một nhóm trẻ mồ côi đang chờ được đưa lên máy bay từ Sài Gòn tới Paris, trong số đó có con trai tôi. Người liên lạc của ông giám đốc ngân hàng tại Việt Nam cũng chia sẻ, rằng người ta đã dán tên thằng bé lên lưng áo khoác ngoài và cổ áo nó làm dấu hiệu nhận biết.

Đầu tháng Mười thì đến lúc. Marcel và tôi để lũ trẻ lại cho người khác trông và bắt tàu đi Paris. Tôi cảm thấy chuyến đi tới đó dài như vĩnh cửu!

Tôi mặc áo dài để con thấy tôi không bị lạ lẫm. Chúng tôi gần như không nói tiếng nào trong suốt cả chặng đường. Khoảnh khắc này thật quá quan trọng! Tôi có thể mường tượng ra trước mặt cái ngày tháng mười năm năm trước, khi tôi phải trao đi đưa bé. Từng cử động, mùi hương của thằng bé đã hằn thật sâu trong tiềm thức tôi! Thở dài trong lòng, tôi cố thử gợi lại trong đầu cảm giác mềm mại của làn da nó.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã tới nhà ga trung tâm Paris, rồi ngay lập tức lái xe tiếp tới sân bay. Hội Chữ Thập Đỏ đã tổ chức một điểm tập trung cho chúng tôi tại một hội trường nhỏ trong một khuôn viên biệt lập.

Chúng tôi báo danh với một cô y tá, cô ghi lại tên tuổi và mời chúng tôi tìm chỗ ngồi trong thời gian chờ đợi. Quá hồi hộp, chúng tôi không thể đặt mình ngồi xuống. Phải mấy tiếng đồng hồ nữa máy bay mới hạ cánh.

Ngoài chúng tôi chỉ còn duy nhất một cặp đôi nữa cũng đang chờ đợi, một người châu Âu với một người phụ nữ Việt Nam tháp tùng. Tôi đoán chừng họ cũng tới đây để đón con. Chúng tôi nhìn nhau và cùng mỉm cười, dù không ai nói một lời.

Rồi cánh cửa mở. Một bà xơ Công giáo cùng đi với một nhóm trẻ bước đều về phía chúng tôi. Phải có đến hai mươi, thậm chí ba mươi bé trai bé gái lớn nhỏ khác nhau. Ánh mắt tôi lướt đi tìm kiếm trong đám trẻ. Bọn chúng có vẻ sợ hãi nhiều hơn là tò mò và đứng sát rạt vào nhau theo chỉ dẫn của bà xơ. Tôi nhìn chằm chằm vào chúng. Con trai tôi ở đâu tôi vẫn chưa tìm thấy.

Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi tới khi một cô y tá lên tiếng gọi. Nghe thấy tên mình được xướng lên, một người công tác viên của hội Chữ Thập Đỏ bước tới chỗ chúng tôi. Trong vòng tay cô là một thằng bé gầy gò trắng bệch đang ngượng ngùng nhìn ngó xung quanh, quá ốm yếu và mệt mỏi đến không bước nổi.

"Đây là con trai của bà!", cô nói cộc lốc và định giao cho tôi thằng bé. Marcel vỗ nhẹ tôi khích lệ. Bản thân anh không phản ứng mà để tôi tự xử trí. Tôi nhìn kỹ thằng nhỏ: khuôn mặt nó dài, mái tóc nâu nhạt mỏng tang. Khi tôi trông vào đôi mắt xám ấy, chẳng có một cảm xúc nào gợn lên trong lòng: thằng bé này không phải con trai tôi!

Tới đây người phụ nữ từ nãy đến giờ vẫn cầm tay đứa bé đang mếu máo khóc sang một bên và nói, chân đã bước tiếp về phía những đứa trẻ khác: "Đây không phải con trai tôi!".

Đám trẻ đứng trước mặt tôi mở mắt tròn xoe. Không ai dám ngăn cản tôi đi tìm con trai của mình. Tôi nhìn từng thằng bé một, trông kỹ vào từng khuôn mặt. Kìa, giữa nhóm người, tôi nhận ra nó. Nó kia rồi!

Đôi mắt đen láy này, khuôn mặt vuông vức này, vết bớt gần lông mày phải kia. Một cậu bè với vóc người khỏe mạnh, mái tóc đen nhánh nhìn thẳng vào tôi. Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, tôi cảm nhận được ngay tình mẫu tử giữa chúng tôi. Tôi cười với nó. Nó cười lại với tôi. Tôi đi về phía thằng bé, lật cổ áo nó lên và tìm thấy trên đó cái tên được viết nguệch ngoạc bằng bút bi: "Marcel". Và đằng sau cổ nó, người ta vẫn có thể đọc ra được phần còn lại của con dấu. Tôi cầm tay thằng bé, nói to dõng dạc: "Đây là con trai tôi! Thằng bé này là con trai tôi!"

Trước khi chúng tôi kịp bước đi tiếp, tôi nghe tiếng những đứa trẻ khác trong nhóm nói với con tôi bằng giọng miền Nam Việt Nam: "Cậu thấy chưa, Marcel, mẹ cậu nhận ra cậu rồi. Cậu thật may, mẹ đã tìm được câu!"

Bản năng người mẹ trong tôi đã chiến thắng, chúng tôi nhận con và dẫn thằng bé về. Đương nhiên tôi cũng cảm thấy thương xót cậu bé kia, nhưng tôi không thể giúp gì được cho nó.

Trên suốt chuyến xe, con trai tôi không nói một lời, ngay cả khi tôi đặt câu hỏi. Tôi hiểu rằng thằng bé cần có thời gian.

Sâu thẳm trong trái tim tôi thầm cảm ơn Trời xanh: người trả lại cho tôi đứa con gần đúng vào cái ngày Người lấy thằng bé đi khỏi tôi, năm năm về trước.

Khởi đầu là một chiếc tàu bay

Ba ngày trôi qua, con trai của chúng tôi vẫn không hề hé miệng một lời. Chúng tôi làm quen nó với các em. Lũ trẻ đón anh trai một cách thân thiện, đặc biệt là Jean-Pierre rất vui mừng vì có một bạn chơi mới.

Những đêm đầu tôi hầu như không ngủ vì vui sướng. Tôi đứng dậy và ngắm nhìn con trai của tôi. Nó ngủ mà mắt vẫn mở he hé. Tôi suy nghĩ về tất cả những gì đã diễn ra vào thời gian cuối, về bằng chứng tình yêu mà chồng tôi đã dành cho tôi, về việc có bao nhiêu người đã can dự để có được điều kỳ diệu này.

Vào buổi ngày tôi nói bằng tiếng Việt với con, cho dù nó không trả lời mà chỉ nhìn tôi. Tôi kể cho thằng bé rằng tôi là mẹ đẻ của nó và tôi vui mừng như thế nào khi đón được nó về lại với mình. Tôi kể cho nó lý do vì sao tôi phải rời khỏi đất nước của mình, vì sao ngày đó tôi không còn cách nào ngoài việc phải để nó ở lại. Tôi hứa với con từ nay sẽ luôn luôn ở bên cạnh nó.

Tôi dịch lại cho con từng lời mà chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Pháp. Jean-Pierre và Fontaine luôn tìm cách gần gũi anh - và từng bước giúp nó mở lòng. Tuy nhiên việc thích nghi của thằng bé chỉ diễn ra một cách chậm chạp. Lúc đầu Marcel đại tiện ngay trên sàn nhà trong căn hộ của chúng tôi. Tôi phải tốn rất nhiều công sức để giải thích cho con rằng nếu muốn đi ngoài thì phải vào nhà vệ sinh mà tôi chỉ tận nơi cho nó. Mãi sau đó có lúc nó vẫn còn quên.

Một vài ngày sau, khi Marcel đang chơi với lũ em trên sàn nhà, thì chúng tôi nghe tiếng máy bay. Đột nhiên, đầy hoảng hốt, trước các cặp mắt ngạc nhiên của lũ trẻ, nó đứng bật dậy, chạy bộ tới chiếc bàn rộng trong phòng khách rồi chui tọt xuống, nấp dưới đó. Trong lúc đó nó thét lên, với vẻ kinh hãi tột độ, bằng tiếng Việt:

"Nhanh lên! Máy bay! Máy bay! Bom đấy! Nó sẽ bỏ bom xuống cho chúng ta! Nhanh lên! Nhanh lên!"

Nó thở dốc, nét mặt ngây dại, tay chìa về hướng tôi. Tôi chạy đến chỗ nó, cầm lấy bàn tay Marcel và dang tay đón nó. Tôi âu yếm xoa đầu và xiết chặt nó vào lòng. Sau đó tôi mới nhận ra: thằng bé vừa nói những từ đầu tiên!

Phải một lúc lâu sau đó tôi mới làm nó trấn tĩnh trở lại và hết run. Tôi giải thích cho con rằng đất nước mà nó đang sống không có chiến tranh. Tôi vui mừng vì thằng bé bắt đầu nói, nhưng tôi cũng hiểu con tôi đã trải qua những điều khủng khiếp và bị chấn thương tâm lý do chiến tranh. Với tư cách người mẹ, tôi thật đau lòng. Sự việc này gợi dậy trong tôi những cảm giác tội lỗi.

Tuy nhiên tôi hiểu cả cái nhánh xanh này, cho dù đang bé bỏng và yếu ớt như thế nào, một lúc nào đó sẽ cắm những rễ mới mạnh mẽ. Nó chỉ cần tình yêu và nhiều nhẫn nại.

Đặc sản

Mùa thu năm 1961 chồng tôi mang về nhà một con chó béc-giê Đức đã thuần hóa. Chủ của nó, một người bạn là nhân viên cảnh sát, muốn chuyển nhà và không đem được chó đi cùng. Vì vậy anh ta tìm một người sẵn sàng nhận con vật. Nuôi nó thì sẽ thêm phần chi phí và chúng tôi biết là gia đình mình đang eo hẹp như thế nào. Mặc dù có chút phân vân như vậy nhưng tôi đã đồng ý nhận, sau khi nhận thấy lũ trẻ vui mừng vì có một bạn chơi mới. Chúng tôi cùng đặt tên cho con chó là "Jicqui".

Các đứa lớn hơn bây giờ đi nhà trẻ. Ở đó các cô giáo cố gắng dạy tiếng Pháp cho Marcel ở mức tốt nhất có thể. Thường thì mỗi lúc tôi đi đón bọn trẻ cô giáo này hay cô giáo kia phàn nàn về việc Marcel không hiểu gì. Và họ yêu cầu tôi phải chấm dứt việc nói tiếng Việt với Marcel, vì quyền lợi của nó.

Lúc đầu tôi không biết cần làm gì. Nhưng dần dà tôi chuyển sang nói tiếng Pháp kể cả ở nhà. Các cô giáo chắc chắn là có lý, tôi nghĩ như vậy. Rốt cuộc thì tôi hoàn toàn không muốn chống lại khuyến nghị khẩn cấp từ "chốn thông thái" này. Tôi hầu như chỉ còn nói tiếng Việt khi cô bạn gái đến chơi. Ngọc cực kỳ mừng cho tôi về việc con trai đã về với tôi, nhưng tôi cũng cảm thấy chị đau khổ chừng nào về việc đứa con rứt ruột của chị không được sống cùng mẹ. Về việc này thì không sao có thể xoay chuyển được ý kiến chồng của Ngọc.

Vào một buổi chiều chúng tôi chuyện trò một cách đầy tức tối về những người Di Gan gặp phải trên đường đi dạo. Những người này thỉnh thoảng lại đi qua khu phố của chúng tôi và rao bán các loại giỏ tự đan bằng tay của họ. Mặc dù những mặt hàng này khá đắt, mỗi lần tôi đều mua một thứ gì đó nếu những người phụ nữ Di Gan mời chào, do cảm giác thương hại những người sống lang thang không tìm được nơi chốn nào bình an này. Một người trong số họ tỏ ra quan tâm về các phong tục ở Việt Nam, và như vậy chúng tôi đã dừng lại chuyện trò gần cả tiếng đồng hồ trên đường phố. Khi nói về đề tài ẩm thực người phụ nữ cho hay nhím là một đặc sản tuyệt vời.

Ngọc và tôi cảm thấy kinh hãi.

Khi vào buổi tối cùng ngày tôi kể lại câu chuyện này với chồng thì anh cười và nhận xét rằng người Việt Nam cũng chẳng hơn gì. Anh nói rằng mình vẫn còn nhớ y nguyên cảnh tôi, và đây không phải là lần duy nhất, leo lên một cây cột gì đó để tóm bắt những con chim non còn kêu chim chíp trong tổ và sau đó đã đánh chén chúng như một thứ đặc sản. Tiếp sau đó anh trêu tức tôi bằng cách chỉ về hướng con chó Jicqui của chúng tôi, cười phá lên và nói - ở Việt Nam đây là một món ngon đầu bảng!